Kết quả tầm soát của thang Mini-Cog hơi
thấp hơn thang MMSE về độ nhạy, độ đặc hiệu
và độ chuẩn xác. Nhưng sự khác biệt này cũng
dễ hiểu khi chúng ta nhìn vào thành phần của
hai thang điểm và tính phức tạp của hai thang
điểm. Tuy vậy, sự khác biệt này gần như không
đáng kể khi nhìn vào phân tích đường cong
ROC của thang Mini-Cog và MMSE với diện
tích dưới đường cong lần lượt là 0.90 và 0.92 và
nhìn vào mức độ đồng ý kiến trong 90% trường
hợp của hai thang đánh giá này. Do đó, bác sĩ
đa khoa hoàn toàn có thể dùng thang Mini-Cog
thay thang MMSE để tầm soát sa sút trí tuệ.
KẾT LUẬN
Hiện nay, phần lớn bệnh nhân sa sút trí tuệ
đến phòng khám trí nhớ có mức độ bệnh ở giai
đoạn trung bình và nặng nên kết quả điều trị rất
hạn chế. Do đó, tầm soát phát hiện sớm sa sút trí
tuệ là một việc làm rất cần thiết, nó giúp điều trị
sớm cho bệnh nhân và có biện pháp loại trừ đi
các yếu tố nguy cơ để làm chậm tiến triển của
bệnh. Thang điểm Mini-Cog là một thang điểm
đơn giản, rất dễ sử dụng trên lâm sàng với độ
nhạy, độ đặc hiệu và độ chuẩn xác cao nên thực
sự là một dụng cụ cần thiết cho các bác sĩ đa
khoa trong đánh giá trí nhớ và tầm soát sa sút trí
tuệ
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 08/02/2022 | Lượt xem: 168 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị của thang điểm mini-Cog trong tầm soát sa sút trí tuệ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Lão Khoa 81
GIÁ TRỊ CỦA THANG ĐIỂM MINI-COG
TRONG TẦM SOÁT SA SÚT TRÍ TUỆ
Trần Công Thắng*
TÓM TẮT
Cơ sở: Sa sút trí tuệ là một bệnh lý não tiến triển. Hiện nay có nhiều phương pháp điều trị được đề nghị và
có kết quả nếu được dùng sớm, do đó tầm soát phát hiện sớm sa sút trí tuệ tại các phòng khám đa khoa trở thành
một nhiệm vụ quan trọng. Thang điểm Mini-Cog, kết hợp test nhớ 3 từ và test vẽ đồng hồ để đánh giá vừa chức
năng trí nhớ và chức năng điều hành, có thể giúp phát hiện sớm sa sút trí tuệ do nhiều nguyên nhân.
Mục tiêu: Đánh giá độ nhạy, độ đặc hiệu và độ chuẩn xác của thang Mini-Cog trong việc phát hiện sa sút
trí tuệ ở người Việt Nam có than phiền về trí nhớ. So sánh thang Mini-Cog với thang MMSE, một thang điểm
đã được kiểm định trong đánh giá sa sút trí tuệ.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang. Có tất cả 102 bệnh nhân than phiền suy giảm trí nhớ,
đến khám tại Phòng khám Trí nhớ của Bệnh viện ĐHYD TP.HCM từ tháng 7 năm 2005 đến tháng 4 năm 2006,
được đưa vào nghiên cứu. Các bệnh nhân được khám thần kinh, đánh giá theo thang điểm MMSE, CDR và
Mini-Cog. Chẩn đoán sa sút trí tuệ được dựa vào tiêu chuẩn DSM-IV và khám lâm sàng bởi các bác sĩ chuyên
khoa về sa sút trí tuệ.
Kết quả: Mini-Cog có độ nhạy, độ đặc hiệu và độ chuẩn xác khá cao (lần lượt là 88,6%; 91,4%; và 90,2%).
Kết quả này cũng tương đương với kết quả của thang MMSE (độ nhạy và độ đặc hiệu lần lượt là 90,9%;
93,1%). Mức độ đồng ý giữa thang Mini-Cog và thang MMSE đạt 90% (k = 0.8).
Kết luận: Mini-Cog là một test tầm soát sa sút trí tuệ dễ làm, có giá trị cao, rất thuận tiện cho các bác sĩ đa
khoa sử dụng để phát hiện sa sút trí tuệ.
Từ khóa: Sa sút trí tuệ.
ABSTRACT
MINI-COG IS A POWERFUL SCREENING TEST IN DIAGNOSIS OF DEMENTIA?
