Giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn của tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản"
Cách đây vừa đúng 160 năm, ngày 24 tháng 2 năm 1848, tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” do Mác và Ăng ghen soạn thảo đã được xuất bản ở Luân Đôn - thủ đô nước Anh, một trong những cái nôi của chủ nghĩa tư bản.
Tuyên ngôn đã chứng tỏ sức mạnh vĩ đại của tư tưởng - lý luận tiên tiến, vạch thời đại của thế giới quan khoa học và cách mạng, ở chỗ không chỉ giải thích thế giới một cách khoa học mà còn cải tạo thế giới đó bằng cách mạng. Những nguyên lý C.Mác và Ăngghen trình bày trong tác phẩm này là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho toàn bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sự ra đời của tác phẩm vĩ đại này đánh dấu sự hình thành về cơ bản lý luận của chủ nghĩa Mác bao gồm 3 bộ phận hợp thành là triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Tuyên ngôn là ngọn cờ tư tưởng dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, giải phóng loài người vĩnh viễn thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột giai cấp, bảo đảm cho loài người được thực sự sống trong hòa bình, tự do và hạnh phúc. Những tư tưởng khoa học, cách mạng vạch thời đại trong Tuyên ngôn có giá trị tổ chức, cổ vũ, động viên lớn lao đối với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
10 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2567 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn của tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn của tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản"
Tác giả : Th.s. Nguyễn Văn Thành - P.Trưởng khoa Kinh tế
File đính kèm: Không có
Cách đây vừa đúng 160 năm, ngày 24 tháng 2 năm 1848, tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” do Mác và Ăng ghen soạn thảo đã được xuất bản ở Luân Đôn - thủ đô nước Anh, một trong những cái nôi của chủ nghĩa tư bản. Tuyên ngôn đã chứng tỏ sức mạnh vĩ đại của tư tưởng - lý luận tiên tiến, vạch thời đại của thế giới quan khoa học và cách mạng, ở chỗ không chỉ giải thích thế giới một cách khoa học mà còn cải tạo thế giới đó bằng cách mạng. Những nguyên lý C.Mác và Ăngghen trình bày trong tác phẩm này là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho toàn bộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Sự ra đời của tác phẩm vĩ đại này đánh dấu sự hình thành về cơ bản lý luận của chủ nghĩa Mác bao gồm 3 bộ phận hợp thành là triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Tuyên ngôn là ngọn cờ tư tưởng dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, giải phóng loài người vĩnh viễn thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột giai cấp, bảo đảm cho loài người được thực sự sống trong hòa bình, tự do và hạnh phúc. Những tư tưởng khoa học, cách mạng vạch thời đại trong Tuyên ngôn có giá trị tổ chức, cổ vũ, động viên lớn lao đối với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Trước hết, những giá trị khoa học của Tuyên ngôn thể hiện qua những nguyên lý cách mạng của chủ nghĩa xã hội khoa học, trở thành kim chỉ nam hành động cho các Đảng cộng sản sau này. Một là, Tuyên ngôn đã vạch rõ, từ khi lịch sử xã hội loài người đã phân chia giai cấp, đã xuất hiện những đối kháng giai cấp thì đấu tranh giai cấp là một trong những động lực của lịch sử. Tuyên ngôn viết: “Lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngày nay chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp. Người tự do và người nô lệ, quý tộc và bình dân, chúa đất và nông nô, thợ cả phường hội và thợ bạn, nói tóm lại những kẻ áp bức và những người bị áp bức, luôn đối kháng với nhau đã tiến hành một cuộc đấu tranh không ngừng, lúc công khai, lúc ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh bao giờ cũng kết thúc hoặc bằng một cuộc cải tạo cách mạng toàn bộ xã hội hoặc bằng sự diệt vong của hai giai cấp đấu tranh với nhau”(1) .Các cuộc đấu tranh này là sự phản ánh về mặt xã hội của sự vận động kinh tế và sản xuất để giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong các thời đại lịch sử khác nhau. Với tư tưởng này, Tuyên ngôn đã thể hiện quan điểm duy vật về lịch sử. Đó là việc thể hiện quan điểm duy vật triệt để trong việc nhận thức xã hội. Bằng sự phân tích quá trình phát triển kinh tế qua các thời đại lịch sử, Mác và Ăng ghen đã chỉ rõ nguyên nhân cuối cùng của mọi sự biến đổi xã hội chính là bắt nguồn từ sự thay đổi trong đời sống vật chất. Điều đó có nghĩa là, mọi sự thay đổi trong đời sống tinh thần không thể tìm nguyên nhân từ bản thân nó mà phải giải thích và tìm cội nguồn từ sự thay đổi của đời sống kinh tế, và muốn thay đổi ý thức, đời sống tinh thần thì phải cải tạo, biến