Có thể nói, những nội dung trên đây đã
bao gồm nhiều giá trị đạo đức công rất quan
trọng và cần thiết đối với cán bộ, công chức,
viên chức ở nước ta. Nhưng việc các quy
định này nằm rải rác ở các văn bản luật khác
nhau, chưa có những định nghĩa khái niệm,
giải thích rõ ràng về các giá trị đạo đức
công, cũng như phân biệt rõ giữa đạo đức
công chức và đạo đức viên chức nên rất khó
áp dụng trong thực tế. Các tiêu chí đánh giá
cán bộ, công chức ở các văn bản dưới luật
vì thế cũng còn chung chung, khó thực hiện
đúng chuẩn mực. Các giá trị công cũng chưa
đầy đủ, thống nhất để đáp ứng các yêu cầu
nâng cao đạo đức cán bộ, công chức, viên
chức trong giai đoạn mới. Vì thế, việc pháp
điển hóa các giá trị đạo đức công là điều cần
làm, như ban hành Luật Đạo đức công.
Tuy nhiên, trước mắt vẫn có thể lựa
chọn các giải pháp khác, như sửa đổi, bổ
sung các quy định hiện hành trong các đạo
luật đã có cho đầy đủ, chi tiết hơn. Phương
án này ít tốn kém hơn, không cần ban hành
luật mới, nhưng sẽ khó khắc phục được tình
trạng tản mát, trùng lắp và kém hiệu lực thực
tế như hiện nay. Một lựa chọn khác có thể
khả thi, là Dự án Luật Hành chính công
đang được xây dựng nên có một chương quy
định chung về Các giá trị đạo đức công;
xem xét quy định thành lập Ủy ban đạo đức
công hoặc Ủy ban liêm chính công, đây
cũng là những nội dung quan trọng chứng
minh sự cần thiết phải ban hành đạo luật
này. Ví dụ, tham khảo Luật Hành chính
công của bang Victoria (Úc)30, có một
chương quy định 7 giá trị công, với các định
nghĩa, giải thích cụ thể, bao gồm: sự đáp ứng
(responsiveness)31, tính liêm chính (integrity), tính công bằng (impartiality),
trách nhiệm giải trình (accountability), sự
tôn trọng (respect), khả năng lãnh đạo (leadership), (tôn trọng và thúc đẩy) các quyền
con người (human rights). Việc quy định cụ
thể, chi tiết là cần thiết với ý nghĩa để không
có những lời hối tiếc “giá như” từ các cán
bộ, công chức khi có hành vi vi phạm pháp
luật bị phát hiện, bởi ngay từ khi trở thành
công chức, hoặc rộng hơn là tham gia vào
khu vực công, cán bộ, công chức (và cả viên
chức) đã phải nắm rõ những yêu cầu quy tắc
đạo đức đã được luật hóa. Các thành viên
tham gia xây dựng dự án luật nên thực hiện,
hoặc tham khảo các nghiên cứu cần thiết có
khảo sát, thống kê và phân tích cụ thể xem
các giá trị đạo đức công nào là quan trọng
nhất đối với khu vực công ở Việt Nam.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 233 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị đạo đức công và giới hạn trách nhiệm trong thực thi công vụ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIAÁ TRÕ ÀAÅO ÀÛÁC CÖNG VAÂ GIÚÁI HAÅN TRAÁCH NHIÏåM
TRONG THÛÅC THI CÖNG VUÅ
NguyễN ANh PhươNg*
Ở nhiều quốc gia phương Tây, sau bầu cử1 thường có sự thay đổi Chính phủ nhưng
các công chức trong bộ máy hành chính vẫn tiếp tục phục vụ và chịu trách nhiệm trước
Chính phủ mới. Để đảm bảo tính chuyên nghiệp, ổn định và liên tục, pháp luật hành
chính luôn ghi nhận những giá trị công và các nguyên tắc chung quy định trách nhiệm,
đồng thời cũng giới hạn trách nhiệm của công chức trước Chính phủ. Bài viết tham
khảo kinh nghiệm nước ngoài về vấn đề này, từ đó nêu những yếu tố phù hợp với điều
kiện thể chế chính trị một Đảng lãnh đạo ở nước ta, có thể giúp ích cho quá trình cải
cách hành chính.
1. Pháp luật hành chính: tiếp cận từ
nghiên cứu hành chính công
Pháp luật hành chính điều chỉnh tổng thể
hệ thống hành chính công. Với phạm vi điều
chỉnh rất rộng, các định nghĩa về pháp luật
hành chính thường khó bao hàm được hết
các lĩnh vực lý thuyết và thực tiễn của hành
chính công. Các định nghĩa về luật hành
chính và phạm vi điều chỉnh của nó cũng
thay đổi, thu hẹp hoặc mở rộng tùy theo thời
điểm và giai đoạn phát triển của các mô hình
tổ chức bộ máy nhà nước. Ví dụ, trong giai
đoạn đầu phát triển ở Mỹ, pháp luật hành
chính chủ yếu tập trung vào quyền, nghĩa vụ
và điều chỉnh các mối quan hệ trong hoạt
động của công chức2. Theo Davis3, luật hành
chính là tập hợp các quy định pháp lý về
thẩm quyền, trách nhiệm và thủ tục hoạt
động của hệ thống cơ quan hành chính.
