Giá trị dấu ấn sinh học DKK1 và HBX-Line1 trong chẩn đoán và theo dõi điều trị ung thư biểu mô tế bào gan

Kết quả xét nghiệm HBx-LINE1. Trong nghiên cứu này, tất cả 114/114 mẫu bệnh phẩm (100%) của BN UBTG nhiễm HBV được xét nghiệm đều không phát hiện thấy biểu hiện chuyển gen HBxLINE1. Kết quả này tương tự nghiên cứu của J. Zucman-Rossi và CS (2014) (Pháp) [8], một lần nữa cho thấy ngoài kết quả trước đó của C.C. Lau (2014) [5] phát hiện thấy biểu hiện chuyển gen HBx-LINE1 ở 23,3% số mẫu UBTG/HBV, cho đến nay các nghiên cứu ngoài Hồng-Kông (như ở Pháp, Việt Nam) đều chưa phát hiện thấy biểu hiện chuyển gen HBx-LINE ở BN UBTG/HBV. Có thể ở Việt Nam, tỷ lệ nhiễm HBV mạn tính cao (15 - 20%), trong đó kiểu gen B chiếm ưu thế nhất (45,5% theo B.H Hoàng, 2004) nên sẽ có sự khác biệt với nghiên cứu ở Hồng Kông (nơi có kiểu gen C chiếm ưu thế) của C.C. Lau, Chúng tôi cho rằng cần có nghiên cứu tiếp theo sâu hơn ở các trung tâm khác sẽ giúp đánh giá chính xác hơn vai trò tiên lượng và theo dõi điều trị của HBx-LINE1 trong bệnh lý UBTG.

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị dấu ấn sinh học DKK1 và HBX-Line1 trong chẩn đoán và theo dõi điều trị ung thư biểu mô tế bào gan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018 37 GIÁ TRỊ DẤU ẤN SINH HỌC DKK1 VÀ HBx-LINE1 TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ THEO DÕI ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BIỂU MÔ TẾ BÀO GAN Lê Trung Hải*; Phan Quốc Hoàn**; Nguyễn Tiến Thịnh**; Lê Thanh Sơn*** Ngô Tất Trung**; Đào Đức Tiến**; Lê Trung Hiếu**; Đào Phương Giang** và CS TÓM TẮT Mục tiêu: đánh giá giá trị của DKK1 và HBx-LINE1 trong chẩn đoán và theo dõi điều trị ung thư biểu mô tế bào gan có nhiễm virut viêm gan B và phân tích mối liên quan với lâm sàng và cận lâm sàng. Đối tượng và phương pháp: nghiên cứu 114 trường hợp ung thư biểu mô tế bào gan có nhiễm virut viêm gan B tại Bệnh viện TWQĐ 108 và Bệnh viện Quân y 103 (1 - 2016 đến 3 - 2018). Xét nghiệm DKK1 và HBx-LINE1 thực hiện tại tại Khoa Sinh học Phân tử, Bệnh viện TWQĐ 108, sử dụng kỹ thuật realtime PCR với đầu dò Taqman xác định mức độ biểu hiện gen DKK1 và kỹ thuật ELISA để xác định nồng độ protein DKK1 huyết thanh. Xác định tần suất chuyển gen HBx-LINE1 tách ARN, tổng hợp cADN, nhân gen HBx bằng phương pháp giải trình tự gen và chạy PCR cho sequencing. Kết quả: với ngưỡng DKK1 ≥ 2,15 ng/ml, tỷ lệ nồng độ protein DKK1 huyết thanh dương tính ở các nhóm nghiên cứu tăng cao hơn so với tỷ lệ dương tính của xét nghiệm AFP. So sánh với nhóm xơ gan, giá trị trung bình nồng độ protein DKK1 huyết thanh của nhóm ung thư biểu mô tế bào gan tăng rõ rệt ở nhóm xơ gan (p < 0,05). Sử dụng phối hợp cả 2 xét nghiệm AFP và biểu hiện gen DKK1 sẽ cải thiện tỷ lệ dương tính và giúp chẩn đoán thêm 12,3% trường hợp ung thư biểu mô tế bào gan. Phân tích logistic cho thấy nguy cơ mắc ung thư biểu mô tế bào gan ở nhóm có DKK1 ≥ 2,15 ng/ml cao gấp 18,5 lần. Mức độ biểu hiện gen DKK1 giảm khi số lượng ≥ 2 khối u so với 1 khối u, giảm khi kích thước u ≥ 5 cm so với khối u < 5 cm, tương tự như thay đổi giảm của nồng độ AFP liên quan với số lượng và kích thước khối u. Mức