đổi đời sống vật chất đã sinh ra nó. Thứ hai, Tuyên ngôn đã luận chứng cho vai trò cách mạng mang tính lịch sử thế giới của giai cấp vô sản trong việc lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Sự ra đời của giai cấp vô sản được Tuyên ngôn chỉ rõ, đó là do nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại, cạnh tranh tự do đã đưa giai cấp tư sản lên địa vị thống trị về kinh tế và chính trị. Song nền sản xuất đại công nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản đã tạo ra lực lượng xã hội ngày càng mạnh mẽ để chống lại chính chủ nghĩa tư bản, đó là giai cấp vô sản. “Giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình mà nó còn tạo ra những người sử dụng những vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản”(2). Trong sự phân tích của Mác-Ăng ghen, giai cấp vô sản sở dĩ thực sự là một giai cấp cách mạng bởi nó đại diện và tiêu biểu cho lực lượng sản xuất mới, tiên tiến của toàn xã hội, cho một phương thức sản xuất tiên tiến của lịch sử, nó đại biểu cho xu thế, triển vọng của tương lai. Nó không có lợi ích riêng với nghĩa là tư hữu. Nó đại biểu cho lợi ích của toàn xã hội. Giai cấp vô sản tìm thấy lợi ích chân chính của mình khi đấu tranh cho lợi ích của toàn xã hội. Chỉ bởi điều đó mà giai cấp vô sản mang được một phẩm chất cao quý là triệt để cách mạng, cùng với tinh thần quốc tế cao cả, phấn đấu cho lợi ích chung, không chỉ giải phóng mình mà cho toàn thể loài người, xóa bỏ sự thống trị, nô dịch của chủ nghĩa tư bản không chỉ trong phạm vi dân tộc mà trên toàn thế giới. Đại công nghiệp đã rèn cho giai cấp vô sản những đức tính tổ chức và kỷ luật để thực thi sứ mệnh lịch sử của nó. Thứ ba, Tuyên ngôn đã vạch rõ con đường đấu tranh của giai cấp vô sản. Để đấu tranh giành thắng lợi thì giai cấp vô sản cần có một Đảng thực sự sáng suốt về mặt tư tưởng cho cuộc đấu tranh của mình. Đảng tập hợp trong hàng ngũ của mình những người ưu tú nhất của giai cấp vô sản. Đảng đi đầu quần chúng vô sản trong đấu tranh. Sự ra đời của Đảng cộng sản là tất yếu để đảm bảo cho giai cấp vô sản hoàn thành sứ mệnh lịch sử. Mác - Ăng ghen đã vạch rõ mục tiêu của giai cấp vô sản và Đảng của nó là tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền, trở thành một giai cấp thống trị, tức là nắm chính quyền để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Nhưng Đảng cộng sản không phải là một đảng riêng biệt, Đảng là một bộ phận gắn liền với giai cấp. Lợi ích của Đảng thống nhất với lợi ích giai cấp, mục đích của Đảng là mục đích của giai cấp, Đảng là đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào vô sản. Kết quả của phong trào vô sản không dừng lại ở sự ra đời của chính Đảng mà còn biểu hiện ở chỗ giai cấp vô sản biết hành động theo sự lãnh đạo của Đảng. Con đường phát huy sức mạnh của Đảng cộng sản trước hết phải giữ vững và cũng cố mối liên hệ giữa Đảng và giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Tuyên ngôn đã đưa ra một nhận định sắc bén và đầy tinh thần lạc quan cách mạng: “sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau” (3). Thứ tư, Tuyên ngôn chỉ rõ giai cấp vô sản chỉ có thể đạt được mục đích bằng con đường đấu tranh giai cấp, dùng bạo lực cách mạng để lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, bởi trong cuộc cách mạng ấy, những người cộng sản nếu mất chỉ là mất xiềng xích, còn được thì được cả thế giới. Nhiệm vụ nặng nề mà giai cấp vô sản phải thực hiện sau khi giành được chính quyền là từng bước cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên mọi lĩnh vực vì quyền lợi của nhân dân lao động. Nguyên tắc sách lược chung của Đảng cộng sản là ủng hộ mọi phong trào cách mạng chống chế độ tư sản đương thời và tập hợp các lực lượng dân chủ nhưng những người cộng sản phải luôn giữ vững tính độc lập của giai cấp mình. Thứ năm, để đập tan luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa cộng sản của giai cấp tư sản, Tuyên ngôn đã khẳng định và bảo vệ một loạt những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản. “Lý luận của những người cộng sản tuyệt nhiên không dựa trên những ý niệm, những nguyên lý do một nhà cải cách thế giới nào phát minh hay phát hiện ra.” (4). Mà lý luận của những người cộng sản là sự phản ánh hiện thực khách quan của phong trào vô sản. Trong vấn đề sở hữu, Tuyên ngôn đã chỉ rõ, đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản là xóa bỏ sở hữu tư sản. Giai cấp tư sản đã xuyên tạc rằng những người cộng sản xóa bỏ cái riêng của cá nhân, tức là xóa bỏ sở hữu do cá nhân của mỗi người làm ra, kết quả lao động của cá nhân, sở hữu mà người ta bảo là cơ sở của mọi tự do, mọi hoạt động và mọi sự độc lập của cá nhân. Tuyên ngôn đã giải thich rằng tư bản