Ngoài ra, với ý nghĩa bổ sung cho các quy
định về cấu trúc bộ máy nhà nước theo Hiến
pháp, pháp luật hành chính chú trọng vào các
hình thức tổ chức của hệ thống cơ quan hành
chính, điều chỉnh các mối quan hệ giữa các
cơ quan này (yếu tố bên trong), cũng như với
tổ chức, cá nhân khác (yếu tố bên ngoài)4.
25
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 15(319) T8/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
* Viện Nghiên cứu Lập pháp.
1 Bài viết không phân biệt Chính phủ được thành lập bởi đảng chiếm đa số ghế trong Quốc hội, các liên minh tranh cử, hay
bởi Thủ tướng, Tổng thống được bầu ở các nước.
2 Wyman, Bruce (1903), The Principles of the Administrative law governing the relations of Public Officers, Keefe-Davidson,
St. Paul, MN.
3 Davis, Kenneth (1958), Administrative Law treatise, West, St. Paul, MN; và Davis, Kenneth (1975), ‘Administrative Law
and Government’, 2nd ed., West, St. Paul, MN.
4 Goodnow, Frank (1905), The Principles of the Administrative law of the United States, G.P. Putnam’s Sons, New York.
Trên thực tế, các nghiên cứu về pháp
luật hành chính thường tập trung vào các
học thuyết pháp lý hay điều khoản chi tiết,
vì thế gây khó khăn cho những người nghiên
cứu lý thuyết hành chính công, trong việc
nhận thức vai trò của pháp luật hành chính
đối với thực tiễn hoạt động hành chính.
Ngược lại, khoa học hành chính công cũng
có hạn chế trong việc tìm hiểu lý thuyết về
pháp luật hành chính, dẫn tới xu hướng xem
nhẹ vai trò trung tâm của pháp luật hành
chính trong việc điều chỉnh hoạt động của
hệ thống hành chính5. Vì thế, cần khuyến
khích xu hướng nghiên cứu cơ sở pháp lý
của hành chính công, nghiên cứu pháp luật
hành chính đặt trong mối quan hệ tương hỗ,
gắn kết với nghiên cứu lý thuyết hành chính
và ngược lại, nhằm góp phần làm cho các
quy định pháp luật hành chính cũng như
hoạt động của hệ thống hành chính công có
hiệu lực và hiệu quả hơn.
Với cách tiếp cận như trên, pháp luật
hành chính đặt trọng tâm điều chỉnh vào
cách thức tổ chức, hoạt động, cũng như mối
quan hệ giữa các cơ quan hành chính nhà
nước trong nền dân chủ lập hiến. Những nội
dung chính bao gồm: quy định về thẩm
quyền của hệ thống cơ quan hành chính và
kiểm soát sự lạm quyền; nâng cao chất
lượng lập pháp, tư pháp, hành pháp, cũng
như giám sát hoạt động của hệ thống cơ
quan hành chính; các quyền, miễn trừ trách
nhiệm, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của
công chức và người lãnh đạo, quản lý hành
chính; quyền lợi và nghĩa vụ của khu vực tư
trong mối quan hệ với cơ quan hành chính
công6. Bên cạnh đó, pháp luật hành chính
cũng được xem là công cụ nhằm minh định
quyền của công chúng tham gia vào quá
trình ra quyết định hành chính và yêu cầu
minh bạch hành chính. Trong xu thế nâng
cao vai trò của nhà nước hiện đại, khi hệ
thống hành chính mở rộng hơn và trực tiếp
tác động đến xã hội trong quá trình thực thi
chính sách, pháp luật thì pháp luật hành
chính cũng trở nên quan trọng trong điều
chỉnh, giới hạn thẩm quyền hành chính
công.
Nhìn chung, hệ thống pháp luật hành
chính tại các quốc gia đều có các đạo luật
quan trọng điều chỉnh các nội dung cơ bản
về hành chính công, như công chức, công
vụ, thủ tục hành chính, tố tụng hành chính,
tự do thông tin, hay đạo đức công vụ. Về tên
gọi, phạm vi điều chỉnh của từng đạo luật có
khác nhau ở các quốc gia, có thể do truyền
thống pháp lý khác nhau, quy định khác
nhau về các hình thức dịch vụ công, dịch vụ
hành chính công, hay đơn giản chỉ là cách
gọi tên đạo luật. Ví dụ như ở Mỹ có Luật
Công vụ, Luật Thủ tục hành chính, Luật về
Đạo đức công vụ ở cấp liên bang và một số
tiểu bang, đóng vai trò quan trọng trong lịch
sự phát triển ngành luật hành chính. Một số
bang của Australia, Nam Phi, Đan Mạch và
nhiều quốc gia khác có ban hành đạo luật có
tên gọi là Luật Hành chính công hoặc Luật
Quản lý hành chính công, trong đó bao gồm
các quy định chung về những giá trị đạo đức
công quan trọng, hoặc tập hợp các quy định
liên quan này được tách thành luật riêng -
Luật Đạo đức công7.
Có thể thấy, bên cạnh nội dung trọng
tâm của pháp luật hành chính về công chức,
công vụ, các thủ tục hành chính thì các vấn
đề có liên quan mật thiết, như đạo đức công
26
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 15(319) T8/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5 Stewart, Richard (1975), ‘The reformation of American Administrative law’, Harvard Law Review, 88, pp. 1609- 1813.
Frug, Gerald (1984), ‘The ideology of bureaucracy in American law’, Harvard Law Review, 97, pp. 1276-1388.