Tran Cong Thang * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 58 - 62
Background: Dementia is a progressive brain disease. As more treatments for dementia become available,
especially in the early stage of the disease, screening for dementia in general medical practice becomes an
important mandate. The Mini-Cog test, combining three item recall and clock drawing test to assess both memory
and executive functions, can help us to discover early dementia.
Objective: This study was designed to evaluate the sensitivity, specificity and accuracy of Mini-Cog test in
screening for dementia in Vietnamese people, who complains of some memory impairment. The study also
compared Mini-Cog test and MMSE, a valid test in diagnosis of dementia.
Subjects and Methods: This is a cross-sectional study. There were 102 patients with forgetfullness
complaint, visited Memory Clinic of University Medical Center of HoChiMinh city from June 2005 to April
2006, included in our study. Neurological examination, MMSE test, Clinical Dementia Rating test (CDR), and
Mini-Cog test were carried on in all patients. Dementia diagnosis was based on DSM-IV criteria and clinical
evaluation of specialists on the disease.
* BM Nội Thần Kinh, ĐHYD TP.HCM
Tác giả liên lạc: BS. Trần Công Thắng ĐT: 0903674732 Email: thangtc89@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Lão Khoa 82
Results: Mini-Cog test had highly sensitivity, specificity and accuracy (88.6%, 91.4%, and 90.2%
respectively). The results of Mini-Cog were the same as the results of MMSE in diagnosis of dementia (the
sensitivity and specificity were 90.9%, and 93.1% respectively). In cross-table analysis, the MMSE agreed with
the Mini-Cog in 90% of cases, with a k of 0.80.
Conclusion: Mini-Cog is an easy screening test in diagnosis of dementia. It has high value and is suitable
for general practitioners in discovering dementia.
Key words: Dementia.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sa sút trí tuệ là một rối loạn tiến triển của
não bộ. Người bị sa sút trí tuệ gặp khó khăn
trong ghi nhớ, học tập và giao thiệp. Sau một
thời gian, bệnh sẽ làm cho họ không tự săn
sóc được bản thân.
Nguyên nhân thường gặp nhất của sa sút trí
tuệ là bệnh thoái hóa tuổi già (Alzheimer) và
bệnh lý mạch máu não. Ngoài ra sa sút trí tuệ
còn có thể do các nguyên nhân khác như chấn
thương đầu, bệnh lý chuyển hóa, Cho dù do
nguyên nhân gì, sa sút trí tuệ khi được phát hiện
và điều trị sớm sẽ cho một kết quả tốt hơn nhiều
khi so với điều trị giai đoạn muộn.
Do đó, tìm kiếm các thang điểm có giá trị
cao và dễ thực hiện cho tất cả phòng khám
chuyên khoa cũng như không chuyên khoa sa
sút trí tuệ nhằm tầm soát bệnh ở giai đoạn sớm
là một vấn đề luôn được quan tâm. Mini-Cog là
thang điểm thỏa mãn các yêu cầu này, đây là
thang điểm do tác giả Soo Borson, Đại học
Washington, Hoa Kỳ, mô tả năm 2000(2). Thang
điểm này đã được kiểm định qua nhiều nghiên
cứu tại các nước cho thấy nó có độ nhạy và độ
chuyên biệt khá cao trong tầm soát sa sút trí tuệ.
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này tại thành
phố Hồ Chí Minh nhằm mục đích kiểm định giá
trị chẩn đoán sa sút trí tuệ của thang điểm Mini-
Cog trên người Việt Nam.
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cắt ngang
Có tất cả 102 bệnh nhân, than phiền giảm trí
nhớ đến khám tại phòng khám sa sút trí tuệ BV
ĐHYD TP.HCM từ tháng 7 năm 2005 đến tháng
4 năm 2006, thỏa mãn tiêu chuẩn được đưa vào
nghiên cứu. Tiêu chuẩn chọn bệnh bao gồm:
than phiền giảm trí nhớ, tỉnh táo và giao tiếp
được. Tiêu chuẩn loại trừ bao gồm: liệt tay
thuận nên không sử dụng viết được, trầm cảm
hoặc rối loạn tâm thần. Các bệnh nhân được
khám thần kinh, đánh giá trí nhớ và nhận thức
theo thang điểm MMSE, CDR và Mini-Cog.
Chẩn đoán sa sút trí tuệ được dựa vào tiêu
chuẩn DSM-IV và khám lâm sàng bởi các bác sĩ
chuyên khoa về sa sút trí tuệ.