không phải là lực lượng cá nhân, nó là lực lượng xã hội, nó chỉ có thể vận động được là nhờ sự hoạt động chung của nhiều người. Người sở hữu thì không lao động, người lao động thì không được quyền sở hữu, xã hội vận động trong hai cực đối lập ấy, chỉ có xóa bỏ chế độ tư hữu mới giải quyết được sự đối lập trong xã hội. Điều đó có nghĩa là xóa bỏ tư hữu ở đây không phải là xóa bỏ sở hữu mang tính chất cá nhân mà là xóa bỏ tư hữu về tư bản. Vì tư hữu tư bản là cơ sở để bóc lột sức lao động của người khác. “Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác.” Ở nước ta hiện nay mục tiêu vẫn là xóa bỏ tư hữu tư bản, xác lập chế độ công hữu để xóa bỏ áp bức bóc lột nhưng trong điều kiện lực lượng sản xuất đang ở trình độ chưa cao, chúng ta còn phải chấp nhận còn tồn tại hình thức sơ hữu tư nhân bằng thừa nhận sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Về sau, khi lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ cao, nước ta sẽ từng bước xóa bỏ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Tuyên ngôn cũng đã trình bày rõ vấn đề dân tộc và quốc tế. Dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản nắm quyền đại diện cho tổ quóc, dân tộc. Lợi ích của tổ quốc, dân tộc cơ bản vẫn là lợi ích của giai cấp tư sản. Vì vậy, giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự xây dựng thành một giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc. Hai là, Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là tác phẩm có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối vơi cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới.Chỉ vài thập niên sau khi Tuyên ngôn ra đời, công xã Pari bùng nổ và đứng vững hơn 70 ngày. 70 năm sau thời điểm Mác - Ăng ghen khởi thảo Tuyên ngôn, cách mạng tháng 10 năm 1917 đã giành thắng lợi tại nước Nga, mở ra thời đại mới, thời kỳ quá độ từ chủ ngfhĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.Hiện nay, sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu là tổn thất vô cùng nặng nề, nhưng đó không phải là sự “cáo chung của CNXH”, nó chỉ càng làm nổi bật hậu quả của một loạt mô hình duy trì quá lâu những khiếm khuyết, biến dạng đã dẫn chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào trì trệ, khủng hoảng. Thực tiễn của Việt Nam, Trung Quốc và một số nước khác hiện nay vẫn đang vững bước trên con đường xây dựng CNXH, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới cải cách, mở rộng giao lưu hội nhập và hợp tác quốc tế chính là bằng chứng sinh động, vững chắc khẳng định tính chân lý của chủ nghĩa Mác được thể hiện trong tuyên ngôn. Xu hướng toàn cầu hóa đã được dự báo trong tuyên ngôn. “Nền đại công nghiệp đã xây dựng nên thị trường thế giới vốn được chuẩn bị từ khi phát hiện ra châu Mỹ”, “Vì luôn bị thúc đẩy bởi nhu cầu về những nơi tiêu thụ sản phẩm, giai cấp tư sản xâm lấn khắp hoàn cầu. Nó phải xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ khắp nơi”(5) . Toàn cầu hóa rõ ràng là gắn liền với chủ nghĩa tư bản và hiện nay cũng đang bị chủ nghĩa tư bản chi phối lợi dụng để phục vụ cho mục đích của họ, hay nói cách khác, toàn cầu hóa kinh tế hiện nay đang đi trong quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Đứng trước tình hình đó, Đảng ta đưa ra chủ trương chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Đảng ta xác định: chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa chính là sự vận dụng đúng đắn quy luật phát triển kinh tế – xã hội, khắc phục tối đa mặt trái của cơ chế thị trường, tạo dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh, tăng trưởng kinh tế đi liền với thực hiện công bằng xã hội, xây dựng một xã hội công bằng dân chủ văn minh, mọi người lao động đều được hưởng những giá trị vật chất và tinh thần do mình tạo ra, toàn xã hội quan tâm đến xóa đói giảm nghèo. Ngày nay, do phải đối mặt với CNXH hiện thực, phải đối phó với phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động cho nên dù bản chất áp bức, bóc lột tàn bạo không thay đổi nhưng chủ nghĩa tư bản hiện đại đã có sự điều chỉnh. Sự điều chỉnh này làm cho nhiều người lầm tưởng bản chất của chủ nghĩa tư bản đã thay đổi như việc quan tâm đến người thất nghiệp, cho công nhân mua cổ phần, phát triển phúc lợi xã hội... Nhưng thực chất đó là việc trích một phần nhỏ giá trị thặng dư mà chủ nghĩa tư bản bóc lột được để nhằm xoa dịu đấu tranh giai cấp, bảo vệ cho sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Ngay cuối năm 2007, ở nước Mỹ với dân số 301 triệu người thì vẫn có đến 35 triệu người đói, 11 triệu người không biết đọc, tội phạm gia tăng, tỷ lệ tù nhân trên đầu người cao nhất thế giới. Trong khi đó chính phủ Mỹ đã chi cho 2 cuộc chiến tranh I Rắc và Apganixtan