6 David Rosenbloom, Chapter 17, Administrative Law and Regulation, p. 635-696, in Jack Rabin, Bartley Hildreth & Gerald
Miller (2007), Handbook of public administration (2007), editors, 3rd ed., CRC Press.
7 Trong bài viết này, chúng tôi không đi vào thống kê, so sánh chi tiết số lượng các đạo luật có tên gọi, phạm vi điều chỉnh
khác nhau ở các bang/quốc gia.
vụ và nghĩa vụ phục vụ các giá trị dân chủ
của các công chức, cũng như của các chính
trị gia, được ghi nhận và điều chỉnh bằng
luật. Thêm vào đó, trong một xu hướng diễn
ra ở nhiều quốc gia là khu vực công đang gia
tăng nhu cầu để khu vực tư tham gia vào các
hoạt động cung cấp dịch vụ công, thì yêu
cầu đảm bảo chất lượng, hiệu quả của dịch
vụ hành chính công hay dịch vụ công được
quan tâm hơn, và pháp luật hành chính cần
điều chỉnh phù hợp nhằm xây dựng nền
hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, đảm
bảo tuân thủ các giá trị đạo đức công.
Quan trọng hơn, nghiên cứu kinh
nghiệm quốc tế về sự cần thiết quy định các
giá trị đạo đức công trong hệ thống pháp luật
hành chính cho thấy, mặc dù có những lo
ngại về tính chung chung của các quy phạm
liên quan đến các giá trị đạo đức công,
nhưng việc quy định là để các công chức
biết trước rõ ràng về những giá trị công phải
tuân thủ khi theo đuổi sự nghiệp phục vụ
công, tránh việc biện minh cho những vi
phạm nếu xảy ra. Chính vì thế, để xây dựng
được nền hành chính phục vụ, cần có các
quy định pháp luật làm tường minh các điều
kiện cần, những chuẩn mực pháp lý liên
quan đến các giá trị đạo đức công.
2. Các giá trị đạo đức công
Đạo đức là sự phản chiếu mang tính hệ
thống về các luân lý, phẩm hạnh, được biểu
thị bởi các giá trị và quy tắc chuẩn mực. Giá
trị hay giá trị đạo đức8 được hiểu là những
tiêu chuẩn và chất lượng quan trọng nhất, có
ảnh hưởng đến sự lựa chọn hành động của
cá nhân hay tổ chức9.
Đối với khu vực công, đã có nhiều
nghiên cứu quốc tế về vai trò và sự cần thiết
của các tiêu chuẩn đạo đức công vụ. Ví dụ,
khi nghiên cứu về trách nhiệm của công
chức và lãnh đạo quản lý, Dimock nhấn
mạnh đến các giá trị cốt lõi là: trung thành,
trung thực, nhiệt tình, khiêm tốn10; học giả
Bailey11 thì nhấn mạnh các giá trị như: lạc
quan, can đảm, khoan dung. Trong khi đó,
Appleby12 nêu vấn đề về sự cần thiết một
thái độ đặc biệt của trách nhiệm công vụ. Cụ
thể hơn, Burke13 khẳng định, công chức phải
chịu trách nhiệm giải trình tới xã hội mà họ
phục vụ, với nhiều cách thức khác nhau.
Đáng chú ý là một nghiên cứu khá toàn
diện của các tác giả Van Der Wal, Graaf và
Lasthuizen14 nhằm chỉ rõ những giá trị công
quan trọng nhất, và so sánh sự khác nhau
giữa các giá trị đạo đức trong khu vực công
và khu vực tư. Trong nghiên cứu đó, một số
khái niệm giá trị công và tư điển hình được
giải thích ngắn gọn như sau:
- Trách nhiệm giải trình (Accountability):
hành động tự nguyện nhằm mang lại sự hài
lòng, cũng như sẵn sàng giải thích các hành
động cho các chủ thể liên quan;
- Hiệu quả (Effectiveness): đạt được các
kết quả kỳ vọng;
- Hiệu suất (Efficiency): đạt được kết
quả với nguồn lực tối thiểu;
- Thành thạo chuyên môn (Expertise):
có năng lực, kỹ năng và tri thức;
27
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 15(319) T8/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Trong bài viết này, các cụm từ: giá trị công, giá trị đạo đức công, đạo đức công vụ có thể dùng thay thế cho nhau.
9 Wal, Z, Graaf, G & Lasthuizen, K 2008, ‘What’s valued most? Similarities and differences between the organizational values
of the public and private sector’’, Public Administration, vol. 86, no. 2, pp. 465-82.
10 Dimock, Marshall (1980), Law and Dynamic Administration, Praeger, New York.
11 Dẫn lại trong: Lawrence F. Keller (2007), Chapter 1, Public Administration and the American Republic:
The continuing saga of Management and Administration in Politics, in Jack Rabin, Bartley Hildreth & Gerald Miller (2007),
Handbook of public administration, editors, 3rd ed., CRC Press.
12 Appleby, P (1945), Big Democracy, Knopf, New York, p. 4.
13 Burke, C (1983), Stratified systems theory: Politics and Administration Revisited, Unpublished paper presented at the an-
nual meeting, American Society for Public Administration, Chicago, IL.
