Giá trị của xét nghiệm sinh thiết tủy xương (Mô bệnh học tủy xương - Pathology of bone marrow)
Sinh thiết tủy cũng đặc biệt hữu ích trong việc
đánh giá rối loạn sinh tủy mà trong bệnh lý có
sự tăng sinh xơ trong tủy như bệnh lơ xê mi cấp
thể mẫu tiểu cầu, lơ xê mi tế bào tóc và trong hội
chứng tăng sinh tủy mạn tính.
Việc đánh giá mô học tủy xương cũng rất
cần thiết trong chẩn đoán lơ xê mi cấp thể giảm
bạch cầu và chẩn đoán phân biệt với suy tủy bởi
vì sinh thiết tủy mới giúp cho việc đánh giá sự
xuất hiện và phân bố của các tế bào non ác tính.
Cũng cần nhớ rằng chỉ có xét nghiệm sinh thiết
tủy xương mới là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán
suy tủy xương.
Trong hội chứng rối loạn sinh tủy cũng cho
phép đánh giá sự tập trung của các tế bào non kém
biệt hóa (ALIPs) cũng như đánh giá các mẫu tiểu
cầu bất thường. Trong hoại tử tủy xương cũng như
sự phân bố bất bình thường của chất gelatin trong
tủy cũng được đánh giá tốt hơn trong tiêu bản sinh
thiết tủy hơn là tiêu bản chọc hút tủy.
Việc đánh giá phân bố tế bào tủy cần phải
được gắn liền với độ tuổi của bệnh nhân. Cần nhớ
rằng các khu vực sinh tủy tập trung xung quanh
các bè xương và thường bị mỡ hóa theo tuổi già và
không có nhiều tế bào sinh máu trong những vùng
sâu của tủy xương.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị của xét nghiệm sinh thiết tủy xương (Mô bệnh học tủy xương - Pathology of bone marrow), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
8 Số 81 (Tháng 11/2014)Y HỌC LÂM SÀNG
DIỄN ĐÀN Y HỌC
Chuyên đề trong tháng
GIÁ TRỊ CỦA XÉT NGHIỆM SINH THIẾT TỦY XƯƠNG
(Mô bệnh học tủy xương-Pathology of Bone Marrow)
Vũ Văn Trường*
* Khoa Huyết học - Truyền máu, BV Bạch Mai, HN
1. Giới thiệu
Các tế bào máu bao gồm các hồng cầu, bạch
cầu và mẫu tiểu cầu. Trong cơ thể số lượng các tế
bào máu là luôn hằng định, có được sự hằng định
này là do trong cơ thể luôn luôn diễn ra hai quá
trình: sinh ra các tế bào mới và quá trình phá hủy
các tế bào già đã hết tác dụng, hai quá trình này
luôn luôn cân bằng nhau để giữ cho số lượng tế
bào máu luôn luôn ở mức bình thường.
Tủy xương là nơi sinh ra các tế bào máu.
Hàng ngày tủy xương luôn luôn sinh ra các tế bào
mới để bổ sung cho lượng tế bào đã chết đi. Tủy
xương là khu vực trung tâm của các xương, đó là
khu vực tập trung nhiều tế bào sinh máu cùng với
một hệ thống đệm bao gồm mạch máu, tế bào mỡ,
tế bào liên kết khác: đại thực bào, lympho bào, tạo
cốt bào, hủy cốt bào, tế bào xơ Ở người trưởng
thành tủy xương ở các xương dài và xương dẹt là
nơi sinh máu chủ yếu.
Trong tủy xương có các tế bào máu chưa
trưởng thành gồm tế bào dòng hồng cầu, dòng
bạch cầu hạt và dòng mẫu tiểu cầu. Sự nhân lên
về số lượng (còn gọi là giai đoạn tăng sinh) và
sự thành thục về chức năng (còn gọi là biệt hóa
và trưởng thành) của tế bào máu xảy ra trong tủy
xương, tùy theo nhu cầu của cơ thể mà số lượng
các tế bào máu được sinh ra nhiều hay ít.
Trong một số trường hợp bệnh lý, các tế bào
máu có thể thay đổi, để đánh giá nguyên nhân sự
thay đổi này người ta làm xét nghiệm thăm dò
chức năng tạo máu trên dịch chọc hút tủy xương.