lên đến 700 tỷ USD (Báo Nhân dân ngay 6/1/2008). Như vậy, bản chất của chủ nghĩa tư bản như đã trình bày trong tuyên ngôn đó là bản chất bóc lột - do chế độ tư hữu quy định, vẫn không hề thay đổi. Giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản luôn chạy theo lợi nhuận, nó không để lại giữa người và người một mối quan hệ nào khác, ngoài lợi ích trần trụi và lối “tiền trao cháo múc” không tình, không nghĩa. Vì vậy, tuyên ngôn đã đặt ra nhiệm vụ cho giai cấp vô sản là lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản và không chỉ giải phóng mình mà cho toàn thể loài người thoát khỏi áp bức bóc lột. Tuyên ngôn nêu lên mục tiêu, bản chất của xã hội tương lai là sự phát triển tự do và toàn diện của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do và toàn diện của tất cả mọi người. Tóm lại, sự ra đời của Tuyên ngôn của Đảng cộng sản đánh dấu sự ra đời và chín muồi của chủ nghĩa Mác. Giá trị, sức sống bền vững của tuyên ngôn phản ánh giá trị khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác. Giá trị, sức sống đó đã được thực tiễn cách mạng thế giới kiểm chứng qua nhiều lần thử thách nghiệt ngã. Giá trị, sức sống và ý nghĩa thời đại của bản Tuyên ngôn vẫn được khẳng định bằng thực tiễn cách mạng ở các nước xã hội chủ nghĩa. Công cuộc cải cách, đổi mới với nhiều thành tựu của Trung Quốc, Việt Nam, sự đứng vững của nước Cu ba XHCN trước sự bao vây cấm vận của đế quốc Mỹ, các phong trào cánh tả ở Châu Mỹ la tinh với khẩu hiệu “CNXH thế kỷ XXI”... là những minh chứng về tác động và ý nghĩa thực tiễn của tuyên ngôn của Đảng cộng sản. Tuyên ngôn của Đảng cộng sản luôn đồng hành với Đảng và cách mạng Việt Nam. Tư tưởng khoa học và phương pháp cách mạng của tuyên ngôn đã được Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo trong những năm đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Giá trị khoa học của Tuyên ngôn trước hết giúp Đảng có được cơ sở lý luận và phương pháp luận đúng đắn trong phát triển lý luận, tổng kết thực tiễn nhằm làm sáng tỏ hơn về CNXH và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 160 năm là quãng thời gian dài so với đời của một con người, nhưng lại là ngắn so với lịch sử tiến hóa của nhân loại. Vượt qua thời gian của lịch sử, những giá trị của Tuyên ngôn của Đảng cộng sản là bất diệt, là mặt trời, là ngọn đèn soi sáng con đường cách mạng Việt Nam đi tới tương lai ./.
Những cống hiến lớn lao của Ph. Ăng-ghen vào lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị và tính thời sự đối với công cuộc đổi mới của đất nước ta, đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao nhận thức và làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, tăng cường vai trò lãnh đạo đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hiện nay.
Khi đánh giá công lao to lớn của Ph. Ăng-ghen đối với phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản thế giới, V.I. Lê-nin viết: “Sau bạn ông là Các Mác, Ăng-ghen là nhà bác học và người thầy lỗi lạc nhất của giai cấp vô sản hiện đại trong toàn thế giới văn minh. Từ ngày mà vận mệnh đã gắn liền Các Mác và Phri-đrích Ăng-ghen thì sự nghiệp suốt đời của hai người bạn ấy trở thành sự nghiệp chung của họ. Cho nên muốn hiểu Phri-đrích Ăng-ghen đã làm gì cho giai cấp vô sản thì phải nhận rõ ý nghĩa của học thuyết và hoạt động của Mác đối với sự phát triển của phong trào công nhân hiện đại”.(1)
Mặc dù Ph. Ăng-ghen rất khiêm tốn, luôn luôn tự nhận mình là “cây vĩ cầm thứ hai” bên cạnh C. Mác, luôn khẳng định vai trò sáng lập hàng đầu thuộc về C. Mác, song qua lịch sử hình thành chủ nghĩa Mác, chúng ta đều nhận thấy những đóng góp to lớn, dấu ấn không thể nào phai của Ph.Ăng-ghen. C. Mác đánh giá Ph. Ăng-ghen là một trong những đại biểu xuất sắc nhất của chủ nghĩa xã hội hiện đại, còn V.I. Lê-nin thì khẳng định: “Không thể nào hiểu được chủ nghĩa Mác và trình bày đầy đủ được chủ nghĩa Mác, nếu không chú ý đến toàn bộ những tác phẩm của Ăng-ghen”.(2)
Chúng ta đều biết rằng chủ nghĩa Mác là một hệ thống hoàn chỉnh, toàn vẹn và chặt chẽ bao gồm ba bộ phận cấu thành không thể tách rời: triết học mác-xít mà nội dung của nó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kinh tế chính trị học mà nền tảng là học thuyết giá trị thặng dư, và chủ nghĩa xã hội khoa học. Với hai phát hiện khoa học vĩ đại là chủ nghĩa duy vật lịch sử, học thuyết giá trị thặng dư và với vai trò tổ chức, giáo dục phong trào công nhân quốc tế, cùng với C. Mác, Ph. Ăng-ghen đã đặt nền móng cho chủ nghĩa xã hội khoa học với tính cách là học thuyết về sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng loài người khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột và tha hóa của chủ nghĩa tư bản.