14 Xem chú thích 9: Wal, Z, Graaf, G & Lasthuizen, K 2008.
- Trung thực (Honesty): hành động thật
thà, chính xác và giữ đúng lời hứa;
- Công bằng (Impartiality): không có
thành kiến hay thiên lệch vì lợi ích nhóm;
- Liêm khiết (Incorruptibility): không
thành kiến, không thiên vị, không tư lợi;
- Khả năng sinh lợi (Profitability): đạt
lợi nhuận hay gia tăng lợi ích;
- Đáng tin cậy (Reliability): hành động
chắc chắn, uy tín, phù hợp với các chủ thể
liên quan;
- Khả năng đáp ứng (Responsiveness):
hành động phù hợp với sự ưu tiên của công
dân và khách hàng.
Theo các tác giả, 10 giá trị công “nên
có” ở khu vực công và khu vực tư, xếp theo
thứ tự quan trọng, là: (Xem Bảng 1)
Cùng với các giá trị đề xuất nên có trên,
các tác giả cũng tiến hành khảo sát nghiên
cứu bằng chứng thực tế, kết quả thu được là:
đối với khu vực công, trách nhiệm giải trình
được đánh giá là giá trị công quan trọng
nhất; tiếp đó lần lượt là các giá trị: tuân thủ
pháp luật, liêm khiết, thành thạo chuyên
môn, đáng tin cậy, hiệu quả, công bằng, hiệu
suất, minh bạch, khả năng phục vụ. Trong
khi đó, khả năng sinh lợi có vai trò lớn nhất
trong lĩnh vực tư, tiếp đó, trách nhiệm giải
trình, đáng tin cậy, hiệu quả, thành thạo
chuyên môn, hiệu suất, trung thực, sáng
kiến, liêm khiết, và tận tụy là những giá trị
được đánh giá cao trong khu vực tư. Như
vậy, không có nhiều khác biệt giữa các giá
trị được đề xuất, và các giá trị thống kê theo
thực tế khảo sát, ở cả khu vực công và tư
trong nghiên cứu trên. Mặt khác, kết quả của
nghiên cứu đã khẳng định, các giá trị công
cũng như thứ bậc tầm quan trọng được phân
biệt rõ khi so sánh với các giá trị được thể
hiện trong khu vực tư. Hai hệ thống giá trị
công và tư được phân biệt bởi những giá trị
truyền thống trong mỗi khu vực, bên cạnh
những giá trị phổ biến.
Ngoài ra, liên quan đến xu hướng khu
vực tư tham gia cung cấp dịch vụ công, thì
việc nhà nước ký hợp đồng với tư nhân
nhằm cung cấp dịch vụ công15 đã dẫn tới
những lo ngại về việc hạ thấp các tiêu chuẩn
giá trị công, cũng như chất lượng dịch vụ và
28
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 15(319) T8/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
15 Ranh giới phân biệt giữa dịch vụ công và dịch vụ hành chính công là không rõ ràng ở nhiều quốc gia.
lợi ích công cộng nói chung. Các chuẩn mực
giá trị đạo đức công vốn được xem là quan
trọng hàng đầu và có yêu cầu cao hơn nhiều
so với lĩnh vực tư, thì nay có thể bị hạ thấp
chuẩn nhằm đảm bảo việc thực hiện hợp
đồng cung cấp dịch vụ từ phía khu vực tư
nhân16. Ví dụ, so sánh giá trị trách nhiệm
giải trình giữa khu vực công và tư thì điểm
khác biệt là: lĩnh vực công đòi hỏi tính chịu
trách nhiệm/giải thích cao hơn trong quá
trình và các chính sách tổng quát. Đặc biệt,
qua việc ký kết hợp đồng với khu vực tư,
tính liêm chính công có nguy cơ bị xói mòn
nếu công chức kết hợp với các nhóm lợi ích
nhằm tham ô, tư lợi từ các hợp đồng này.
3. Trách nhiệm giải trình, trách nhiệm và
nguyên tắc giới hạn trách nhiệm
Khi bàn về các giá trị công thì một
trong những khái niệm được chú ý nhất là
trách nhiệm giải trình (accountability);
cùng với khái niệm liên quan là trách nhiệm
(responsibility), và vấn đề giới hạn trách
nhiệm.
Phân biệt “trách nhiệm” và “trách
nhiệm giải trình”
Đầu tiên, cần khẳng định đây là hai khái
niệm phân biệt với nhau, mặc dù trên thực
tế, khái niệm trách nhiệm giải trình có thể
được sử dụng rút gọn tương ứng với khái
niệm trách nhiệm17, và có lúc, hai khái niệm
này được dùng thay thế lẫn nhau. Trước đây,
“trách nhiệm giải trình” được xem như là
một phần của “trách nhiệm”. Ví dụ, theo
Finer, ủng hộ cho sự kiểm soát bên ngoài,
đã sử dụng khái niệm “trách nhiệm giải
trình” để định nghĩa cho khái niệm “trách
nhiệm”: Thứ nhất, trách nhiệm có thể mang
ý nghĩa là: A giải trình với B về vấn đề C.
Thứ hai, trách nhiệm mang ý nghĩa liên
quan đến nghĩa vụ đạo đức18. Tuy nhiên,
hiện nay, mối quan hệ này đã đảo ngược, với
“trách nhiệm” được hiểu là một phần của
“trách nhiệm giải trình” (yếu tố bên trong).