Thang điểm MMSE (Mini Mental Status
Examination) là một thang điểm đánh giá trạng
thái tâm thần kinh thu gọn. MMSE đã được sử
dụng rộng rãi ở nhiều nước để phát hiện và theo
dõi sự suy giảm nhận thức ở người già. Cần
khoảng 10-15 phút để phỏng vấn làm test này.
Thang điểm từ 0 đến 30 điểm này đánh giá được
các vùng chức năng: định hướng về thời gian và
không gian (10 điểm), sự ghi nhận (3 điểm), sự
chú ý và làm toán (5 điểm), trí nhớ gần (3 điểm),
ngôn ngữ và chức năng thực hiện các hoạt động
kết hợp (8 điểm) và cấu trúc thị giác (1 điểm).
Khả năng bị sa sút trí tuệ khi bệnh nhân có dưới
25 điểm.
Thang điểm Mini-Cog được tác giả Soo
Borson, Đại học Washington, Hoa Kỳ, và cộng
sự mô tả năm 2000. Thang điểm Mini-Cog kết
hợp test nhớ lại 3 từ (3 item recall test) và test
vẽ đồng hồ (Clock Drawing test). Bệnh nhân
được nghe 3 từ quen thuộc, và được yêu cầu
nhắc lại sau khi thực hiện xong test vẽ đồng
hồ. Về test vẽ đồng hồ, bệnh nhân được yêu
cầu vẽ một vòng tròn lớn, vẽ thêm đầy đủ các
số như số trên mặt đồng hồ, và sau đó vẽ
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Lão Khoa 83
thêm kim dài và kim ngắn chỉ 2:45. Được xem
là vẽ đồng hồ đúng khi đồng hồ có vòng tròn
tương đối kín, đủ số, số đúng vị trí và kim chỉ
tương đối đúng 2:45. Bệnh nhân được kết luận
có khả năng bệnh nhân bị sa sút trí tuệ khi
không nhớ được từ nào hoặc chỉ nhớ được 1-2
từ nhưng lại vẽ đồng hồ không đúng.
CDR (Clinical Dementia Rating Scale) là một
thang điểm phân độ trí tuệ trên lâm sàng. Thang
điểm này dựa vào mức độ thay đổi của trí nhớ,
định hướng, khả năng đánh giá và giải quyết
vấn đề, khả năng tham gia hoạt động xã hội, khả
năng thực hiện việc nhà và thú vui, và khả năng
chăm sóc bản thân để chia trí tuệ ra các nhóm
bình thường, suy giảm nhận thức nhẹ và sa sút
trí tuệ.
Theo tiêu chuẩn DSM-IV, chẩn đoán sa sút
trí tuệ khi bệnh nhân có suy giảm trí nhớ và một
trong các chức năng nhận thức (ngôn ngữ, sử
dụng động tác, nhận biết đồ vật và chức năng
điều hành lên kế hoạch) và sự suy giảm này
phải đủ nặng để ảnh hưởng lên sinh hoạt hoặc
công việc hàng ngày.
Phương pháp thống kê
Phép kiểm Chi-bình phương, t Student và
Kappa lần lược được dùng để đánh giá mối
tương quan của các biến định tính và định
lượng. Kết quả chẩn đoán sa sút trí tuệ của
thang điểm Mini-Cog và MMSE được so sánh
với kết quả chẩn đoán sa sút trí tuệ theo tiêu
chuẩn DSM-IV và thang điểm CDR, và trên cơ
sở đó, độ nhạy và độ đặc hiệu của thang điểm
được xác định với khoảng tin cậy 95%.
KẾT QUẢ
Mẫu nghiên cứu gồm 102 BN với các đặc
điểm sau:
Bảng 1: Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Biến Đặc điểm
Nam 37 (36,3%) Giới
Nữ 65 (63,7%)
Biến Đặc điểm
Tuổi trung bình (năm) 56,4 [20-87]
Có sa sút trí tuệ 68,2
Không sa sút trí tuệ 47,5
Học vấn trung bình (năm học) 9 [0-18]
Nhóm sa sút trí tuệ 7
Nhóm không sa sút trí tuệ 11
Bình thường 39 (38,2%)
MCI 19 (18,6%)
Sa sút trí tuệ nhẹ 20 (19,6%)
Sa sút trí tuệ trung bình 17 (16,7%)
Mức độ trí tuệ
(theo CDR)
Sa sút trí tuệ nặng 7 (6,9%)
Mối quan hệ giữa kết quả tầm soát sa sút trí
tuệ bằng thang điểm MMSE và Mini-Cog với kết
quả chẩn đoán sa sút trí tuệ trên lâm sàng được
trình bày lần lược ở bảng 2 và 3.
