Trong nghiên cứu này, việc phân tích đa
biến giúp nhận diện các yếu tố tương quan độc
lập với chẩn đoán TTP là bóng mờ tựa đáy vào
màng phổi và bất kỳ thương tổn mạch máu.
Miniati(12,13) mô tả nhiều yếu tố tương quan độc
lập cho toàn bộ bệnh nhân nghiên cứu hơn (lớn
thất phải, giảm mạch máu phổi, cắt cụt động
mạch phổi, bóng mờ đáy tựa màng phổi, xẹp
phổi dạng đĩa, cơ hoành nâng cao, tràn dịch
màng phổi). Cỡ mẫu nhỏ hơn trong nghiên cứu
chúng tôi có thể là nguyên nhân làm chúng tôi
không phát hiện được vai trò tiên lượng độc lập
của lớn thất phải, xẹp phổi dạng đĩa, cơ hoành
nâng cao, tràn dịch màng phổi trên chẩn đoán
TTP. Dẫu Miniati không có biến phối hợp “bất
kỳ thương tổn mạch máu” giống chúng tôi,
giảm mạch máu phổi, cắt cụt động mạch phổi
cũng được mô tả trong các nghiên cứu của tác
giả này(12,13) như các yếu tố tiên lượng độc lập. Vì
vậy chúng tôi tin rằng thực sự bóng mờ tựa đáy
vào màng phổi và bất kỳ thương tổn mạch máu
là những yếu tố tiên lượng độc lập mạnh mẽ
qua nhiều nghiên cứu. Ý kiến này cũng được
khẳng định thêm với phát hiện trên nhóm bệnh
nhân không bệnh tim phổi trước, yếu tố tiên
lượng độc lập cũng là bóng mờ tựa đáy vào
màng phổi (OR=17,6, ĐTC95% 1,9-159,4) và bất
kỳ thương tổn mạch máu (OR=11,5, ĐTC95%
3,2-40,9).
Khi Stein(18,17) mô tả các biến phối hợp, tác giả
nhận thấy các biến này không giúp phân biệt độ
nặng của các trường hợp TTP. Chúng tôi lần đầu
tiên sử dụng các biến phối hợp này trong chẩn
đoán. Các bệnh nhân trong nghiên cứu là bệnh
nhân nhập viện có tần suất thương tổn chủ mô
cao nên biến phối hợp bất kỳ thương tổn chủ mô
không giúp phân biệt có hoặc không TTP.
Ngược lại, bất kỳ thương tổn mạch máu giúp
phân biệt có và không TTP trên cả 2 nhóm bn:
toàn bộ và nhóm không bệnh tim phổi trước.
Như vậy, việc xem xét biến phối hợp bất kỳ
thương tổn mạch máu qua tổng hợp 4 biến đơn
lẻ (giảm mạch máu phổi khu trú, lớn động mạch
phổi, “phồng động mạch trung tâm, giảm ngọai
biên”, cắt cụt động mạch phổi) mặc dầu có phức
tạp hơn khi sử dụng các biến đơn lẻ nhưng có
thể giúp ích chẩn đoán TTP.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 138 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị của x quang lồng ngực trong chẩn đoán thuyên tắc phổi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 444
GIÁ TRỊ CỦA X QUANG LỒNG NGỰC
TRONG CHẨN ĐOÁN THUYÊN TẮC PHỔI
Lê Thượng Vũ*
TÓM TẮT
Mở đầu: Là một trong những xét nghiệm cơ bản trong tiếp cận chẩn đoán các bệnh nhân có nghi ngờ
thuyên tắc phổi, nghiên cứu thêm X quang lồng ngực có thể giúp cải thiện chẩn đoán thuyên tắc phổi (TTP).
Mục tiêu: Xác định liệu các bất thường X quang đơn lẻ kinh điển và các phối hợp của chúng có giúp chẩn
đoán xác định hoặc loại trừ thuyên tắc phổi.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 68 trong 197 bệnh nhân nghi ngờ thuyên tắc phổi tại khoa Phổi
và khoa Tim mạch, BV Chợ Rẫy từ 8/2007 đến 10/2010, được phát hiện TTP bằng chụp mạch máu phổi cắt lớp.
Các biểu hiện X quang ngực (XQN) được phân tích để tìm độ nhạy, độ chuyên; tỷ số khả dĩ dương LR(+), tỷ số
khả dĩ âm LR(-) ở toàn bộ bệnh nhân và các bệnh nhân không bệnh tim phổi trước.