“Trách nhiệm” được giới hạn phạm vi
trong (thông lệ) lĩnh vực đạo đức của nghĩa
vụ pháp lý cá nhân, tự do hành động, tập
trung vào yếu tố bên trong của các hành vi
công quyền, hay liên quan đến chức năng nội
tại của đạo đức cá nhân (công chức)19. Trong
khi đó, “trách nhiệm giải trình” có thể biểu
hiện là một vấn đề trách nhiệm, hay giải
trình, trong đó tập trung vào chức năng bên
ngoài của giám sát, như là những yêu cầu
giải thích, điều chỉnh, và nghĩa vụ cáng đáng.
Trách nhiệm giải trình có nhiều đặc
tính: việc giải trình được đưa đến người
khác hoặc cơ quan khác bên ngoài - phân
biệt với người/cơ quan bị yêu cầu giải trình;
một mặt yêu cầu sự giải thích, mặt khác,
được yêu cầu có trách nhiệm, phản hồi và
chấp nhận chế tài; ngụ ý về thẩm quyền,
trong đó, phía yêu cầu cho sự giải thích đang
khẳng định quyền của cơ quan “cấp trên” so
với phía giải thích, bao gồm quyền có nhu
cầu trả lời và mang tính bắt buộc.
Trong bối cảnh nhà nước dân chủ, các
mối quan hệ trách nhiệm giải trình đáng chú
ý là giữa công dân và công chức, giữa đội
ngũ công chức, giữa chính trị gia và công
chức chuyên nghiệp. Trách nhiệm giải trình
cốt lõi thường bao trùm nhiều vấn đề, như
yêu cầu người đại diện trả lời cho các chính
sách; Quốc hội giám sát các hành động của
công chức và yêu cầu giải trình cho các lỗi
29
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 15(319) T8/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Adams, G B & Balfour, D L (2010), ‘Market-based government and the decline of organizational ethics’, Administration
and Society vol. 42, no. 6, pp. 615-37.
17 Xem thêm các cách tiếp cận định nghĩa khái niệm “Trách nhiệm” ở nước ta, trong: Bùi Thị Ngọc Mai (2015), Thuật ngữ
“trách nhiệm” và thực tiễn pháp luật về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước, Tạp chí Nghiên
cứu Lập pháp, số 17 (297), 09/2015. Bài viết này không sử dụng các cách tiếp cận đã nêu trong nghiên cứu của Bùi Thị
Ngọc Mai.
18 Finer, H (1941), ‘Administrative responsibility and democratic government’, Public Administration Review 1, pp. 335-350.
19 Harmon and Mayer 1986, Organization theory for Public Administration, Boston: Little, Brown.
nếu có; cơ chế để công chúng có thể “chỉnh
đốn” lại các cơ quan công quyền và công
chức.
Điều cần lưu ý là cho đến nay, phạm vi
và ý nghĩa khái niệm “trách nhiệm giải
trình” đã được mở rộng theo nhiều hướng
khác nhau, vượt ra khỏi ý nghĩa cốt lõi ban
đầu đã được đa số chấp nhận, là yêu cầu
phải giải thích đối với cơ quan chức năng về
những hành vi của một người20. Trách nhiệm
giải trình, vì thế, còn được dùng: (1) để xem
xét khía cạnh nội tại của hành vi công vụ,
thường được hiểu theo nghĩa là trách nhiệm
cá nhân, nhấn mạnh đến sự kỳ vọng về
nghĩa vụ, trách nhiệm của công chức đối với
việc phục vụ các lợi ích công, và vượt lên ý
nghĩa ngoại vi về yêu cầu giải thích; (2) là
thể chế kiểm soát hành vi của công chức,
hơn là qua việc yêu cầu các công chức phải
giải thích/giải trình. Với ý nghĩa kiểm soát,
trách nhiệm giải trình tập trung vào đặc tính
của cơ chế kiềm chế đối trọng bởi nền dân
chủ, tìm kiếm sự kiểm soát hành động của
chính phủ, ngay cả khi không có sự tương
tác trao đổi giữa chính phủ và thể chế kiểm
soát nó; (3) yêu cầu chính quyền, công chức
phải có trách nhiệm đáp ứng những mong
muốn, kỳ vọng của công chúng, hơn là việc
yêu cầu giải thích; và (4) trong các cuộc đối
thoại dân chủ giữa công dân mà nền dân chủ
phụ thuộc vào, nơi mà không ai bị yêu cầu
phải giải thích21.