Bảng 2: Bảng chéo 22 mô tả mối quan hệ giữa chẩn
đoán sa sút trí tuệ theo MMSE (điểm cắt ở 24) với
chẩn đoán sa sút trí tuệ trên lâm sàng.
Sa sút trí tuệ
MMSE Không Có
MMSE >
24
54 4 Giá trị chẩn đoán âm=
54/59 (93,1%)
MMSE ≤
24
4 40 Giá trị chẩn đoán
dương= 40/44 (90,9%)
Độ đặc hiệu
= 54/58
(93,1%)
Độ nhạy =
40/44
(90,9%)
Độ chuẩn xác = 94/102
(92,1%)
Với Chi-bình phương (1/101) = 71.99, p < 0.001.
Bảng 3: Bảng chéo 22 mô tả mối quan hệ giữa chẩn
đoán sa sút trí tuệ theo Mini-Cog với chẩn đoán sa sút
trí tuệ trên lâm sàng.
Sa sút trí tuệ
Mini-
Cog
Không Có
Âm tính 53 5 Giá trị chẩn đoán
âm= 53/58 (91,4%)
Dương
tính
5 39 Giá trị chẩn đoán
dương= 39/44
(88,6%)
Độ đặc hiệu =
53/58 (91,4%)
Độ nhạy =
39/44
(88,6%)
Độ chuẩn xác =
92/102 (90,2%)
Với Chi-bình phương (1/101) = 65,30, p < 0,001.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Lão Khoa 84
Hình 1: Đường cong ROC mô tả giá trị của các
thang MMSE và Mini-Cog
Theo các đặc điểm mô tả trong bảng 2 và 3,
thang MMSE và Mini-Cog lần lượt có độ nhạy là
90,9% và 88,6%, độ đặc hiệu là 93,1% và 91,4%,
và độ chuẩn xác là 92,1% và 90,2%. Trong phân
tích bảng chéo, thang Mini-Cog đồng ý kiến với
thang MMSE trong 90% trường hợp với hệ số
Kappa 0,80 (đồng ý khá cao).
BÀN LUẬN
Hiện nay, các thang đánh giá tâm thần
kinh dùng để tầm soát sa sút trí tuệ đã được
đề ra rất nhiều. Tuy nhiên trong thực tế, gần
như chỉ một vài thang điểm được sử dụng, đó
các thang điểm có các đặc điểm dễ dùng, mất
ít thời gian và độ chính xác chấp nhận được.
Mini-Cog là một thang điểm tầm soát sa sút
trí tuệ có đủ các đặc điểm đó nên nó là một
trong ba thang điểm được chấp nhập nhiều
nhất của các bác sĩ đa khoa.(1,3,4) Thang Mini-
Cog chỉ cần 2-3 phút để hoàn thành, với độ
nhạy, độ chuyên biệt và độ chuẩn xác khá
cao. Mini-Cog có cấu tạo gồm test nhớ lại 3 từ
và test vẽ đồng hồ nên nó gần như không lệ
thuộc vào ngôn ngữ và học vấn cao. Mặc
khác, Mini-Cog có thể đánh giá vừa trí nhớ
(thông qua test nhớ 3 từ) vừa đánh giá được
nhận thức, đặc biệt là chức năng sắp xếp điều
tiết, thị giác không gian (thông qua test vẽ
đồng hồ) nên nó có thể phát hiện được nhiều
thể sa sút trí tuệ như Alzheimer, sa sút trí tuệ
mạch máu,.(4).
Thang MMSE được thiết lập từ năm 1975
và đã được chấp nhận sử dụng rộng rãi với
độ chuẩn xác khá cao. Tuy nhiên, do thang
này khá dài (30 điểm), cần khoảng 7-10 phút
để hoàn thành và lại bị ảnh hưởng nhiều yếu
tố như ngôn ngữ, học vấn, thị lực, thính lực
nên gây khó khăn cho các bác sĩ đa khoa trong
việc đánh giá(4).