Học thuyết do C. Mác và Ph. Ăng-ghen sáng lập là sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng. Các ông đã vạch rõ sự phát sinh, phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nêu lên những mặt tiến bộ, đồng thời cũng vạch rõ những khuyết tật và mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản. Phù hợp với lý thuyết về hình thái kinh tế - xã hội, coi sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên, Ph. Ăng-ghen cho rằng, chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ bị thay thế bởi một phương thức sản xuất mới, cao hơn, tiến bộ hơn, đó là phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Ph. Ăng-ghen đã đóng góp quan trọng trong việc nhận thức đặc điểm và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh nhằm xóa bỏ áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Chính vì vậy, lý luận của chủ nghĩa Mác trở thành vũ khí sắc bén, ngọn đuốc soi đường cho phong trào đấu tranh giai cấp công nhân giành thắng lợi, đưa phong trào công nhân từ đấu tranh tự phát đến tự giác, từ “giai cấp tự mình” đến “giai cấp cho mình”. Có thể khẳng định việc phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phát kiến vĩ đại thứ ba cùng với hai phát kiến vĩ đại của C. Mác và Ph. Ăng-ghen về chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, càng làm cho sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học.
Theo Ph. Ăng-ghen, giai cấp công nhân có 2 đặc điểm cơ bản là: 1- Về phương thức lao động, phương thức sản xuất, giai cấp công nhân là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính công nghiệp ngày càng hiện đại trong nền sản xuất mang tính xã hội hóa cao. Giai cấp công nhân là giai cấp lao động chủ yếu trong nền sản xuất hiện đại; 2 - Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân phải bán sức lao động cho các nhà tư bản và bị tư bản bóc lột về giá trị thăng dư vì họ không có tư liệu sản xuất. Ông khẳng định: Người lao động hoặc công nhân (working men) và người vô sản; giai cấp công nhân, giai cấp không có của, giai cấp vô sản như những từ đồng nghĩa. Mặc dù là giai cấp lao động chủ yếu trong nền sản xuất hiện đại, là “lực lượng sản xuất hàng đầu” như V.I. Lê-nin khẳng định, giai cấp công nhân vẫn bị bóc lột nặng nề, bị bần cùng hóa không những về đời sống vật chất (tiền công thấp, chỉ đủ tái sản xuất sức lao động, điều kiện lao động nặng nhọc, độc hại, tình trạng thất nghiệp, vấn đề nhà ở khó khăn, việc sử dụng lao động nữ và trẻ em không phù hợp) mà cả về đời sống tinh thần như tình trạng thất học, không có điều kiện tham gia các hoạt động văn hóa, tinh thần.
Từ thực tế này trong quá trình phát triển chủ nghĩa tư bản, Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là: “Sản xuất đã trở thành một hành vi xã hội; trao đổi và cùng với trao đổi là sự chiếm hữu, vẫn là những hành vi cá nhân, hành vi của những người riêng biệt: sản phẩm của lao động xã hội bị nhà tư bản cá thể chiếm hữu. Đó là mâu thuẫn cơ bản, từ đó nảy sinh ra tất cả những mâu thuẫn trong đó xã hội hiện nay đang vận động, những mâu thuẫn mà đại công nghiệp đang làm cho thấy đặc biệt rõ: Tách người sản xuất khỏi tư liệu sản xuất. Giam hãm người lao động vào trong chế độ lao động làm thuê suốt đời. Sự đối lập giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản”(3).
Giai cấp công nhân là giai cấp của những người lao động được hình thành và phát triển gắn với nền sản xuất công nghiệp hiện đại, có trình độ xã hội hóa ngày càng cao, đại biểu cho lực lượng sản xuất, phương thức sản xuất tiên tiến của thời đại hiện nay, đó là lực lượng lao động cơ bản trực tiếp của xã hội. Giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo và tổ chức tiến trình cách mạng vô sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, như Ph. Ăng-ghen viết: “Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy - đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân do những điều kiện khách quan quy định”.
Cùng với sự phát triển của nền công nghiệp, giai cấp công nhân cũng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Khi chủ nghĩa Mác xâm nhập phong trào công nhân, sự kết hợp này đã dẫn đến sự ra đời của đảng cộng sản. Lúc này, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân chuyển từ tự phát sang tự giác, từ đấu tranh kinh tế chuyển sang đấu tranh chính trị. Ph. Ăng-ghen nhấn mạnh, trong cuộc đấu tranh chống lại quyền lực liên hiệp của giai cấp hữu sản, chỉ khi giai cấp vô sản tự tổ chức được thành một đảng độc lập với tất cả chính đảng cũ do giai cấp hữu sản lập ra thì mới có thể hành động với tư cách là một giai cấp độc lập được. Như vậy đảng cộng sản là yếu tố quyết định để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
Chính V.I. Lê-nin xuất phát từ thực tiễn nước Nga đã tổng kết: Chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản thu được.
C. Mác và Ph. Ăng-ghen giả định, chủ nghĩa xã hội ra đời từ xã hội tư bản phát triển trình độ cao, điều này phù hợp với lý luận về hình thái kinh tế - xã hội coi sự phát triển của xã hội loài người như một quá trình lịch sử - tự nhiên. Nhiệm vụ khoa học của hai ông không phải vạch ra mô hình của chủ nghĩa xã hội với mọi chi tiết của nó, đúng như V.I. Lê-nin đã khẳng định “Trong tài liệu của Mác, người ta không thấy mảy may một ý định nào nhằm bịa ra những ảo tưởng, nhằm đặt ra những dự đoán vu vơ về những điều mà người ta không thể nào biết được. Mác đặt vấn đề chủ nghĩa cộng sản giống như một nhà tự nhiên học đặt, chẳng hạn, vấn đề tiến hóa của một giống sinh vật mới, một khi đã biết nguồn gốc của nó và định được rõ rệt hướng của những biến đổi của nó”(4). Còn C. Mác và Ph. Ăng-ghen luôn nhấn mạnh quan điểm “chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo” mà là “một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là kết quả của những tiền đề hiện đang tồn tại”. Cái “trạng thái hiện nay”, theo Ăng-ghen bao gồm:
Thứ nhất, là đối kháng giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản.