Kết quả: Các bất thường XQN như bóng mờ tựa đáy vào màng phổi, lớn ĐM phổi, bất kỳ thương tổn
mạch máu là các biến đổi X quang có tương quan có ý nghĩa với sự hiện diện TTP trên toàn bộ bệnh nhân và
trên các bệnh nhân không bệnh tim phổi từ trước. Độ nhạy của các biểu hiện này trên toàn bộ bệnh nhân dao
động giữa 14,7-68,8%, độ chuyên giữa 76,0-98,4%, LR (+) 2,26-9,19, LR(-) 0,54-0,87. Qua phân tích đa biến,
bóng mờ tựa đáy vào màng phổi và bất kỳ thương tổn mạch máu có khả năng tiên lượng độc lập chẩn đoán TTP
ở tất cả các bệnh nhân (tỷ số chênh lần lượt là OR=17,6, ĐTC95% 3,5-87,8 và OR=5,5, ĐTC95% 2,8-10,8);
cũng như với các bệnh nhân không bệnh tim phổi từ trước (tỷ số chênh lần lượt là OR=17,6; ĐTC95% 1,9-
159,4 và OR=11,5; ĐTC95% 3,2-40,9).
Kết luận: X quang ngực có khả năng xác định bệnh thấp đến trung bình. XQN không giúp loại trừ TTP.
Khi có biển đổi XQN hiện diện, xác suất lâm sàng mắc TTP gia tăng. XQN giúp định hướng các bước chẩn
đoán và điều trị tiếp theo.
Từ khoá: X quang ngực, thuyên tắc phổi, chẩn đoán.
ABSTRACT
DIAGNOSTIC VALUE OF CHEST X RAY IN ACUTE PULMONARY EMBOLISM
Le Thuong Vu* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 444 - 450
Background: Being a basic test to approach patients suspected of pulmonary embolism, chest X ray may
help to improve the diagnosis of pulmonary embolism.
Objective: To determine if chest X ray abnormalities or their combinations could help improving the
diagnosis of pulmonary embolism
Method: In 197 patients suspected of pulmonary embolism in Cardiovascular and Pulmonary Medicine
Department, Cho Ray hospital from 8/2007 to 10/2010, 68 patients found PE by multidetector CT angiography.
Sensitivity, specificity, likelyhood ratio was calculated for chest X ray abnormalities in patients without pre-
existence cardio-pulmonary disease and in all patients.
Results: Chest X ray abnormalities (pleural based consolidation, big pulmonary arteries, any pulmonary
* Bộ Môn Nội Tổng Quát, ĐH Y Dược TP Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS Lê Thượng Vũ ĐT: 0913741140 Email: lethuongvu@ump.edu.vn
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 445
vascular abnormalities) were significantly associated with pulmonary embolism in all patients and in patients
without pre-existing cardio-pulmonary diseases. Sensitivities of the three signs in all patients varied between
14.7-68.8%, specificities between 76.0-98.4%, LR (+) 2.26-9.19, LR(-) 0.54-0.87. Multivariables analysis showed
pleural based consolidation, any pulmonary vascular abnormalities were the two independent variables for the
diagnosis of pulmonary embolism in all patients (consecutively, OR=17.6 (95%CI=3.5-87.8) and OR=5.5
(95%CI=2.8-10.8)) and in patients without pre-existence cardio-pulmonary disease (consecutively, OR=17.6
(95%CI=1.9-159.4) and OR=11.5 (95%CI=3.2-40.9)).
Conclusion: Chest X ray had low to moderate capability to confirm pulmonary embolism. CXR could not be
used to rule out pulmonary embolism. When CXR abnormalities exist, the clinical probability increases. CXR
helps in triage of pulmonary embolism suspected patients.
Key words: chest X ray, pulmonary embolism, diagnosis.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh thuyên tắc huyết khối bao gồm huyết
khối tĩnh mạch và thuyên tắc phổi là thường gặp
trên thế giới(1,18). Thuyên tắc phổi (TTP) thường
chiếm 1/3 các trường hợp bệnh thuyên tắc huyết
khối(2). Bệnh giải thích 1% số bệnh nhân nhập
viện do mọi nguyên nhân(18). Tuy vậy, thuyên
tắc phổi chỉ mới được báo cáo lẻ tẻ và hiện vẫn
được coi là hiếm gặp tại Việt Nam(8,9,10,11).
Khác với TTP, nhiều dữ liệu ủng hộ huyết
khối tĩnh mạch tại Việt nam có tần suất tương tự
các nước phương tây(7,15). Leizorovicz phát hiện
tần suất huyết khối tĩnh mạch ở các bệnh nhân
đông nam châu á sau phẫu thuật cao tương tự
các nước phương tây(7). Tần suất huyết khối tĩnh
mạch không triệu chứng phát hiện qua một
nghiên cứu tầm soát trên các bệnh nhân nội
khoa có nguy cơ là tương tự các quốc gia trên
thế giới(15). Các dữ liệu này cho phép nghĩ đến
một giả thuyết: TTP không là bệnh hiếm gặp tại
Việt Nam. Giả thuyết này có thể đứng vững vì
thuyên tắc phổi là một bệnh khó chẩn đoán do
các triệu chứng lâm sàng không đặc hiệu(1). Các
nghiên cứu tại Việt Nam ghi nhận TTP thường
được chẩn đoán trễ(8,9,10,11). Như vậy chẩn đoán
trễ hay bỏ sót chẩn đoán có thể là nguyên nhân
khiến TTP nói riêng hoặc bệnh lý thuyên tắc
huyết khối nói chung không được phát hiện đủ
hơn là không có tại Việt Nam.