Kỹ thuật xét nghiệm tế bào tủy xương được tiến
hành bởi các bác sỹ chuyên khoa huyết học có
kinh nghiệm, nhưng đôi khi xét nghiệm này cũng
chưa giúp các bác sỹ chẩn đoán chính xác bệnh lý
liên quan đến tạo máu.
Một xét nghiệm có thể bổ sung cho xét
nghiệm chọc hút tủy xương và cũng rất thường
được thực hiện để thăm dò chức năng tạo máu và
cơ quan tạo máu đó là xét nghiệm sinh thiết tủy
xương (hay còn gọi là mô bệnh học tủy xương).
Khi có nhu cầu thăm dò mô bệnh học cơ quan
tạo máu người ta tiến hành xét nghiệm sinh thiết
tủy xương, chỉ có xét nghiệm sinh thiết tủy xương
mới giúp các bác sỹ đánh giá chính xác được mô
học tủy xương, giúp chẩn đoán các bệnh máu và
cơ quan tạo máu cũng như một số bệnh liên quan
mà khi chọc tủy xương có thể không phát hiện
được.
Sinh thiết tủy xương là một loại xét nghiệm
khó và mất rất nhiều thời gian, nó được tiến hành
để quan sát mô học tủy xương và trong một số
trường hợp có thể sử dụng để nhuộm hóa mô miễn
dịch học tủy xương để phục vụ chẩn đoán và điều
trị.
Ở Việt Nam hiện nay không có nhiều cơ sở
y tế có thể thực hiện được xét nghiệm sinh thiết
tủy xương.
9Số 81 (Tháng 11/2014) Y HỌC LÂM SÀNG
DIỄN ĐÀN Y HỌC
Chuyên đề trong tháng
Dụng cụ quan trọng nhất để sinh thiết tủy
xương là kim sinh thiết tủy xương. Có nhiều loại
kim sinh thiết tủy xương nhưng loại kim sinh thiết
tủy xương thường được sử dụng là kim Jamshidi,
cỡ 8 gauge để sinh thiết tủy xương cho người lớn
và cỡ 11 gauge để sinh thiết tủy xương cho trẻ
em. Kim có thể là loại sử dụng một lần hoặc tái
sử dụng.
2. Chỉ định và chống chỉ định
2.1. Chỉ định
Thủ thuật sinh thiết tủy xương là một thủ thuật
không dễ chịu cho bệnh nhân và có thể mang lại
một số nguy cơ đó là chảy máu nơi sinh thiết, một
số trường hợp chảy máu kéo dài như là hậu quả
của sinh thiết tủy xương. Vì vậy các xét nghiệm
về tế bào máu cần được lưu ý trước khi làm sinh
thiết tủy.
Có nhiều quan điểm về chỉ định sinh thiết tủy
xương, có sự khác nhau giữa các nhà huyết học
và một số chuyên khoa khác. Nhưng có thể liệt
kê chỉ định sinh thiết tủy xương trong các trường
hợp sau:
Chỉ định bắt buộc
- Kiểm tra các trường hợp nghi ngờ bệnh
U lympho Hodgkin và U lympho không Hodgkin.
- Các giai đoạn U lympho không Hodgkin.
- Chẩn đoán và theo dõi bệnh Lơ xê mi tế
bào tóc.
- Đánh giá và theo dõi bệnh Lơ xê mi kinh
dòng lympho.
- Chẩn đoán có nghi ngờ ung thư di căn.
- Chẩn đoán, các giai đoạn và theo dõi ung
thư tế bào nhỏ ở trẻ em.
- Kiểm tra các trường hợp nghi ngờ bệnh về
các bệnh thuộc hội chứng tăng sinh tủy (đa hồng
cầu nguyên phát, tăng tiểu cầu nguyên phát, xơ
tủy nguyên phát và tăng mastocyte hệ thống).
- Chẩn đoán suy tủy, hội chứng rối loạn sinh
tủy thể giảm tế bào tủy và Lơ xê mi cấp dòng tủy
thể giảm tế bào.
- Kiểm tra các trường hợp nghi ngờ trên tiêu
bản máu có các tế bào non dòng hồng cầu và bạch
cầu mà không giải thích được.
- Kiểm tra các trường hợp sốt không rõ
nguyên nhân.