Các nguyên tắc giới hạn trách nhiệm
Như đã đề cập ở phần trên, mức độ đáp
ứng là một trong những ý nghĩa ngoại vi của
trách nhiệm giải trình, có liên quan đến tính
chịu trách nhiệm và sự sẵn sàng của công
chức trong việc chấp hành thực hiện những
gì mà chính phủ và bộ trưởng (hoặc cộng
đồng, người dân) mong muốn, dựa trên
những nguyên tắc nhất định trong nền dân
chủ22, đó là:
Thứ nhất, nguyên tắc về tính chính
đáng, hợp pháp của nền dân chủ đại diện
Trong thể chế dân chủ, Thủ tướng
Chính phủ (hoặc Tổng thống) và các bộ
trưởng được bầu/bổ nhiệm trên cơ sở sự
chấp thuận của nhân dân, hoặc thông qua
nghị viện. Với ý nghĩa đó, bộ trưởng có
thẩm quyền hợp pháp để lãnh đạo, điều hành
bộ, cũng như các công chức có nghĩa vụ
tuân thủ, phục tùng sự lãnh đạo đó. Thông
thường, trong phạm vi một bộ (ngành, lĩnh
vực), các công chức phải chịu trách nhiệm
trước người lãnh đạo, quản lý trực tiếp, và
mức độ cao hơn là đáp ứng các yêu cầu từ
phía bộ trưởng. Nguyên tắc về tính chính
đáng, hợp pháp của nền dân chủ đại diện,
với các ràng buộc pháp lý dựa trên sự ủy
quyền của nhân dân đã hỗ trợ, củng cố cho
việc các công chức cần ủng hộ, hưởng ứng
và chịu trách nhiệm trước chính phủ và các
bộ trưởng. Sự tuân thủ pháp luật trong bộ
máy hành chính là một trong những yêu cầu
quan trọng để đảm bảo tôn trọng nhà nước
pháp quyền và các giá trị dân chủ. Tuy
nhiên, mặt khác, nó cũng tạo ra cơ chế giới
hạn các nghĩa vụ này và trong chừng mực
nhất định, cần đến cách giải quyết thông qua
nghị viện khi xảy ra mâu thuẫn về lợi ích
nếu bộ trưởng yêu cầu công chức theo đuổi
thực hiện công việc mà có thể đe dọa làm
tổn hại lợi ích quốc gia.
Thứ hai, nguyên tắc về các ràng buộc
liên quan đến đảng chính trị
Đối với nhiều nước phương Tây,
30
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 15(319) T8/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Jones, GW (1992), ‘The search for local accountability’, pp. 49-78 in Leach (ed), Strengthening local government in the
1990s, London: Longman.
21 Xem thêm Mulgan Richard (2000), ‘Accountability: an ever-expanding concept?’, Public Administration, vol. 78, no. 3, pp.
555-573.
22 Theo Mulgan, R (2008), ‘How much responsiveness is too much or too little?’, Australian Journal of Public Administration,
vol. 67, no 3, pp. 345-56.
31
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 15(319) T8/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
nguyên tắc này yêu cầu một sự công bằng,
vô tư, và trung lập về chính trị của các công
chức chuyên nghiệp làm việc cho chính phủ
đương nhiệm. Bởi vì, ở các nước này thường
có sự thay đổi chính phủ được lập ra bởi các
đảng phái, liên minh chính trị thắng cử; và
khi chính phủ mới được hình thành thì các
công chức được kỳ vọng sẽ tiếp tục phục vụ
các bộ trưởng và chính phủ mới, với cùng
mức độ trung thành và sự tận tụy, để đảm
bảo tính không thiên vị23, và phục vụ cho lợi
ích chung.
Mặc dù vậy, trên thực tế các công chức
lại không cần thiết phải giữ tính trung lập
tuyệt đối, và các bộ trưởng, thành viên nội
các thường mong muốn nhân viên phải có
trách nhiệm cao, đáp ứng các yêu cầu công
việc và có sự nhạy cảm chính trị24. Các
khuyến nghị chính sách và “lời khuyên”, tư
vấn của công chức nếu được dựa trên sự
nhạy cảm chính trị sẽ có thể làm lợi cho
đảng chính trị cầm quyền và chính phủ
đương nhiệm. Nhưng nếu như công chức
quá thiên vị trong việc lựa chọn, triển khai
các chính sách, chương trình, kế hoạch, đặc
biệt là trong mối quan hệ với truyền thông
và trong kỳ vận động bầu cử, để phục vụ
mục đích thắng cử của bộ trưởng thì sẽ đe
dọa phá vỡ nguyên tắc ràng buộc này, và
làm cho sự phục vụ các công chức khó đảm
bảo tính công bằng, sự khách quan cần thiết.
Thứ ba, nguyên tắc về sự liêm chính
công
Các giá trị dân chủ tạo ra cả hai nguyên
tắc: về sự hợp pháp dân chủ, mà trong đó đã
ủy thác trách nhiệm đối với đội ngũ công
chức; và nguyên tắc liêm chính công mà
trong đó tạo ra những giới hạn cho trách
nhiệm đó. Sự trung thực, tuân thủ luật pháp,
minh bạch và có trách nhiệm trong sử dụng
quyền lực công, bảo vệ niềm tin của công
chúng đối với bộ máy nhà nước là những
đặc tính cần có của tính liêm chính. Trong
đó, nguyên tắc về sự liêm chính công giới
hạn mức độ chịu trách nhiệm và sự đáp ứng
của công chức đối với chính phủ đương
nhiệm, dựa trên một kỳ vọng cao hơn về sự
liêm chính của công chức chuyên nghiệp so
với các chính trị gia25.
Tính liêm chính góp phần tạo nên hệ
thống hành chính hiệu quả, cùng với tư pháp
độc lập và hệ thống pháp luật hiệu lực, minh
bạch là những thành tố quan trọng, cần thiết
không chỉ đối với nhà nước pháp quyền mà
còn tác động tới hoạt động của nền dân chủ
và lợi ích công. Dựa trên nguyên tắc này,
công chức trong bộ máy hành chính nhà
nước không chỉ tuân thủ, phục vụ cho lợi ích
của chính phủ hiện hành trong mỗi kỳ bầu
cử, mà cần đặt mục tiêu phục vụ lợi ích dài
hạn của quốc gia lên trên, nhằm đảm bảo các
giá trị dân chủ. Nói cách khác, công chức
cần nâng cao tính chịu trách nhiệm không
chỉ trước chính phủ, mà còn trước nghị viện
dân chủ khi có những xung đột lợi ích xảy
ra. Nếu xét thấy có sự xâm phạm lợi ích
chung, và đã đưa ra những lời khuyên “ngay
thẳng và không sợ hãi” đến với bộ trưởng
nhưng không được tiếp thu, công chức nên
hành động trên cơ sở các giá trị đạo đức
công nhằm phục vụ quá trình dân chủ và
không thể che giấu, hay lừa dối nghị viện26.