Là một trong những xét nghiệm cơ bản
trong tiếp cận chẩn đoán các bệnh nhân khó thở
hoặc đau ngực có nghi ngờ thuyên tắc phổi, X
quang ngực (XQN) có thể giúp ích phát hiện
hoặc loại trừ TTP(3). Trong y văn thế giới, XQN
được xem là một phương tiện chẩn đoán sẵn có,
rẻ tiền, đơn giản, bên giường bệnh nhưng được
biết là kém nhạy và đặc hiệu(1). Vai trò XQN
trong chẩn đoán thuyên tắc phổi ở Việt nam, nơi
tần suất thuyên tắc phổi không cao thì chưa
được biết(8,11). Chúng tôi tiến hành nghiên cứu
nhằm xem xét liệu các bất thường XQN đơn lẻ
và các phối hợp của chúng có giúp chẩn đoán
xác định hoặc loại trừ TTP.
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định độ nhạy, độ chuyên; tỷ số khả dĩ
dương và âm của các bất thường XQN riêng rẽ
hoặc phối hợp trong chẩn đoán thuyên tắc phổi.
BỆNH NHÂN - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu tiền cứu, mô tả trên các bệnh
nhân nhập khoa Phổi và khoa Tim mạch, BV
Chợ Rẫy từ 8/2007 đến 10/2010.
Tiêu chuẩn nhận bệnh
Các bệnh nhân trên 15 tuổi khi có đau ngực
và/hoặc khó thở hoặc những biểu hiện lâm sàng
khác phù hợp được nghi ngờ TTP bởi các bác sĩ
lâm sàng. Các bác sĩ sẽ chỉ định các xét nghiệm
chẩn đoán gồm lượng giá xác suất lâm sàng mắc
TTP (theo kinh nghiệm), ĐTĐ, X quang ngực,
chụp cắt lớp mạch máu và/hoặc Ddimer.
Tiêu chuẩn loại bệnh
Bệnh nhân không thể chụp CT scanner được
do suy thận, dị ứng thuốc cản quang, tình trạng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 446
lâm sàng quá nặng không di chuyển được hoặc
không được chụp XQN hoặc XQN không chất
lượng tốt, không phân tích được.
Phương pháp lấy mẫu
Lấy mẫu toàn bộ.
Phương pháp tiến hành
Xác suất lâm sàng mắc thuyên tắc phổi được
lựơng giá theo kinh nghiệm của bác sĩ lâm sàng.
Các bệnh nhân bắt buộc chụp CT scanner để
chẩn đoán TTP khi xác suất lâm sàng mắc TTP
không thấp và/hoặc Ddimers dương tính. Tất cả
bệnh nhân được chụp cắt lớp với máy đa đầu
dò, phổ biến là 4 và một số ít bệnh nhân là máy
64 đầu dò (detector) (giai đoạn cuối 2009 đầu
2010 của nghiên cứu). Thuyên tắc phổi được
chẩn đoán theo hướng dẫn ESC 2008(1), khi bệnh
nhân có hình ảnh khuyết thuốc (huyết khối)
trong các động mạch phổi trên chụp mạch máu
phổi cắt lớp. Các bệnh nhân được coi là có bệnh
tim trước khi có bệnh van tim, bệnh mạch vành,
nhồi máu cơ tim, suy tim trái hoặc phải, thuyên
tắc phổi và bệnh phổi trước khi có hen, bệnh
phổi tắc nghẽn mãn, bệnh phổi mô kẽ, lao(18).
XQN được phân tích mà không có thông tin về
chẩn đoán xác định. Các tổn thương X quang
được phân tích theo Stein(18). Giảm mạch máu
phổi khu trú được dùng thay vì sử dụng tên
riêng là dấu Westermark(18). Cũng vậy lớn động
mạch phổi (hoặc phồng hoặc dãn) được sử dụng
thay cho dấu Fleischner(2). Bóng mờ tựa đáy vào
màng phổi cho các tổn thương nhồi máu kể cả
thay cho gù Hampton(18). Các thương tổn phối
hợp từng được định nghĩa dưới đây: bất kỳ tổn
thương chủ mô khi bệnh nhân có ít nhất một
trong các biểu hiện sau: tổn thương chủ mô
không đặc hiệu, bóng mờ tựa đáy vào màng
phổi và xẹp phổi dạng đĩa, cơ hoành nâng cao;
bất kỳ tổn thương mạch máu khi bệnh nhân có một
trong các biểu hiện: giảm mạch máu phổi khu
trú, lớn động mạch (ĐM) phổi, “phồng động
mạch trung tâm, giảm ngọai biên”, cắt cụt động
mạch phổi.