- Kiểm tra các trường hợp nghi ngờ bệnh
về xương.
- Đánh giá bất cứ trường hợp bệnh nhân
nào mà chọc hút tủy không hút được dịch tủy.
- Kiểm tra các bệnh nhân có nghi ngờ đa u
tủy xương và kiểm tra những bệnh nhân có tăng
protein mà không có bằng chứng là bệnh nhân đa
u tủy xương.
Chỉ định không bắt buộc
- Kiểm tra các trường hợp nghi ngờ bệnh lơ
xê mi cấp.
- Kiểm tra các trường hợp nghi ngờ bệnh
hội chứng rối loạn sinh tủy.
- Đánh giá giai đoạn U lympho Hodgkin.
- Đánh giá bệnh lơ xê mi kinh dòng bạch
cầu hạt trung tính.
- Kiểm tra các trường hợp nghi ngờ bệnh
amyloidosis nguyên phát.
Phần trên đã mô tả các chỉ định bắt buộc và
không bắt buộc, như vậy chỉ định có thể tóm tắt
như sau:
- Thất bại trong chọc hút dịch tủy.
- Sự cần thiết phải đánh giá chính xác tế bào
tủy xem tăng hay giảm.
- Nghi ngờ có tổn thương ví dụ có nghi ngờ
có bệnh hệ thống u hạt hoặc u lympho.
- Nghi ngờ xơ tủy.
- Sự cần thiết phải nghiên cứu về cấu trúc
tủy hoặc hệ thống mạch máu trong tủy.
10 Số 81 (Tháng 11/2014)Y HỌC LÂM SÀNG
DIỄN ĐÀN Y HỌC
Chuyên đề trong tháng
2.2. Chống chỉ định
Hầu như không có chống chỉ định tuyệt đối
sinh thiết tủy xương, nhưng sinh thiết tủy xương
thường không được coi là xét nghiệm cấp cứu vì
vậy trong một số trường hợp đặc biệt có thể trì
hoãn chỉ định.
3. Mô tả kỹ thuật
3.1. Kíp tiến hành: gồm 2 người
- 1 bác sỹ chuyên khoa huyết học.
- 1 kỹ thuật viên.
3.2. Dụng cụ
- Kim sinh thiết tủy: sử dụng kim Jamshidi,
cỡ 8 gauge để sinh thiết cho người lớn và cỡ 11
gauge để sinh thiết cho trẻ em, kim gồm có kim
chọc có nòng để rút ra để mảnh mô tủy xương
chui vào khi sinh thiết và nòng rời để lấy mảnh
sinh thiết khi đã lấy ra khỏi xương bệnh nhân.
- Bơm tiêm 5-10 ml.
- Lọ đựng dung dịch cố định mảnh mô tủy.
- Hộp thuốc cấp cứu và ô xy.
- Xylocain 2%.
- Găng tay, xăng có lỗ vô trùng
3.3. Chuẩn bị bệnh nhân
- Giải thích mục đích thủ thuật để bệnh nhân
hợp tác và yên tâm khi làm thủ thuật.
- Kiểm tra lại các xét nghiệm đã thực hiện liên
quan đến tạo máu: huyết tủy đồ
3.4. Các bước tiến hành
- Để cho bệnh nhân nằm sấp thoải mái.
- Xác định vị trí sinh thiết (thường là ở gai
chậu sau trên).
- Sát khuẩn rộng vùng định sinh thiết bằng
cồn iode và sau đó bằng cồn 70o, phủ xăng vô
trùng lên vị trí định sinh thiết.
- Gây tê xylocain 2% 6-7ml bằng kim G20,
gây tê từng lớp dưới da, cơ, màng xương chờ 5
phút.
- Chọc kim sinh thiết qua da, cơ, màng xương,
sau đó rút nòng thông ra và tiếp tục khoan sâu
khoảng 2cm và tiến hành cắt mảnh sinh thiết.
- Rút kim từ từ ra khỏi xương, cơ, da bệnh
nhân.
- Dùng nòng thông đẩy nhẹ nhàng mảnh mô
tủy sinh thiết được cho vào dung dịch cố định
mảnh sinh thiết (trong trường hợp nếu không thể
sinh thiết được ở gai chậu sau trên thì có thể lấy ở
gai chậu đối bên, nếu chọc hút tủy xương không
thực hiện được có thể sử dụng tiêu bản lam áp từ
mảnh sinh thiết tủy).