độ biểu hiện gen DKK1 giảm ở thời điểm theo dõi kiểm tra sau cắt gan do ung thư biểu mô tế bào gan so với thời điểm trước cắt gan, giảm ở thời điểm sau cắt gan > 12 tháng so với trước thời điểm này. Tất cả 114/114 mẫu bệnh phẩm (100%) của bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan có nhiễm virut viêm gan B được xét nghiệm đều không phát hiện thấy biểu hiện chuyển gen HBx-LINE1. Kết luận: các dấu ấn sinh học protein DKK1 huyết thanh và biểu hiện gen DKK1 có giá trị trong chẩn đoán ung thư biểu mô tế bào gan, nhất là khi AFP âm tính. Chưa phát hiện thấy biểu hiện chuyển gen Hbx-LINE1 ở bệnh nhân ung thư biểu mô tế bào gan có nhiễm virut viêm gan B. * Từ khóa: Ung thư biểu mô tế bào gan; Dấu ấn sinh học; DKK1; HBx-LINE1; Chẩn đoán. * Cục Quân y ** Bệnh viện TWQĐ 108 *** Bệnh viện Quân y 103 Người phản hồi (Corresponding): Lê Trung Hải (mgprof.lthai@gmail.com) Ngày nhận bài: 26/04/2018; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 13/06/2018 Ngày bài báo được đăng: 21/06/2018 T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018 38 Study on Validity of Biomarkers DKK1 and HBx-LINE1 in Diagnosis and Post-treatment Monitoring of Hepatocellular Carcinoma Summary Objectives: To evaluate validity of DKK1 and HBx-LINE1 in diagnosis and post-treatment of hepatocellular carcinoma/HBV and analyse relationship with clinical and paraclinical some characteristics. Subjects and methods: Study on 114 hepatocellular carcinoma patients at Central Military Hospital 108 and 103 Military Hospital (1 - 2016 to 3 - 2018). DKK1 and HBx-LINE1 were analyzed in Department of Microbiology of Central Military Hospital 108, including using realtime PCR technique with Taqman probe for level of DKK1 expression and ELISA technique for serum protein DKK1. Total RNA was transcribed to cDNA and subsequently amplified by hemi-nested PCR in order to identify HBx-LINE1 transcripts. Results: With DKK1 ≥ 2.15 ng/mL, the positive rates of serum protein DKK1 were significantly increased when compared with those of AFP. The mean of serum protein DKK1 of hepatocellular carcinoma was significant higher than that in liver cirrhosis patients with p < 0.05. Combination between AFP and DKK1 expression improved positive rates and help more diagnosis in 12.3% of hepatocellular carcinoma cases. Logistic regression analysis showed the risk of hepatocellular carcinoma increased about 18.5 times when DKK1 ≥ 2.15 ng/mL. The level of DKK1 expression reduced in patients with ≥ 2 tumors compared with one tumor and in cases with size ≥ 5 cm compared with < 5 cm. This correlation was the same with reducing of AFP related with quantity and size of tumor. The level of DKK1 expressions reduced in posthepatectomy when compared with those before surgery and in time of more than one year when compare with those from 1 to 12 months. We did not identify HBx-LINE1 fusion transcript in all 114 (100%) HBV-related hepatocellular carcinoma patients. Conclusion: Biomarkers serum protein DKK1 and DKK1 expression have validity in diagnosis and post-treatment of hepatocellular carcinoma, especially for AFP-negative patient. HBx-LINE1 fusion transcript was not identified in our study. * Keywords: Hepatocellular carcinoma; Biomarker; DKK1; HBx-LINE1; Diagnosis. ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư biểu mô tế bào gan (UBTG) là một trong những loại ung thư khá phổ biến trên thế giới và ở Việt Nam, gây tỷ lệ tử vong cao cho người bệnh. Nghiên cứu công bố gần đây tháng 11 - 2017 cho thấy trong quần thể gần 120.000 trường hợp ung thư được phát hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh 20 năm (từ 1995 - 2014), UBTG đứng hàng thứ ba, chỉ sau ung thư phổi và ung thư vú. Đặc biệt, theo nghiên cứu tổng hợp gần đây tại các bệnh viện lớn trong quân đội của Trần Ngọc Dũng (2018) [1], UBTG chiếm nhiều nhất trong số các bệnh lý ung thư mà quân nhân mắc phải, đây là vấn đề rất đáng quan tâm cần nghiên cứu để phòng chống của Ngành Quân y Việt Nam. Những nguyên nhân có liên quan đến virut viêm gan B (HBV) gây UBTG được xác định là do kiểu gen, đột biến gen HBx của HBV, tính chất di truyền học của người bệnh và quá trình tương tác giữa bộ gen của virut với ADN của tế bào gan. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018 39 Các nghiên cứu cho thấy sự tương tác qua lại giữa gen HBV và gen người có thể phát sinh ung thư, nhất là liên quan đến việc tạo ra phiên mã tổ hợp gen virut - người (HBx-LINE1) có chức năng tương tự như ARN không mã hóa đoạn dài, gây tăng nguy cơ sinh u và phát triển UBTG. Nghiên cứu của Lau Chi-Chiu (Hồng Kông, 2014) [4] cho thấy sự xuất hiện của chuyển gen HBx-LINE1 chiếm 23,3% khối mô ung thư gan. Đây được coi là một đột biến khơi mào cho dịch chuyển từ tế bào gan lành nhiễm HBV sang tế bào ác tính. Điều này có nghĩa HBx-LINE1 xuất hiện cần được nhìn nhận như một dấu ấn rất sớm thúc đẩy quá trình chuyển dạng ác tính của tế bào gan mang HBV. Tuy nhiên, J. Zucman-Rossi và CS (Pháp, 2014) [8] qua 50 trường hợp UBTG có liên quan đến HBV nhưng không thấy xuất hiện của chuyển gen HBx-LINE1. Tác giả cho rằng xuất hiện của chuyển gen HBx-LINE1 ở bệnh nhân (BN) UBTG/HBV ở Hồng Kông có thể chỉ giới hạn trong quần thể dân cư ở đây, nơi mà HBV với kiểu gen C chiếm ưu thế và đề nghị cần có nghiên cứu độc lập để tiếp tục đánh giá. Việc chẩn đoán UBTG dựa vào các yếu tố chính là chẩn đoán hình ảnh, xét nghiệm dấu ấn sinh học và tế bào mô học. Xét nghiệm dấu ấn sinh học không chỉ có vai trò quan trọng trong chẩn đoán mà còn giúp tiên lượng, theo dõi kết quả điều trị, đánh giá nguy cơ tái phát trong UBTG. Các dấu ấn sinh học có giá trị và được quan tâm nhiều gồm dấu ấn trong huyết thanh: alpha foeto-protein (AFP), AFP-L3, Des-gamma-carboxyprothrombine (DCP) và dấu ấn phân tử. Tuy nhiên, việc sử dụng AFP trong chẩn đoán UBTG có thể bị dương tính giả hoặc âm tính giả với một tỷ lệ không nhỏ. Các xét nghiệm AFP-L3 và DCP giúp tăng tỷ lệ chẩn đoán. Khi kết hợp các dấu ấn này với nhau sẽ làm tăng khả năng phát hiện UBTG, nhất là khi khối u có kích thước < 2 cm. Tuy nhiên, điều này làm tăng giá thành chẩn đoán và không phải cơ sở y tế nào cũng có thể tiến hành được. Vì vậy, nghiên cứu tìm ra một dấu ấn sinh học mới nhằm nâng cao độ nhạy, độ đặc hiệu, đặc biệt bổ trợ cho dấu ấn đang tồn tại như AFP cũng