Ví dụ như việc sử dụng thông tin giả để báo
cáo nghị viện nhằm phê chuẩn một chính
23 Hart, P & Wille (2006), ‘Ministers and top officials in the Dutch core executive: living together, growing apart?’, Public
Administration, vol. 84, no. 1, pp. 121-46.
24 Xem chú thích 23: Hart & Wille (2006).
25 Uhr (2005), ‘National security and government: at war with ethics’, ch. 7 in ‘Terms of trust’, University of New South
Wales Press, Sydney, pp. 159-186.
26 Xem chú thích 25: Uhr (2005).
27 Xem chú thích 25: Uhr (2005).
28 Xem chú thích 22: Hart & Wille (2006).
29 Các quy định của pháp luật về đạo đức công vụ đối với cán bộ, công chức, viên chức ở nước ta hiện nay có ở nhiều văn
bản luật khác nhau, như Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Luật Viên chức năm 2010, Luật Phòng chống tham nhũng
năm 2005, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013 và nhiều văn bản hướng dẫn thi hành
32
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 15(319) T8/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
sách27. Các công chức có thể chất vấn lại bộ
trưởng nếu thấy các yêu cầu công việc là vi
phạm luật và các giá trị đạo đức, đó chính là
sự độc lập tương đối, giới hạn trách nhiệm
của công chức để bảo vệ sự liêm chính công.
Trên thực tế, đối với các vụ việc như vậy,
nếu như công chức tự ý cung cấp thông tin
cho các phương tiện truyền thông là xâm
phạm các nguyên tắc của đạo đức công vụ,
thì ngược lại, việc che giấu thông tin hoặc
hỗ trợ các nhóm lợi ích can thiệp thay đổi
hay tham nhũng chính sách có thể làm ảnh
hưởng đến lợi ích công cộng. Vì thế, nếu
phát hiện những vấn đề này, xét đến cùng,
công chức cần chịu trách nhiệm với nghị
viện dân chủ, hơn là chỉ chịu trách nhiệm
trước bộ trưởng. Báo cáo những vấn đề
nghiêm trọng ảnh hưởng đến lợi ích quốc
gia tới các cơ quan của chính phủ, và đặc
biệt, tới nghị viện, là cần thiết theo tiêu
chuẩn trách nhiệm đạo đức công nói chung,
tính liêm chính và trách nhiệm giải trình của
công chức nói riêng đối với chính phủ và
nghị viện. Do đó, vấn đề giới hạn trách
nhiệm trên thực tế lại yêu cầu công chức
hành chính chuyên nghiệp cần nhìn bức
tranh rộng hơn, theo đuổi những tầm nhìn
dài hạn hơn, đảm bảo tính liêm chính công28.
4. Những vấn đề Việt Nam có thể tham
khảo
Thứ nhất, để xây dựng được hệ thống
pháp luật hành chính có hiệu lực, hiệu quả
và góp phần hình thành, phát triển một hệ
thống hành chính phục vụ chuyên nghiệp ở
Việt Nam, cần hỗ trợ thúc đẩy các nghiên
cứu pháp luật hành chính đặt trong mối liên
hệ qua lại, bổ sung, gắn kết với các nghiên
cứu khoa học hành chính công. Những bài
học kinh nghiệm của các nước có truyền
thống pháp luật hành chính lâu đời và tiến
bộ nên được xem xét, tiếp thu khoa học, phù
hợp với cấu trúc hệ thống hành chính hiện
thời cũng như các mục tiêu, giải pháp thực
hiện trong chương trình cải cách hành chính
ở nước ta giai đoạn tới, trong đó cần nhấn
mạnh vai trò quan trọng của nhóm giải pháp
cải cách thể chế hành chính nhà nước và xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức đạt được
các tiêu chuẩn cao về giá trị đạo đức công.
Thứ hai, hiện nay, nước ta chưa có một
đạo luật có tên gọi là Luật Hành chính công
hay Luật Quản lý hành chính công, cũng như
chưa có Luật Đạo đức công như một số nước.
Tuy nhiên, các quy định về tổ chức, bộ máy
hành chính, công chức, công vụ, thủ tục xử
lý vi phạm hành chính và một số giá trị đạo
đức công chức cũng đã được quy định trong
nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác29
Ngoài ra, việc triển khai xây dựng dự thảo
Luật Hành chính công trong giai đoạn hiện
nay đã thể hiện sự quan tâm, coi trọng vai trò
quản lý hành chính công và pháp luật hành
chính công, góp phần đẩy nhanh quá trình cải
cách hành chính ở nước ta.