Phân tích thống kê
Biến số liên tục được trình bày dưới dạng
trung bình ± ĐLC (độ lệch chuẩn), nếu phân bố
chuẩn hoặc trung vị kèm theo giá trị tối đa và
giá trị tối thiểu. Biến số định danh được trình
bày dưới dạng giá trị tuyệt đối hay phần trăm.
Tương quan của các biến định danh được phân
tích qua bảng 2X2 với phép kiểm chi bình
phương hoặc Fisher’s exact. Khả năng tiên
lượng độc lập của các biến với chẩn đoán TTP
được kiểm định bằng phép hồi quy logistic. Xác
định độ nhạy, độ đặc hiệu, tỉ số khả dĩ
(likelihood ratio-LR) dương và âm, của các bất
thường XQN trong chẩn đoán TTP. Giá trị
p<0,05 được xem như có ý nghĩa thống kê. Xử lý
thống kê bằng phần mềm SPSS 15.
KẾT QUẢ
Đặc điểm cơ bản của mẫu nghiên cứu
Có 197 bệnh nhân được nhận vào nghiên
cứu. Đặc điểm cơ bản của các bệnh nhân nghiên
cứu được trình bày trong bảng 1.
Bảng 1: Đặc điểm cơ bản của mẫu nghiên cứu
Các đặc điểm cơ bản Kết quả#
Nam (n) 122 (61,9%)
Tuổi (năm) 62,3±17
Thuyên tắc phổi 68 (34,5%)
Bệnh tim phổi trước 122 (61,9%)
Tỷ lệ bệnh nhân có yếu tố nguy cơ 174 (88,3%)
Số yếu tố nguy cơ trung bình/1 bn 1,3±0,8
Cơ năng
Khó thở 176 (89,3%)
Kiểu màng phổi 93 (47,2%) Đau ngực
Nặng ngực 25 (12,7%)
Ho máu 32 (16,2%)
Thực thể
Phù 1 bên chi 15 (7,6%)
Mạch (lần/phút) 100,9±13,2
Nhịp thở (lần/phút) 21,8±3,3
Huyết áp tâm thu (mmHg) 111,9±9,2
Huyết áp tâm trương (mmHg) 69,0±11,8
Nhiệt độ (oC) 37,4±0,6
Chỉ số sốc 0,93±0,13
SpO2 (%) 92,9±4,5
#: kết quả trình bày theo tần số n (tần suất=n/197 (%)),
hoặc trung bình±ĐLC
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 447
Các bất thường XQN ở bệnh nhân không và có TTP
Bảng 2: Các bất thường XQN ở bệnh nhân không và có TTP
Toàn bộ bệnh nhân (n=197) Không bệnh tim phổi trước (n=75)
TTP (n=68) KhôngTTP (n=129) P* TTP (n=36) KhôngTTP (n=39) P*
TT chủ mô 79,4% 68,8% NS 83,3% 84,6% NS
Bóng mờ tựa đáy vào màng phổi 14,7% 1,6% 0,001 22,2% 2,6% 0,024
Xẹp phổi dạng đĩa 11,8% 3,9% NS 16,7% 5,1% NS
Tràn dịch màng phổi 54,4% 38,8% NS 66,7% 38,5% 0,027
Cơ hoành nâng cao 30,9% 28,7% NS 33,3% 25,6% NS
Giảm mạch máu phổi 20,6% 1,6% <0,0005 8,3% 2,6% NS
Lớn ĐM phổi 42,1% 18,6% 0,001 38,9% 7,7% 0,003
Phồng trung tâm, giảm ngoại biên 8,8% 1,6% 0,038 5,6% 0,0% NS
Cắt cụt ĐM phổi 8,8% 0,8% 0,013 8,3% 0,0% NS
Tim to 38,2% 26,4% NS 25,0% 15,4% NS
Phù phổi 0,0% 0,8% NS 0,0% 0,0% NS
Tái phân bố mạch máu 5,9% 4,7% NS 8,3% 0,0% NS
X quang bình thường 2,9% 0,8% NS 5,6% 0,0% NS
Bất kỳ TT chủ mô 89,7% 95,3% NS 91,7% 97,4% NS
Bất kỳ TT mạch máu 58,8% 24,0% <0,0005 50,0% 10,3% <0,0005
*: chi bình phương; TT: tổn thương; ĐM: động mạch; NS:
không khác biệt có ý nghĩa.