như bổ trợ cho trường hợp khối u gan nhỏ trong chẩn đoán UBTG, đồng thời giúp tiên lượng và theo dõi hiệu quả điều trị là cần thiết. DKK1 (Dickkopf-1) là một loại glycoprotein giữ vai trò quan trọng trong phát triển phôi thai. Nó hoạt động như một chất ức chế con đường tín hiệu quan trọng cho phát triển tế bào và đang được nghiên cứu phục vụ cho liệu pháp đích tiềm năng trong UBTG. Vai trò của DKK1 trong chẩn đoán UBTG cũng được quan tâm nghiên cứu trong những năm gần đây và cho kết quả rất khả quan. Shen và CS (2012) [7] nghiên cứu đa trung tâm cho thấy sử dụng nồng độ DKK1 huyết thanh có kết quả chẩn đoán UBTG tốt hơn so với AFP. Khi kết hợp đồng thời DKK1 và AFP sẽ cải thiện độ chính xác của chẩn đoán UBTG so với khi chỉ sử dụng một test chẩn đoán đơn thuần. Nghiên cứu tiếp theo phân tích tổng hợp nhiều báo cáo của Jie Zhang (2014) [4] cũng cho thấy DKK1 hoặc kết hợp DKK1 với AFP có giá trị chẩn đoán chính xác cao UBTG. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018 40 Với hy vọng có thể góp phần xác định các dấu ấn sinh học mới giúp chẩn đoán, theo dõi tiên lượng điều trị UBTG và nghiên cứu liệu pháp trúng đích tiềm năng trong điều trị UBTG ở Việt Nam, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu: - Đánh giá giá trị của DKK1 trong chẩn đoán UBTG và theo dõi sau điều trị cắt gan do UBTG. Phân tích mối liên quan giữa DKK1 với một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của UBTG. - Xác định tần suất chuyển gen HBx- LINE1 ở BN UBTG có nhiễm HBV và đánh giá giá trị của chuyển gen HBx-LINE1 trong theo dõi điều trị UBTG/HBV. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu. BN UBTG có nhiễm HBV được điều trị tại Bệnh viện TWQĐ 108 và Bệnh viện Quân y 103 từ 1 - 2016 đến 3 - 2018. - Tổng số BN nghiên cứu gồm 120 trường hợp, chia làm 4 nhóm. Nhóm 1: UBTG được điều trị phẫu thuật cắt gan (33 BN), có lấy mẫu bệnh phẩm qua mảnh gan cắt. Nhóm 2: nhóm UBTG có lấy bệnh phẩm qua sinh thiết gan (81 BN), điều trị can thiệp hoặc các biện pháp khác. Nhóm 3: nhóm xơ gan có nhiễm HBV (6 BN), lấy bệnh phẩm qua sinh thiết gan (nhóm tham khảo). Nhóm 4: nhóm theo dõi điều trị (19 BN), gồm BN đã phẫu thuật cắt gan và xuất viện được mời đến kiểm tra theo dõi kết quả điều trị, được xét nghiệm protein DKK1 huyết thanh và mức độ biểu hiện gen DKK1 sau mổ. 2. Phương pháp nghiên cứu. Mô tả, tiến cứu. - Phương pháp nghiên cứu: lâm sàng, cận lâm sàng. - Lấy mẫu bệnh phẩm qua sinh thiết gan và lấy mẫu bệnh phẩm qua phẫu thuật cắt gan được bảo quản trong hộp bảo ôn và gửi đến Khoa Sinh học Phân tử, Bệnh viện TWQĐ 108 trong vòng 3 giờ sau lấy mẫu. - Phương pháp xét nghiệm DKK1 và HBx-LINE1: thực hiện tại Khoa Sinh học Phân tử, Bệnh viện TWQĐ 108. Trong triển khai xét nghiệm mức độ biểu hiện gen DKK1 và nồng độ protein DKK1 huyết thanh ở BN UBTG, lưu ý các khâu tách ARN, tổng hợp cADN, lựa chọn gen nội chuẩn, sử dụng kỹ thuật realtime PCR với đầu dò Taqman để xác định mức độ biểu hiện gen DKK1 và sử dụng kỹ thuật ELISA (kít của Công ty R&D Systems, Inc) để xác định nồng độ protein DKK1 huyết thanh. Trong xét nghiệm xác định tần suất chuyển gen HBx-LINE1 ở BN UBTG có nhiễm HBV, lưu ý các bước tách ARN (sử dụng kít tách của Quiagen), tổng hợp cADN (bộ kít của Thermo), nhân gen HBx bằng phương pháp giải trình tự gen (máy CEQ8800) và chạy PCR cho sequencing. - Xử lý số liệu theo phần mềm SPSS 15.0. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018 41 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN 1. Kết quả xét nghiệm DKK1. * Định lượng protein DKK1 huyết thanh: Bảng 1: Nồng độ protein DKK1 huyết thanh của nhóm BN UBTG. Nhóm cắt gan do UBTG Nhóm sinh thiết gan do UBTG Chung 2 nhóm Phân nhóm DKK1 (ng/ml) n % n % n % < 2,15 2 6,06 1 1,23 3 2,63 ≥ 2,15 31 93,94 80 98,77 111 97,37 Tổng số 33 100 81 100 114 100 Giá trị trung bình (min - max) 133,3 ± 94,48 (0 - 336,39) 123,68 ± 96,19 (0 - 456,02) 126,47 ± 94,83 (0 - 456,02) Bảng 2: Nồng độ AFP huyết thanh của nhóm UBTG (n = 114). Nhóm cắt gan do UBTG Nhóm sinh thiết gan do UBTG Chung 2 nhóm Phân nhóm AFP (ng/ml) n = 33 % n = 81 % n = 114 % < 20 16 48,48 25 30,86 41 39,96 ≥ 20 17 51,52 56 69,14 73 60,04 Giá trị trung bình (min - max) 534,15 ± 924,14 (0,85 - 3300) 734,76 ± 894,05 (1,93 - 2479) 659,54 ± 905,43 (0,85 - 3300) Nghiên cứu của chúng tôi với ngưỡng ≥ 2,15 ng/ml, tỷ lệ nồng độ protein DKK1 huyết thanh dương tính ở các nhóm cắt gan, nhóm sinh thiết gan và chung cả 2 nhóm trên lần lượt là 93,94%, 98,77% và 97,37%, cao hơn nhiều so với tỷ lệ dương tính của xét nghiệm AFP (nồng độ ≥ 20 ng/ml) của các nhóm tương ứng nói trên lần lượt là 51,52%, 69,64% và 62,92%. Ngoài ra, nếu so sánh (tham khảo) với nhóm xơ gan, các giá trị trung bình nồng độ protein DKK1 huyết thanh của nhóm UBTG (126,47 ± 94,83 ng/ml) tăng cao rõ rệt so với giá trị này ở nhóm xơ gan (37,04 ± 33,96 ng/ml). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p = 0,024. Tung E.K-K và CS (2012), Jie Zhang và CS (2014) [4] cho rằng xét nghiệm AFP được sử dụng từ lâu, tuy nhiên độ đặc hiệu trong chẩn đoán còn thấp, cần nghiên cứu tìm ra các xét nghiệm chính xác và nhạy hơn để sàng lọc UBTG. Các tác giả cho rằng với ngưỡng dương tính 2,15 ng/ml giúp chẩn đoán và DKK1 là một dấu ấn bổ trợ với AFP trong chẩn đoán UBTG. Nó giúp cải thiện chẩn đoán với BN UBTG có AFP âm tính. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018 42 * Mức độ biểu hiện gen DKK1 (biểu hiện ở mức mARN): Trong 6 BN có mức độ biểu hiện gen DKK1 > 2,15 (dương tính) ở nhóm cắt gan, 5 BN kèm theo nồng độ AFP âm tính với giá trị trung bình mức độ biểu hiện gen DKK1 là 10,03 ± 1,7 (3,76 - 20,11). Chung cả 2 nhóm có 12/57 BN (21,05%) với mức độ biểu hiện gen DKK1 > 2,15 (dương tính), đặc biệt trong đó 7/57 BN (12,3%) có kèm theo nồng độ AFP âm tính với giá trị trung bình mức độ biểu hiện gen DKK1 là 14,51 ± 4,64 (3,76 - 48,17). Như vậy, nếu sử dụng phối hợp cả 2 xét nghiệm AFP và biểu hiện gen DKK1 sẽ giúp cải thiện tỷ lệ dương tính và giúp chẩn đoán thêm cho 12,3% BN UBTG. Việc cải thiện tỷ lệ chẩn đoán chính xác UBTG thêm 12,3% này có ý nghĩa quan trọng, nhất là các trường hợp UBTG có xét nghiệm AFP âm tính. Đây cũng là đóng góp đáng khích lệ và có giá trị trong chẩn đoán UBTG. Trong một nghiên cứu mới đây, Mona Watany và CS (2017) xét nghiệm biểu hiện gen DKK1 ở 50 trường hợp