Theo nghiên cứu chúng tôi, Mini-Cog có độ
nhạy, độ chuyên biệt và độ chuẩn xác cao hơn
kết quả của các nghiên cứu trước đây của các tác
giả khác (bảng 4). Điều này có thể giải thích
thông qua đặc điểm về tuổi tác và học vấn của
dân số trong nghiên cứu chúng tôi. Do mục tiêu
nghiên cứu là đánh giá vai trò của thang Mini-
Cog trong tầm soát sa sút trí tuệ ở người có than
phiền giảm trí nhớ nên chúng tôi không giới
hạn tuổi của đối tượng nghiên cứu. Tuổi trung
bình của nghiên cứu chúng tôi là 56 và học vấn
trung bình là lớp 9/12, do đó bệnh nhân không
bị sa sút trí tuệ sẽ ít gặp khó khăn trong tính
toán, vẽ đồng hồ, nên kết quả đánh giá sẽ có
độ nhạy và độ chuyên biệt cao hơn các nghiên
cứu khác. Trừ nghiên cứu của Scanlan và cộng
sự, độ nhạy và độ đặc hiệu của Mini-Cog rất cao
(97% và 95%) do nghiên cứu đã loại ra nhóm
bệnh nhân MCI, là nhóm trung gian giữa sa sút
trí tuệ và bình thường.
Bảng 4: Kết quả đánh giá thang điểm Mini-Cog của
các tác gia
Nghiên cứu Chuẩn so
sánh
Tuổi trung
bình
Độ nhạy Độ đặc
hiệu
Wilber ST,
2005 (6)
MMSE ≤ 23 75 75% 85%
Borson S,
2003 (1)
DSM-III-R,
CDR
73 76% 89%
Scanlan J,
2001 (5)
CERAD,
DSM-IV,
NINCDS-
ADRDA
Người già,
loại đi nhóm
MCI
97% 95%
Chúng tôi,
2006
DSM-IV,
CDR
56 86% 91%
Kết quả tầm soát của thang Mini-Cog hơi
thấp hơn thang MMSE về độ nhạy, độ đặc hiệu
Với diện tích dưới
đường cong ROC của
thang MMSE và Mini-
Cog lần lượt l 0.92 và
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Lão Khoa 85
và độ chuẩn xác. Nhưng sự khác biệt này cũng
dễ hiểu khi chúng ta nhìn vào thành phần của
hai thang điểm và tính phức tạp của hai thang
điểm. Tuy vậy, sự khác biệt này gần như không
đáng kể khi nhìn vào phân tích đường cong
ROC của thang Mini-Cog và MMSE với diện
tích dưới đường cong lần lượt là 0.90 và 0.92 và
nhìn vào mức độ đồng ý kiến trong 90% trường
hợp của hai thang đánh giá này. Do đó, bác sĩ
đa khoa hoàn toàn có thể dùng thang Mini-Cog
thay thang MMSE để tầm soát sa sút trí tuệ.
KẾT LUẬN
Hiện nay, phần lớn bệnh nhân sa sút trí tuệ
đến phòng khám trí nhớ có mức độ bệnh ở giai
đoạn trung bình và nặng nên kết quả điều trị rất
hạn chế. Do đó, tầm soát phát hiện sớm sa sút trí
tuệ là một việc làm rất cần thiết, nó giúp điều trị
sớm cho bệnh nhân và có biện pháp loại trừ đi
các yếu tố nguy cơ để làm chậm tiến triển của
bệnh. Thang điểm Mini-Cog là một thang điểm
đơn giản, rất dễ sử dụng trên lâm sàng với độ
nhạy, độ đặc hiệu và độ chuẩn xác cao nên thực
sự là một dụng cụ cần thiết cho các bác sĩ đa
khoa trong đánh giá trí nhớ và tầm soát sa sút trí
tuệ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Borson S (2004). Should Older Adults Be Screened for Cognitive
Impairment? Medscape General Medicine: 6(1):e48.
©2004 Medscape
2. Borson S, Scanlan JM, et al (2003). The Mini-Cog as a Screen for
dementia: Validation in a Population-Based Sample. J Am
Geriatr Soc: 51:1451–1454.
3. Brodaty et al (2006). What Is the Best Dementia Screening
Instrument for General Practitioners to Use?. Am. J. Geriatr.
Psychiatr: 14: 391-400. Abstract.
4. Lorentz WJ, Scanlan JM, Borson S (2002). Brief screening tests for
dementia. Can J Psychiatry: 47:723–733.
5. Scanlan J, Borson S (2001). The minicog: receiver operating
characteristics with expert and nậive raters. Int J Geriatr
Psychiatry 2001 Feb;16:216–22.
6. Wilber ST, Lofgren SD (2005). An evaluation of two screening
tools for cognitive impairment in older emergency department
patients. Academic Emergency Medicine: 12:612–616.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gia_tri_cua_thang_diem_mini_cog_trong_tam_soat_sa_sut_tri_tu.pdf