- Sau đó tiến hành quy trình chuyển đúc mảnh
mô tủy xương (quy trình này mất rất nhiều thời
gian trung bình là 3-7 ngày bởi vì phải khử canxi
trong mô tủy xương).
- Cắt mỏng, cố định tiêu bản sinh thiết tủy
xương.
- Sau đó tiến hành nhuộm Hematocylin và
nhuộm sợi xơ, nhuộm Giemsa cũng có thể sử
dụng, nhuộm Perls’ nếu cần thiết.
- Nhuộm hóa mô miễn dịch tủy xương trong
những trường hợp lâm sàng thấy cần thiết hoặc
tìm nguyên ủy của bệnh.
4. Cách đọc tiêu bản sinh thiết
Tiêu bản sinh thiết tủy xương là loại tiêu
bản được đánh giá là khó đọc, tiêu bản sinh thiết
tủy xương cần được đọc một cách hệ thống theo
chuyên khoa, phải đánh giá sự tạo xương, thệ
thống mạch máu và các khoang đệm các tổ chức
sinh máu, sinh lympho cũng như các tổ chức khác.
Sự đánh giá này bắt đầu từ việc quan sát bằng
11Số 81 (Tháng 11/2014) Y HỌC LÂM SÀNG
DIỄN ĐÀN Y HỌC
Chuyên đề trong tháng
vật kính nhỏ, toàn bộ tiêu bản sinh thiết cần được
quan sát.
Sự đánh giá tiếp theo chi tiết hơn được quan
sát bằng vật kính trung bình và vật kính độ phóng
đại lớn. Các ý kiến đánh giá về tiêu bản sinh thiết
phải được thực hiện bởi một xét nghiệm viên giỏi
cả về mô học và huyết học, người mà có thể đọc
tốt cả tiêu bản chọc hút tế bào tủy xương và tiêu
bản sinh thiết tủy.
Khi điều này không thể làm được thì sẽ cần
một cuộc tư vấn trực tiếp giữa các nhà huyết học
và các nhà mô học. Các ghi chép được mô tả phải
bao gồm cả về những đặc điểm mô học cũng như
đưa ra những vấn đề làm sáng tỏ tầm quan trọng
của nó.
Với sự tiến bộ của xét nghiệm sinh thiết tủy
xương và các kỹ thuật xử lý mô bệnh học đã nhận
ra rằng tế bào máu phát triển trong các khu vực đã
định trước của tủy xương. Các tế bào dòng hạt có
thể được nhận ra sớm nhất được tìm thấy gần các
bè xương và xung quanh các mạch máu trong tủy,
trong khi các tế bào sinh dòng hồng cầu và dòng
mẫu tiểu cầu phát triển giữa khoang sinh máu và
không bị trộn lẫn với sự phát triển của dòng hạt.
Các tế bào dòng lympho nằm rải rác trong các
khoang sinh máu và có thể gặp một vài đám nhỏ
tạo cụm hoặc tập trung và thường liên quan đến
các tế bào đại thực bào và nằm gần kề các mạch
máu.
Tiêu bản sinh thiết tủy đặc biệt có giá trị trong
việc đánh giá mật độ tế bào trong tủy xương, đánh
giá mức độ xơ hóa trong tủy và đặc biệt là các
bệnh lý thâm nhiễm tủy xương như là bệnh u hạt,
bệnh rối loạn dự trữ lipit, bệnh rối loạn về lympho
và các xâm lấn của ung thư biểu mô. Sinh thiết tủy
có ích trong chẩn đoán U lympho độ ác tính thấp
và có độ nhạy cao trong hầu hết các trường hợp có
biến đổi trong tủy xương.
Sinh thiết tủy cũng đặc biệt hữu ích trong việc
đánh giá rối loạn sinh tủy mà trong bệnh lý có
sự tăng sinh xơ trong tủy như bệnh lơ xê mi cấp
thể mẫu tiểu cầu, lơ xê mi tế bào tóc và trong hội
chứng tăng sinh tủy mạn tính.