Với toàn bộ bệnh nhân nghiên cứu, bóng mờ
tựa đáy vào màng phổi, giảm mạch máu phổi,
lớn ĐM phổi, “phồng trung tâm, giảm ngoại
biên”, cắt cụt ĐM phổi, bất kỳ thương tổn mạch
máu hiện diện nhiều hơn có ý nghĩa thống kê
trên các bệnh nhân thuyên tắc phổi. Như vậy,
các biến đổi XQN này tương quan có ý nghĩa với
chẩn đoán TTP. Sau khi loại các bệnh nhân có
bệnh tim phổi từ trước, bóng mờ tựa đáy vào
màng phổi, tràn dịch màng phổi, lớn ĐM phổi,
bất kỳ thương tổn mạch máu tương quan có ý
nghĩa với chẩn đoán TTP. Trong nghiên cứu
này, bóng mờ tựa đáy vào màng phổi, lớn ĐM
phổi, bất kỳ thương tổn mạch máu là các biến
đổi X quang có tương quan hằng định với sự
hiện diện TTP trên toàn bộ bệnh nhân hoặc trên
các bệnh nhân không bệnh tim phổi từ trước.
Các giá trị chẩn đoán của các thông số này được
trình bày trong bảng 3 với độ nhạy dao động
8,8-67%, độ chuyên 61,5-99,2%%, LR (+) 1,73-
12,88, LR(-) 0,54-0,92.
Bảng 3: Giá trị chẩn đoán của các dấu hiệu XQN trên toàn bộ bệnh nhân và trên những bệnh nhân không bệnh
tim phổi trước
Toàn bộ bệnh nhân (n=197) Không bệnh tim phổi trước (n=75) Bất thường XQN
Độ nhạy Độ đặc hiệu LR (+) LR (-) Độ nhạy Độ đặc hiệu LR (+) LR (-)
Bóng mờ tựa đáy vào màng phổi 14,7% 98,4% 9,19 0,87 22,2% 97,4% 8,54 0,80
Tràn dịch màng phổi 66,7% 61,5% 1,73 0,54
Giảm mạch máu phổi 20,6% 98,4% 12,88 0,81
Lớn ĐM phổi 42,1% 81,4% 2,26 0,71 38,9% 92,3% 5,05 0,66
Phồng trung tâm, giảm ngoại biên 8,8% 98,4% 5,50 0,93
Cắt cụt ĐM phổi 8,8% 99,2% 11,00 0,92
Bất kỳ thương tổn mạch máu 58,8% 76,0% 2,45 0,54 50,0% 89,7% 4,85 0,56
Khi tiến hành phân tích đa biến, chúng tôi
ghi nhận hai biến đổi XQN có khả năng tiên
lượng độc lập (so với các biểu hiện XQN khác)
cho chẩn đoán TTP ở tất cả các bệnh nhân không
phân biệt tiền căn là bóng mờ tựa đáy vào màng
phổi (OR=17,6, ĐTC95% 3,5-87,8) và bất kỳ
thương tổn mạch máu (OR=5,5, ĐTC95% 2,8-
10,8); với các bệnh nhân không bệnh tim phổi từ
trước, yếu tố tiên lượng độc lập cũng là bóng mờ
tựa đáy vào màng phổi (OR=17,6, ĐTC95% 1,9-
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 448
159,4) và bất kỳ thương tổn mạch máu (OR=11,5,
ĐTC95% 3,2-40,9).
BÀN LUẬN
Các bệnh nhân trong nghiên cứu có độ tuổi
trung bình thường gặp của các nghiên cứu
tương tự(8,9,10). Tỷ lệ nam: nữ phù hợp nghiên cứu
đã báo cáo của chúng tôi trước đây(9,10). Tần suất
thuyên tắc phổi 34,5% là tương tự y văn (10-
40%)(2). Đa số bệnh nhân có biểu hiện nghi ngờ
thuyên tắc phổi với 89% khó thở, 60% đau ngực
phù hợp tiêu chuẩn thu dung.
Các nghiên cứu khảo sát vai trò X quang
trong chẩn đoán TTP khác nhau về nhiều
điểm. Vài nghiên cứu trong y văn(4,6) chỉ mô tả
tần suất các tổn thương X quang mà không so
sánh với nhóm chứng để thấy được tổn
thương nào thực sự tương quan có ý nghĩa với
thuyên tắc phổi, nhưng cho phép có một cái
nhìn toàn cảnh về tần suất các tổn thương X
quang trên một số rất lớn các trường hợp lâm
sàng. Chúng tôi giống Stollberger(19), Stein(17),
Miniati(12,13), Greenspan(5) và Worsley(20) khảo
sát khả năng chẩn đoán của từng biểu hiện X
quang trong TTP qua việc so sánh với nhóm
chứng. Khác với Greenspan(5), Miniati(12,13) và
Stein(17) không chọn toàn bộ bệnh nhân nghi
TTP, chúng tôi giống Stollberger(19) and
Worsley(20) chọn tất cả bệnh nhân nghi TTP
nằm viện vào nghiên cứu. Worsley(20) thực hiện
nghiên cứu hồi cứu với số bệnh nhân lớn 1063,
với 383 bệnh nhân TTP chẩn đoán bằng chụp
mạch máu phổi trong khi chúng tôi và
Stollberger(19) thực hiện nghiên cứu tiền cứu
trên lần lượt tổng số 198 bệnh nhân và 307 bn;
trong đó lần lượt có 68 và 93 trường hợp TTP
chẩn đoán bằng chụp mạch phổi qua cắt lớp vi
tính. Các X quang trong nghiên cứu của
Greenspan(5) được phân tích bởi BS nội khoa
và BS hình ảnh học, trong nghiên cứu của
Stein một phần bởi BS cấp cứu, trong nghiên
cứu chúng tôi bởi BS nội khoa.