Thứ hai, là tình trạng vô chính phủ trong sản xuất, kết quả của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất xã hội hóa cao với quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Cùng với C. Mác, Ph. Ăng-ghen đã phân tích hết sức khoa học sự phát triển của xã hội mới, dự báo một cách thiên tài hai giai đoạn phát triển của xã hội cộng sản, với giai đoạn đầu hay giai đoạn thấp là chủ nghĩa xã hội, mà về mọi phương diện nó còn mang những tì vết của chủ nghĩa tư bản, chẳng hạn dấu vết của pháp quyền tư sản thể hiện trong nguyên tắc phân phối theo lao động. Do vậy, trong giai đoạn này vẫn phải thực hiện nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”, đến giai đoạn sau khi lượng sản xuất đã phát triển tới trình độ cao, các tiền đề về kinh tế, chính trị, xã hội đã chín muồi mới đủ điều kiện để thực hiện nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”.
Ph. Ăng-ghen đã có những đóng góp quan trọng trong việc phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học. Muốn đối xử với chủ nghĩa xã hội như là một học thuyết khoa học, cần phải đặt nó trên một mảnh đất hiện thực. Trong tác phẩm Chống Đuy-rinh, khi phê phán Đuy-rinh đã có thái độ phủ định sạch trơn đối với tư tưởng của các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng như Xanh-xi-mông, Phu-ri-ê, Ô-oen, Ph. Ăng-ghen khẳng định: những ý tưởng của chủ nghĩa xã hội không tưởng là sự phản ánh chưa trưởng thành của chủ nghĩa tư bản và chỉ ra nguyên nhân của sự chưa chín muồi những ý tưởng về chủ nghĩa xã hội không tưởng "Tương ứng với một trạng thái chưa trưởng thành của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, với những quan hệ giai cấp chưa trưởng thành, là những lý luận chưa trưởng thành. Việc giải quyết những nhiệm vụ xã hội còn ẩn giấu trong những quan hệ kinh tế chưa phát triển"(5). Ph. Ăng-ghen chỉ ra rằng, về nội dung thì nguồn gốc của chủ nghĩa xã hội bắt rễ sâu xa từ những sự kiện kinh tế: một mặt, có sự đối lập giai cấp giữa hai giai cấp xã hội trong xã hội tư bản: công nhân làm thuê và nhà tư sản; và mặt khác, giữa hai tầng lớp xã hội chủ yếu: tầng lớp người có của và tầng lớp người không có của.
Chính vì xuất phát trên cơ sở hiện thực, nên chủ nghĩa xã hội đã chuyển biến từ không tưởng thành khoa học. Nói cách khác, việc nhận thức quá trình lịch sử hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, phân tích những mâu thuẫn và xung đột cơ bản chứa đựng trong chế độ đó đã giúp chủ nghĩa xã hội khoa học ra đời. Ăng-ghen viết: "Chủ nghĩa xã hội hiện đại chẳng qua chỉ là sự phản ánh của sự xung đột ấy, trước hết trong đầu óc của giai cấp trực tiếp chịu đau khổ vì sự xung đột ấy, tức là giai cấp công nhân".(6)
Trong tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản viết năm 1847, Ph. Ăng-ghen đã chỉ rõ rằng chủ nghĩa cộng sản là đối lập với chế độ tư hữu, và sẽ có lý khi các đảng cộng sản đều khẳng định mục tiêu của mình là xóa bỏ chế độ tư hữu. Tuy nhiên, khi được hỏi có nên xóa bỏ chế độ tư hữu hay không sau khi cách mạng vô sản thành công, Ph. Ăng-ghen trả lời dứt khoát rằng: “Không, không và không thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức, cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất có thể tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng nền kinh tế công hữu”. Cho nên, chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần và chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu.
Biện chứng của lịch sử là ở chỗ, để thủ tiêu chế độ tư hữu thì phải phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường, chấp nhận sự tồn tại của sở hữu tư nhân trong một thời gian dài. Đây là quy luật khách quan, biện chứng của sự phát triển. Chính vì không nhận thức và vận dụng được quy luật này, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã chủ trương nhanh chóng xóa bỏ sở hữu tư nhân, không thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, không phát triển quan hệ hàng hóa - tiền tệ và kinh tế thị trường, thực hiện chiến lược công nghiệp hóa theo hướng hướng nội là chủ yếu, không tích cực tham gia vào phân công hợp tác quốc tế, coi nhẹ vai trò của dịch vụ trong nền kinh tế. Mô hình này đã lâm vào khủng hoảng sâu sắc vào cuối thập niên 80 của thế kỷ XX.
Ở Việt Nam trong quá trình đổi mới, chúng ta đã nhận thức đầy đủ hơn về mối quan hệ giữa mục tiêu và phương tiện. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng"(7).