Liên quan đến các giá trị đạo đức công,
Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã có
những quy định về đạo đức, văn hóa giao
tiếp của cán bộ, công chức và những việc
cán bộ, công chức không được làm tại
Chương 2. Trong đó quy định cán bộ, công
chức có nghĩa vụ: “tôn trọng nhân dân, tận
tụy phục vụ nhân dân” (Điều 8), “chịu trách
nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn được giao, có ý thức tổ chức kỷ luật”
(Điều 9). Điều 15 quy định: “cán bộ, công
chức phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư trong hoạt động công vụ”.
Điều 16, Điều 17 quy định về văn hóa giao
33
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 15(319) T8/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
tiếp có thể xem như là những quy tắc ngắn
gọn trong Bộ Quy tắc ứng xử của cán bộ,
công chức. Bên cạnh đó, Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Phòng, chống
tham nhũng năm 2012 đã có quy định về
trách nhiệm giải trình, nhưng không có định
nghĩa cụ thể và lại giao cho Chính phủ quy
định chi tiết; Luật Thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí năm 2013 cũng đề cập đến trách
nhiệm giải trình ở phạm vi hẹp, và không có
định nghĩa, giải thích. Riêng đối với viên
chức thì Luật Viên chức năm 2010 đã đưa
một số nội dung về giá trị đạo đức chức
nghiệp vào mục nghĩa vụ của viên chức.
Có thể nói, những nội dung trên đây đã
bao gồm nhiều giá trị đạo đức công rất quan
trọng và cần thiết đối với cán bộ, công chức,
viên chức ở nước ta. Nhưng việc các quy
định này nằm rải rác ở các văn bản luật khác
nhau, chưa có những định nghĩa khái niệm,
giải thích rõ ràng về các giá trị đạo đức
công, cũng như phân biệt rõ giữa đạo đức
công chức và đạo đức viên chức nên rất khó
áp dụng trong thực tế. Các tiêu chí đánh giá
cán bộ, công chức ở các văn bản dưới luật
vì thế cũng còn chung chung, khó thực hiện
đúng chuẩn mực. Các giá trị công cũng chưa
đầy đủ, thống nhất để đáp ứng các yêu cầu
nâng cao đạo đức cán bộ, công chức, viên
chức trong giai đoạn mới. Vì thế, việc pháp
điển hóa các giá trị đạo đức công là điều cần
làm, như ban hành Luật Đạo đức công.
Tuy nhiên, trước mắt vẫn có thể lựa
chọn các giải pháp khác, như sửa đổi, bổ
sung các quy định hiện hành trong các đạo
luật đã có cho đầy đủ, chi tiết hơn. Phương
án này ít tốn kém hơn, không cần ban hành
luật mới, nhưng sẽ khó khắc phục được tình
trạng tản mát, trùng lắp và kém hiệu lực thực
tế như hiện nay. Một lựa chọn khác có thể
khả thi, là Dự án Luật Hành chính công
đang được xây dựng nên có một chương quy
định chung về Các giá trị đạo đức công;
xem xét quy định thành lập Ủy ban đạo đức
công hoặc Ủy ban liêm chính công, đây
cũng là những nội dung quan trọng chứng
minh sự cần thiết phải ban hành đạo luật
này. Ví dụ, tham khảo Luật Hành chính
công của bang Victoria (Úc)30, có một
chương quy định 7 giá trị công, với các định
nghĩa, giải thích cụ thể, bao gồm: sự đáp ứng
(responsiveness)31, tính liêm chính (in-
tegrity), tính công bằng (impartiality),
trách nhiệm giải trình (accountability), sự
tôn trọng (respect), khả năng lãnh đạo (lead-
ership), (tôn trọng và thúc đẩy) các quyền
con người (human rights). Việc quy định cụ
thể, chi tiết là cần thiết với ý nghĩa để không
có những lời hối tiếc “giá như” từ các cán
bộ, công chức khi có hành vi vi phạm pháp
luật bị phát hiện, bởi ngay từ khi trở thành
công chức, hoặc rộng hơn là tham gia vào
khu vực công, cán bộ, công chức (và cả viên
chức) đã phải nắm rõ những yêu cầu quy tắc
đạo đức đã được luật hóa. Các thành viên
tham gia xây dựng dự án luật nên thực hiện,
hoặc tham khảo các nghiên cứu cần thiết có
khảo sát, thống kê và phân tích cụ thể xem
các giá trị đạo đức công nào là quan trọng
nhất đối với khu vực công ở Việt Nam.
Hơn nữa, vấn đề cần nhấn mạnh là, dù
chỉ sửa đổi, bổ sung các luật đã có, hay ban
hành đạo luật riêng thì vẫn cần sớm có
những quy định pháp lý chính thức, đầy đủ,
bao quát về các giá trị công làm nền tảng
trong khu vực công của Việt Nam, trong bối
cảnh đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình
dịch vụ công; trên cơ sở đó, ban hành đồng
30 Luật Hành chính công của bang Victoria, Australia, số 108 năm 2004, phiên bản (sửa đổi) số 054, tháng 2/2016.
31 Khái niệm này, như đã phân tích trong bài là một ý nghĩa ngoại vi của Trách nhiệm giải trình, và trong trường hợp này
có thể thay thế lẫn nhau với khái niệm Trách nhiệm. Theo đó, công chức có trách nhiệm cung cấp những lời khuyên ngay
thẳng, trung thực, đúng thời gian đến Chính phủ, cũng như cung cấp các dịch vụ với chất lượng cao nhất đến cộng đồng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gia_tri_dao_duc_cong_va_gioi_han_trach_nhiem_trong_thuc_thi.pdf