Các bất thường XQN được khẳng định trong
nghiên cứu này là có xuất hiện thường hơn
(bảng 2) trên các bệnh nhân TTP so với các bệnh
nhân không TTP phù hợp hầu hết các nghiên
cứu khác trong y văn(14,16). Tuy nhiên, về chi tiết,
các nghiên cứu khác nhau có thể chỉ ra những
biểu hiện XQN khác biệt có ý nghĩa khác nhau.
Trên toàn bộ bn, Worsley(20) ghi nhận chỉ giảm
mạch máu phổi (Westermark) có khác biệt giữa
2 nhóm, với Miniati(12,13) là lớn thất phải, giảm
mạch máu phổi, cắt cụt động mạch phổi, đông
đặc kiểu nhồi máu (bóng mờ đáy tựa màng
phổi), xẹp phổi dạng đĩa, cơ hoành nâng cao,
tràn dịch màng phổi và chúng tôi là bóng mờ
tựa đáy vào màng phổi, giảm mạch máu phổi,
lớn ĐM phổi, “phồng trung tâm, giảm ngoại
biên”, cắt cụt ĐM phổi, bất kỳ thương tổn mạch
máu. Nhìn chung, giảm mạch máu phổi khu trú
là biểu hiện giúp phân biệt có và không TTP
trong nhóm toàn bộ bệnh nhân được xác nhận
qua nhiều nghiên cứu.
Trên nhóm bệnh nhân không bệnh tim phổi
trước nhằm loại bớt ảnh hưởng gây nhiễu của
các bệnh cơ bản, Stein ghi nhận giảm mạch máu
phổi, bóng mờ đáy tựa màng phổi, xẹp phổi
dạng đĩa hoặc bất thường chủ mô, tràn dịch
màng phổi có khác biệt ý nghĩa giữa 2 nhóm có
và không TTP; với chúng tôi là bóng mờ tựa đáy
vào màng phổi, tràn dịch màng phổi, lớn ĐM
phổi, bất kỳ thương tổn mạch máu. Sự khác biệt
một phần do Stein(16) chọn tùy ý các bn, chúng
tôi dùng toàn bộ; Stein(16) dùng các bệnh nhân
cấp cứu, chúng tôi bệnh nhân nhập viện và
Stein(16) có số bệnh nhân lớn hơn chúng tôi đáng
kể (364 so với 75). Tuy nhiên, bóng mờ tựa đáy
vào màng phổi, tràn dịch màng phổi lại là các
biến cùng được Stein(16) và chúng tôi mô tả giúp
phân biệt có và không TTP trên nhóm bệnh
nhân không bệnh tim phổi trước này.
Về khả năng chẩn đoán, các biểu hiện khác
biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm có và không TTP
trong nghiên cứu này giúp chẩn đoán với độ
nhạy dao động 8,8-67%, độ chuyên 61,5-99,2%%,
LR (+) 1,73-12,88, LR(-) 0,54-0,92. Các biểu hiện
có độ chuyên và tỷ số khả dĩ dương cao (>10)
như giảm mạch máu phổi và cắt cụt động mạch
phổi đáng tiếc lại có độ nhạy rất thấp 8,8 và
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 449
20,6% vì vậy ít hữu dụng trên lâm sàng(20). Riêng
bóng mờ tựa đáy vào màng phổi, lớn ĐM phổi,
bất kỳ thương tổn mạch máu là các biến đổi X
quang có tương quan có ý nghĩa với sự hiện
diện TTP trên cả 2 nhóm: toàn bộ bệnh nhân và
các bệnh nhân không bệnh tim phổi từ trước. Độ
nhạy của các biểu hiện này trên toàn bộ bệnh
nhân dao động giữa 14,7-68,8%, độ chuyên giữa
76,0-98,4%, LR (+) 2,26-9,19, LR(-) 0,54-0,87.
Nhưng LR(+) này cũng chỉ được phân loại là khả
năng xác định bệnh thấp (LR(+) từ 2-5) và trung
bình (LR(+) từ 5-10). Tất cả các LR(-) đều không
đủ nhỏ để loại trừ TTP. Điều này giúp xác nhận
vai trò các bất thường XQN là làm gia tăng xác
suất mắc TTP trên lâm sàng, tương tự kết luận
Miniati(12,13) và Stollberger(19). X quang ngực chính
vì vậy nên được dùng như là xét nghiệm cận
lâm sàng bước một hay còn gọi là bên giường
bệnh phối hợp với các xét nghiệm bên giường
bệnh khác như ECG và khí máu, giúp lượng giá
nguy cơ lâm sàng của TTP(17). Các biểu hiện
XQN góp phần xác định nguy cơ mắc TTP trong
các thang điểm lượng giá xác suất mắc
TTP(12,13,14,16,17).