Phương châm xuất phát từ hoạt động thực tiễn, từ tổng kết thực tiễn để rút ra những kết luận lý luận khoa học đúng đắn, phục vụ tốt hơn nữa cho hoạt động thực tiễn, đã được Ph. Ăng-ghen kiên trì áp dụng trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của ông.
Một trong những hoạt động thực tiễn cách mạng của Ph. Ăng-ghen là tiến hành cuộc đấu tranh thành lập đảng và tổ chức cách mạng quốc tế của giai cấp vô sản - một điều kiện quyết định thắng lợi của cuộc cách mạng vô sản. Chính trong cuộc đấu tranh này, Ph. Ăng-ghen có những cống hiến có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn cho phong trào cách mạng của giai cấp công nhân: trong vòng hơn 40 năm kể từ khi gặp C. Mác, Ph. Ăng-ghen đã cùng với C. Mác xây dựng một học thuyết cách mạng khoa học - chủ nghĩa xã hội khoa học; tổ chức giáo dục những đội ngũ tiên phong của giai cấp công nhân và sau khi C. Mác qua đời, Ph. Ăng-ghen đã tiếp tục đấu tranh, bảo vệ, củng cố và phát huy những thành tựu đã đạt được để đưa phong trào cách mạng của giai cấp công nhân ngày càng phát triển.
Cống hiến của Ph. Ăng-ghen đối với phong trào công nhân quốc tế được thể hiện sinh động thông qua 10 năm tồn tại của Quốc tế I và hoạt động của ông trong phong trào công nhân quốc tế cho đến tận cuối đời. Sau khi Quốc tế I ngừng hoạt động, rồi Quốc tế II ra đời, vấn đề thống nhất phong trào công nhân quốc tế, đặc biệt là sự thống nhất tư tưởng của phong trào được Ph. Ăng-ghen hết sức quan tâm. Ông đấu tranh mạnh mẽ, kiên quyết chống những khuynh hướng tư tưởng ảnh hưởng xấu đến phong trào công nhân, nhất là đấu tranh chống chủ nghĩa cải lương và chủ nghĩa vô chính phủ, khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của chủ nghĩa Mác trong phong trào công nhân.
Bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác với tính cách là cơ sở nền tảng tư tưởng, lý luận của phong trào công nhân luôn luôn được Ph. Ăng-ghen chú trọng đặt lên hàng đầu. Chống Đuy-rinh là một trong những tác phẩm lý luận tiêu biểu mà Ph. Ăng-ghen viết để đập tan những quan điểm lý luận phi mác-xít đang truyền bá trong Đảng Dân chủ - Xã hội Đức vào cuối những năm 80 của thế kỷ XIX.
“Không thể nào hiểu được chủ nghĩa Mác và trình bày đầy đủ được chủ nghĩa Mác, nếu không chú ý đến toàn bộ những tác phẩm của Ph. Ăng-ghen”.
V.I. Lê-nin
Sau khi C. Mác qua đời, Ph. Ăng-ghen tập trung sức lực và trí tuệ tiếp tục sự nghiệp tổ chức, giác ngộ công nhân và bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác. Trong thời kỳ này, Ăng-ghen đã đảm đương một khối lượng công việc vô cùng nặng nề, khó khăn để chỉnh lý, biên tập và cho xuất bản Quyển II, Quyển III bộ Tư bản - tác phẩm kinh tế chính trị vĩ đại nhất của thế kỷ XIX. Với công trình này, "Ph. Ăng-ghen đã dựng cho người bạn thiên tài của ông một đài kỷ niệm trang nghiêm, trên đó Ph. Ăng-ghen cũng không ngờ đã khắc luôn cả tên mình bằng những chữ không bao giờ phai mờ được". Sau đó, ông đã tích cực tìm mọi cách để phổ biến rộng rãi tác phẩm Tư bản cũng như những tác phẩm mác-xít khác trong giai cấp công nhân, nhằm nâng cao trình độ giác ngộ của giai cấp công nhân, nâng cao tính tự giác của phong trào công nhân.
Có thể nói, công lao của Ph. Ăng-ghen đối với giai cấp công nhân chính là ở chỗ Ph.Ăng-ghen đã cùng với C. Mác, bằng hoạt động lý luận và thực tiễn "dạy cho công nhân tự nhận thức được mình và có ý thức về mình, và đã đem khoa học thay thế cho mộng tưởng"(8). Những cống hiến vĩ đại của ông đối với phong trào công nhân quốc tế đời đời bất diệt.
Rõ ràng, C. Mác và Ph. Ăng-ghen mới chỉ nêu ra những dự báo khoa học về xã hội cộng sản thông qua sự phân tích hiện thực của chủ nghĩa tư bản, điều này đòi hỏi các đảng cộng sản phải vận dụng phát triển sáng tạo học thuyết của C. Mác, Ph. Ăng-ghen trong điều kiện cụ thể của đất nước mình. Chính V. I. Lê-nin xuất phát từ thực tiễn nước Nga đã tổng kết: Chúng ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên cơ sở tất cả những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản thu được.
Thực tiễn lịch sử cũng chứng minh, khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của mỗi nước, cần có sự sáng tạo, khắc phục quan điểm chủ quan duy ý chí, giáo điều, tả khuynh làm cho học thuyết tư tưởng của các nhà kinh điển bị xuyên tạc méo mó.