Việc đánh giá mô học tủy xương cũng rất
cần thiết trong chẩn đoán lơ xê mi cấp thể giảm
bạch cầu và chẩn đoán phân biệt với suy tủy bởi
vì sinh thiết tủy mới giúp cho việc đánh giá sự
xuất hiện và phân bố của các tế bào non ác tính.
Cũng cần nhớ rằng chỉ có xét nghiệm sinh thiết
tủy xương mới là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán
suy tủy xương.
Trong hội chứng rối loạn sinh tủy cũng cho
phép đánh giá sự tập trung của các tế bào non kém
biệt hóa (ALIPs) cũng như đánh giá các mẫu tiểu
cầu bất thường. Trong hoại tử tủy xương cũng như
sự phân bố bất bình thường của chất gelatin trong
tủy cũng được đánh giá tốt hơn trong tiêu bản sinh
thiết tủy hơn là tiêu bản chọc hút tủy.
Việc đánh giá phân bố tế bào tủy cần phải
được gắn liền với độ tuổi của bệnh nhân. Cần nhớ
rằng các khu vực sinh tủy tập trung xung quanh
các bè xương và thường bị mỡ hóa theo tuổi già và
không có nhiều tế bào sinh máu trong những vùng
sâu của tủy xương.
Tóm lại: Sinh thiết tủy xương là một xét
nghiệm rất cần thiết giúp chẩn đoán mô tủy
sinh máu, xét nghiệm được tiến hành tại các cơ
sở chuyên khoa sâu về huyết học. Trong một số
trường hợp chỉ có sinh thiết tủy xương mới cho kết
quả chẩn đoán xác định, để tiến hành xét nghiệm
sinh thiết tủy xương cần có đội ngũ bác sỹ chuyên
khoa giàu kinh nghiệm trong việc tiến hành thủ
thuật cũng như đánh giá tiêu bản. Ngoài ra bác
sỹ đọc xét nghiệm cũng cần có kiến thức về bệnh
học của các bệnh lý nói chung đặc biệt là về bệnh
học về huyết học.
12 Số 81 (Tháng 11/2014)Y HỌC LÂM SÀNG
DIỄN ĐÀN Y HỌC
Chuyên đề trong tháng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trương Công Duẩn, Nguyễn Hữu Toàn, Vũ
Văn Trường, Đỗ Trung Phấn: Một số nhận xét về
bệnh lý tạo máu qua 324 bệnh nhân được sinh
thiết tủy xương tại Viện Huyết học-Truyền máu,
tạp chí Y học Việt Nam 1998, tập 231. Tr 42-48.
2. Aboul-Nasr R, Estey EH, Kantarjian HM,
et al. Comparison of touch imprints with aspirate
smears for evaluating bone marrow specimens.
Am J Clin Pathol 1999;111:753-8.
3. Alvarez CJ, Kidd PG, Ettinger LJ.
Evaluation of bilateral bone marrow specimens
in pediatric disorders. Am J Clin Pathol
1999;112:559.
4. Bain BJ. Bone marrow aspiration. J Clin
Pathol 2001;54: 657-64.
5. David Brown, Kevin Gartter, Yasodha
Natkunam, Roger Warnker. Bone marrow
diagnosis. An illustrated guide, second edition
2006.
6. Haddy TB, Parker RI, Magrath IT. Bone
marrow involvement in young patients with non-
Hodgkin’s lymphoma: the importance of multiple
bone marrow samples for accurate staging. Med
Pediatr Oncol 1989;17:418-23.
7. Horlyck A, Thorling K. Bone marrow
examination in non-Hodgkin’s lymphoma:
comparison of the diagnostic value of marrow
aspirations and trephine biopsy. Eur J Haematol
1991;46:54-6.
8. Juneja SK, Wolf M, Cooper IA. Value of
bilateral bone marrow biopsy specimens in non-
Hodgkin’s lymphoma.J Clin Pathol 1990;43:630-
52.
9. Richardson GE, Venzon DJ, Phelps R,
et al. Application of an algorithm for staging
small-cell lung cancer can save one third of
the initial evaluation costs. Arch Intern Med
1993;153:329–37.
10. Sola CM, Rimsza LM, Christensen RD.
A bone marrow The biopsy technique suitable for
use in neonates. Br J Haematol 1999;107:458-60.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
gia_tri_cua_xet_nghiem_sinh_thiet_tuy_xuong_mo_benh_hoc_tuy.pdf