Trong nghiên cứu này, việc phân tích đa
biến giúp nhận diện các yếu tố tương quan độc
lập với chẩn đoán TTP là bóng mờ tựa đáy vào
màng phổi và bất kỳ thương tổn mạch máu.
Miniati(12,13) mô tả nhiều yếu tố tương quan độc
lập cho toàn bộ bệnh nhân nghiên cứu hơn (lớn
thất phải, giảm mạch máu phổi, cắt cụt động
mạch phổi, bóng mờ đáy tựa màng phổi, xẹp
phổi dạng đĩa, cơ hoành nâng cao, tràn dịch
màng phổi). Cỡ mẫu nhỏ hơn trong nghiên cứu
chúng tôi có thể là nguyên nhân làm chúng tôi
không phát hiện được vai trò tiên lượng độc lập
của lớn thất phải, xẹp phổi dạng đĩa, cơ hoành
nâng cao, tràn dịch màng phổi trên chẩn đoán
TTP. Dẫu Miniati không có biến phối hợp “bất
kỳ thương tổn mạch máu” giống chúng tôi,
giảm mạch máu phổi, cắt cụt động mạch phổi
cũng được mô tả trong các nghiên cứu của tác
giả này(12,13) như các yếu tố tiên lượng độc lập. Vì
vậy chúng tôi tin rằng thực sự bóng mờ tựa đáy
vào màng phổi và bất kỳ thương tổn mạch máu
là những yếu tố tiên lượng độc lập mạnh mẽ
qua nhiều nghiên cứu. Ý kiến này cũng được
khẳng định thêm với phát hiện trên nhóm bệnh
nhân không bệnh tim phổi trước, yếu tố tiên
lượng độc lập cũng là bóng mờ tựa đáy vào
màng phổi (OR=17,6, ĐTC95% 1,9-159,4) và bất
kỳ thương tổn mạch máu (OR=11,5, ĐTC95%
3,2-40,9).
Khi Stein(18,17) mô tả các biến phối hợp, tác giả
nhận thấy các biến này không giúp phân biệt độ
nặng của các trường hợp TTP. Chúng tôi lần đầu
tiên sử dụng các biến phối hợp này trong chẩn
đoán. Các bệnh nhân trong nghiên cứu là bệnh
nhân nhập viện có tần suất thương tổn chủ mô
cao nên biến phối hợp bất kỳ thương tổn chủ mô
không giúp phân biệt có hoặc không TTP.
Ngược lại, bất kỳ thương tổn mạch máu giúp
phân biệt có và không TTP trên cả 2 nhóm bn:
toàn bộ và nhóm không bệnh tim phổi trước.
Như vậy, việc xem xét biến phối hợp bất kỳ
thương tổn mạch máu qua tổng hợp 4 biến đơn
lẻ (giảm mạch máu phổi khu trú, lớn động mạch
phổi, “phồng động mạch trung tâm, giảm ngọai
biên”, cắt cụt động mạch phổi) mặc dầu có phức
tạp hơn khi sử dụng các biến đơn lẻ nhưng có
thể giúp ích chẩn đoán TTP.
KẾT LUẬN
Xquang ngực hết sức quan trọng trong tiếp
cận bệnh nhân TTP vì là một xét nghiệm cơ
bản trên các bệnh nhân lâm sàng đau ngực
và/hoặc khó thở, giúp nhận diện một số bệnh
cảnh lâm sàng đặc hiệu như tràn khí màng
phổi, gãy xương sườn. Các bất thường ĐTĐ
xuất hiện thường hơn có ý nghĩa thống kê ở
các bệnh nhân TTP so với các bệnh nhân
không TTP. Với tỷ số khả dĩ âm không đủ nhỏ,
X quang ngực không giúp loại trừ TTP. Đa số
các biểu hiện X quang ngực có khả năng xác
định bệnh thấp đến trung bình. Một số có khả
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 450
năng xác định bệnh cao nhưng rất có độ nhạy
rất thấp vì vậy ít hữu dụng trên lâm sàng. Khi
có biển đổi X quang ngực hiện diện, xác suất
mắc lâm sàng gia tăng giúp định hướng chẩn
đoán và điều trị tiếp theo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Authors/Task Force, M., Torbicki, A., Perrier, A.,
Konstantinides, S., Agnelli, G., Galie, N., et al. (2008),
"Guidelines on the diagnosis and management of acute
pulmonary embolism: The Task Force for the Diagnosis and
Management of Acute Pulmonary Embolism of the European
Society of Cardiology (ESC)". Eur Heart J, 29(18), 2276-2315.