UBTG và 10 ca chứng cho thấy DKK1 là một dấu ấn sinh học rất hứa hẹn, ngay cả khi ở BN có AFP âm tính, việc phối hợp AFP với DKK1 giúp cải thiện tỷ lệ chẩn đoán chính xác UBTG có liên quan viêm gan B [6]. Tác giả đề xuất cần nghiên cứu thêm với số lượng lớn hơn và ở nhiều trung tâm hơn. * Mối liên quan giữa nồng độ protein DKK1 huyết thanh, mức độ biểu hiện gen DKK1 với một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng: Trong mối liên quan của mức độ biểu hiện gen DKK1 với số lượng, kích thước khối u ở nhóm cắt gan do UBTG cho thấy mức độ biểu hiện gen DKK1 giảm khi số lượng ≥ 2 u với giá trị 0,28 ± 0,38 so với ở 1 u là 2,76 ± 6,41. Kết quả này cũng thấy khi kích thước u ≥ 5 cm với giá trị 0,48 ± 0,85 so với < 5 cm là 3,70 ± 7,53. Thay đổi giảm này tương tự ở nồng độ AFP. * Phối hợp mức độ biểu hiện gen DKK1 hoặc protein DKK1 huyết thanh trong chẩn đoán khi AFP âm tính ở nhóm BN cắt gan: BN có AFP âm tính (16 BN có nồng độ < 20 ng/ml với nồng độ trung bình 5,11 ± 1,31 ng/ml) trong nhóm cắt gan đều có nồng độ protein DKK1 huyết thanh > 2,15 ng/ml (dương tính) với giá trị trung bình là 129,82 ± 15,4 ng/ml, so với nhóm xơ gan có nồng độ protein DKK1 huyết thanh trung bình 37,04 ± 3,78 ng/ml. Như vậy, nếu sử dụng phối hợp cả 3 xét nghiệm AFP và nồng độ protein DKK1 huyết thanh cũng như biểu hiện gen DKK1 sẽ giúp chẩn đoán thêm các trường hợp AFP âm tính. - Kết quả phân tích logistic cho thấy nguy cơ mắc UBTG ở nhóm có protein DKK1 huyết thanh ≥ 2,15 cao gấp 18,5 lần so với nhóm xơ gan, p = 0,005. * Giá trị theo dõi điều trị UBTG và mối liên quan của DKK1: Trong tổng số 33 BN cắt gan do UBTG, 19 ca đến kiểm tra và được làm các xét nghiệm protein DKK1 huyết thanh, xác định mức độ biểu hiện gen DKK1. Thời gian trung bình sau điều trị cắt gan 11,68 tháng (4 - 20 tháng sau cắt gan do UBTG). Kết quả cho thấy có thay đổi về mức độ T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018 43 biểu hiện gen DKK1 ở thời điểm theo dõi kiểm tra sau cắt gan (0,98 ± 2,10), giảm so với trước cắt gan (2,23 ± 6,49). Đồng thời, mức độ biểu hiện gen DKK1 ở thời điểm sau cắt gan > 12 tháng (0,22 ± 0,09) giảm so với trước thời điểm này (1 - 12 tháng) với mức độ biểu hiện gen DKK1 là 1,28 ± 0,59. Nồng độ protein DKK1 không thay đổi giữa trước và sau cắt gan. Tỷ lệ dương tính của protein DKK1 (≥ 2,15 ng/ml) tăng lên sau cắt gan (100%) so với trước cắt gan (89,47%), nhưng chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). - Tương quan giữa mức độ biểu hiện gen DKK1 và AFP trước và sau mổ cắt gan: ở BN có AFP âm tính cũng như AFP dương tính trước mổ, mức độ biểu hiện gen DKK1 sau cắt gan đều giảm so với thời điểm trước mổ. Trong khi nồng độ protein DKK1 huyết thanh giảm ở thời điểm sau mổ ở BN có AFP trước mổ âm tính, giá trị này lại tăng lên ở thời điểm sau mổ ở BN có AFP dương tính trước mổ, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Nghiên cứu của Jeng J-E và CS (2014) ở Đài Loan cho thấy mức độ DKK1 thực sự giảm sau phẫu thuật cắt gan. AFP huyết thanh được xác định là một trong những yếu tố tiên lượng ở UBTG [3]. Với UBTG ở giai đoạn muộn, nồng độ AFP tương quan với kích thước khối u và AFP tăng sẽ làm tăng nguy cơ tái phát sớm và tiên lượng xấu sau điều trị triệt căn. Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây chỉ ra AFP không có vai trò tiên lượng đối với UBTG nhỏ, mức độ DKK1 huyết thanh là một dấu ấn tiên lượng trong UBTG chưa có xâm lấn. Mức tăng DKK1 huyết thanh hoặc biểu hiện gen DKK1 cho thấy kết quả lâm sàng không tốt, đặc biệt UBTG ở giai đoạn sớm và UBTG có AFP âm tính. Vì vậy, BN UBTG có biểu hiện gen DKK1 cao thường có tiên lượng xấu. Đây chính là yếu tố tiên lượng mới trong UBTG. 2. Kết quả xét nghiệm HBx-LINE1. Trong nghiên cứu này, tất cả 114/114 mẫu bệnh phẩm (100%) của BN UBTG nhiễm HBV được xét nghiệm đều không phát hiện thấy biểu hiện chuyển gen HBx- LINE1. Kết quả này tương tự nghiên cứu của J. Zucman-Rossi và CS (2014) (Pháp) [8], một lần nữa cho thấy ngoài kết quả trước đó của C.C. Lau (2014) [5] phát hiện thấy biểu hiện chuyển gen HBx-LINE1 ở 23,3% số mẫu UBTG/HBV, cho đến nay các nghiên cứu ngoài Hồng-Kông (như ở Pháp, Việt Nam) đều chưa phát hiện thấy biểu hiện chuyển gen HBx-LINE ở BN UBTG/HBV. Có thể ở Việt Nam, tỷ lệ nhiễm HBV mạn tính cao (15 - 20%), trong đó kiểu gen B chiếm ưu thế nhất (45,5% theo B.H Hoàng, 2004) nên sẽ có sự khác biệt với nghiên cứu ở Hồng Kông (nơi có kiểu gen C chiếm ưu thế) của C.C. Lau, Chúng tôi cho rằng cần có nghiên cứu tiếp theo sâu hơn ở các trung tâm khác sẽ giúp đánh giá chính xác hơn vai trò tiên lượng và theo dõi điều trị của HBx-LINE1 trong bệnh lý UBTG. KẾT LUẬN Các dấu ấn sinh học protein DKK1 huyết thanh và biểu hiện gen DKK1 có giá trị trong chẩn đoán UBTG, nhất là khi AFP âm tính. Chưa phát hiện thấy biểu hiện chuyển gen Hbx-LINE1 ở BN UBTG có nhiễm HBV. T¹p chÝ y - d−îc häc qu©n sù sè 6-2018 44 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Ngọc Dũng. Nghiên cứu cơ cấu bệnh ung thư ở quân nhân tại một số bệnh viện quân đội. Đề tài báo cáo tại Hội nghị Sinh viên NCKH Học viện Quân y. 6/2018. 2. Edmund Kwok-Kwan Tung et al. Significance of serum DKK1 as a diagnostic biomarker in HCC. Future Oncol. 2012, Dec, 8 (12), pp.1525-1528. 3. Jeng J.E, Chuang L.Y, Chuang W.L, Tsai J.F. Serum Dickkopt-1 as a biomarker for the diagnosis of HCC. Chin Clin Oncol. 2012, 1, pp.4-7. 4. Jie Zhang et al. Sensitivity and specificity of Dickkopf-1 protein in serum for diagnosing hepatocellular carcinoma: a meta-analysis. J Biol Markers. 2014, Dec 9, 29 (4), e403-410. 5. Lau C.C, Sun T, Ching A.K et al. Viral- human chimeric transcript predisposes risk to liver cancer development and progression. Cancer Cell. 2014, 25, pp.335-349. 6. Mona Watany et al. Study of Dickkopf-1 (DKK-1) gene expression in HCC patients. Journal of Clinical and Diagnostic Research (JCDR). 2017, Feb, 11:2, OC32-OC34. 7. Shen Q, Fan J, Yang X.R. Serum DKK1 as a protein biomarker for the diagnosis of hepatocellular carcinoma: a large-scale, multicenter study. Lancet Oncol. 2012, 13, pp.817-826. 8. Zucman-Rossi J. Authors’ response: virus-host in HBV-related HCC: more to be revealed. Gut. 2014, 0, p.1.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgia_tri_dau_an_sinh_hoc_dkk1_va_hbx_line1_trong_chan_doan_va.pdf
Tài liệu liên quan