2. Beek, E. J. R. v., Bller, H. R., Oudkerk, M. (2009), Deep vein
thrombosis and pulmonary embolism. J. Wiley, Chichester,
West Sussex ; Hoboken, NJ.
3. Brown, G. (2009), "BET 2. DIAGNOSTIC UTILITY OF CHEST
X RAY FOR INVESTIGATION OF PULMONARY
EMBOLISM ". Emergency Medicine Journal, 26(4), 289-290.
4. Elliott, C. G., Goldhaber, S. Z., Visani, L., DeRosa, M. (2000),
"Chest Radiographs in Acute Pulmonary Embolism : Results
From the International Cooperative Pulmonary Embolism
Registry". Chest, 118(1), 33-38.
5. Greenspan, R. H., Ravin, C. E., Polansky, S. M., McLoud, T. C.
(1982), "Accuracy of the chest radiograph in diagnosis of
pulmonary embolism". Invest Radiol, 17(6), 539-543
6. Kerr, I. H., Simon, G., Sutton, G. C. (1971), "The value of the
plain radiograph in acute massive pulmonary embolism". Br.
J. Radiol., 44(526), 751-757.
7. Leizorovicz, A. (2007), "Epidemiology of post-operative
venous thromboembolism in Asian patients. Results of the
SMART venography study". Haematologica, 92(9), 1194-1200
8. Lê Thị Thu Hương, Nguyễn Ngọc Thụy. Báo cáo loạt ca lâm
sàng TTP do huyết khối được chẩn đoán tại bệnh viện Nhân
Dân Gia Định. Y Học TP Hồ Chí Minh 2009;13(phụ bản số
6):103
9. Lê Thượng Vũ, Đặng Vạn Phước. Ứng dụng CT scan xoắn ốc
trong chẩn đoán thuyên tắc phổi. Y Học TP Hồ Chí Minh
2005;9(phụ bản số 1, chuyên đề nội khoa):14
10. Lê Thượng Vũ, Đặng Vạn Phước. Đặc điểm lâm sàng và cận
lâm sàng 22 trường hợp thuyên tắc phổi chẩn đoán tại Chợ
Rẫy. Y Học TP Hồ Chí Minh 2006;10(phụ bản số 1, chuyên đề
nội khoa):32
11. Lê Thượng Vũ, Trần Văn Ngọc. Thuyên tắc phổi. Y Học TP
Hồ Chí Minh 2009;13(phụ bản số 1):1
12. Miniati, M., Prediletto, R., Formichi, B., Marini, C., Di Ricco,
G., Tonelli, L., et al. (1999), "Accuracy of clinical assessment in
the diagnosis of pulmonary embolism". Am J Respir Crit Care
Med, 159(3), 864-871.
13. Miniati, M., Monti, S., Bottai, M. (2003), "A structured clinical
model for predicting the probability of pulmonary
embolism". Am J Med, 114(3), 173-179.
14. Miniati, M., Bottai, M., Monti, S., Salvadori, M., Serasini, L.,
Passera, M. (2008), "Simple and accurate prediction of the
clinical probability of pulmonary embolism". Am J Respir Crit
Care Med, 178(3), 290-294.
15. Nguyễn Văn Trí, Đặng Vạn Phước. Khảo sát huyết khối tĩnh
mạch sâu bằng siêu âm màu duplex trên bệnh nhân nội khoa
cấp tính. Y Học TP Hồ Chí Minh 2009;13(phụ bản số 1,
chuyên đề nội khoa):42
16. Stein, P. D., Terrin, M. L., Hales, C. A., Palevsky, H. I.,
Saltzman, H. A., Thompson, B. T., et al. (1991), "Clinical,
laboratory, roentgenographic, and electrocardiographic
findings in patients with acute pulmonary embolism and no
pre-existing cardiac or pulmonary disease". Chest, 100(3), 598-
603.
17. Stein, P. D., Henry, J. W. (1997), "Clinical characteristics of
patients with acute pulmonary embolism stratified according
to their presenting syndromes". Chest, 112(4), 974-979.
18. Stein, P. D. (2007), Pulmonary embolism (2nd ed.). Williams &
Wilkins, Baltimore
19. Stollberger, C., Finsterer, J., Lutz, W., Stoberl, C., Kroiss, A.,
Valentin, A., et al. (2000), "Multivariate analysis-based
prediction rule for pulmonary embolism". Thromb Res, 97(5),
267-273.
20. Worsley, D. F., Alavi, A., Aronchick, J. M., Chen, J. T., Greenspan,
R. H., Ravin, C. E. (1993), "Chest radiographic findings in patients
with acute pulmonary embolism: observations from the PIOPED
Study". Radiology, 189(1), 133-136.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gia_tri_cua_x_quang_long_nguc_trong_chan_doan_thuyen_tac_pho.pdf