Ở Việt Nam qua hơn 20 năm đổi mới, Đảng ta đã khẳng định, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực tiễn sự phát triển của đất nước cho thấy, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Tuy nhiên, đổi mới không phải là phủ định thành tựu và cách làm trước đây, mà là khẳng định những gì trước kia hiểu đúng làm đúng, loại bỏ những gì hiểu sai làm sai, hoặc những gì trước kia đúng nhưng nay không còn phù hợp, bổ sung nhận thức mới và cách làm mới, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của cách mạng. Đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn, xây dựng hiệu quả hơn. Quá trình này không phải là xa rời chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết, tư tưởng đó, nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của nó, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, dùng lý luận tư tưởng đó làm cơ sở quan trọng để đánh giá tình hình, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, lấy đó làm cơ sở xuất phát để hoạch định đường lối đổi mới.
Những tư tưởng của Ph. Ăng-ghen về chủ nghĩa xã hội khoa học đến nay vẫn giữ nguyên tính thời sự và có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc đổi mới của đất nước ta, nhất là trong việc nhận thức và làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, tăng cường vai trò lãnh đạo đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam trong bối cảnh xu thế hội nhập toàn cầu, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, hướng đến mục tiêu chung “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”./.
Chủ nghĩa Mác và thời đại ngày nay
Chủ nghĩa Mác không nghĩ thay cho chúng ta. Nhưng chính chủ nghĩa Mác đã cung cấp cho chúng ta một phương pháp phân tích, một cách nhìn thích hợp, một chiến lược chính trị đúng để cải tạo xã hội, để áp dụng một cách thành công vào công cuộc đổi mới mọi mặt đời sống xã hội hiện nay và thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa lâu dài trên đất nước ta...
Chủ nghĩa Mác từ khi ra đời, phát triển đã trải qua và đứng vững trước nhiều đợt tiến công của kẻ thù tư tưởng đủ các loại màu sắc. Trong những năm gần đây, trên nhiều diễn đàn và nhiều trang báo chí ở phương Tây, ở các nước Đông Âu, Liên Xô (trước đây) và trong một vài trường hợp ở nước ta, với những mức độ khác nhau, đã nổi lên một chiến dịch đả kích chủ nghĩa Mác. Đầu tiên là những bài phê bình “thận trọng” một số luận điểm, đưa ra một vài khiếm khuyết của chủ nghĩa Mác, rồi sau đó tiến tới sự phê phán những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, coi học thuyết Mác - Lê Nin đã thuộc về quá khứ, không còn phù hợp với thời đại ngày nay, và cuối cùng là phủ định chủ nghĩa Mác nói chung.
Việc bôi nhọ chủ nghĩa xã hội và phê phán chủ nghĩa Mác đang như là cái mốt thời thượng. Số lượng những người tham gia vào công việc này có phần tăng thêm. Ngoài những kẻ thù tư tưởng của chủ nghĩa Mác từ trước tới nay và những người theo khuynh hướng phi mác-xít trong phong trào công nhân quốc tế, điều đáng ngạc nhiên là có những nhân vật mới đây thôi còn tự coi mình là trung thành với chủ nghĩa Mác, thì hôm nay quay ra công kích Mác một cách gay gắt, gán cho chủ nghĩa Mác – Lê Nin đủ các tội danh. Có người chẳng hiểu gì về Mác, chưa hề nghiên cứu Mác cũng lớn tiếng phê phán Mác!
Tại sao có tình trạng như thế? Phải chăng chủ nghĩa Mác đã lỗi thời?
Đúng là hiện nay, chủ nghĩa Mác đang đứng trước thử thách nghiêm trọng. Thực tiễn đang có những biểu hiện khác với những quan niệm truyền thống của chúng ta và không giống như dự đoán của Mác. Tuy nhiên, tất cả những điều đó đều có nguyên do và có thể cắt nghĩa được. Có những loại vấn đề và những nguyên nhân tác động trực tiếp, có những nhân tố sâu xa hơn, thuộc về bản thân chủ nghĩa Mác.
Nguyên nhân trực tiếp trở thành cơ hội để người ta phủ nhận chủ nghĩa Mác là những hiện tượng mới nảy sinh của chủ nghĩa tư bản hiện đại và chủ nghĩa xã hội. Một mặt, chủ nghĩa tư bản mà Mác tuyên bố tất yếu sẽ diệt vong thì chưa chết và chưa chuẩn bị chết. Còn ở mặt khác, chủ nghĩa xã hội đã được sinh ra và dường như được mô phỏng theo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lê Nin thì lại kém hiệu quả, và đã sụp đổ ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu.
Trước tiên chúng ta xem xét về chủ nghĩa tư bản hiện đại. Mác cho rằng, trong quá trình tồn tại và phát triển, chủ nghĩa tư bản sẽ tới một thời điểm mà khi đó, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là gay gắt cực độ, cái vỏ quan hệ tư bản chủ nghĩa sẽ vỡ bung ra. Tuy nhiên, Mác đã khẳng định là để tới đó, chủ nghĩa tư bản phải phát triển tới mức tột đỉnh. Cái đỉnh ấy ngày nay chưa xuất hiện. Chính Mác cũng chưa bao giờ ấn định thời gian kết thúc của chủ nghĩa tư bản.
Một điều nữa cần đề cập tới là trong khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản để đưa ra những luận điểm trên, Mác đã trừu tượng hoá, coi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa là duy nhất thống trị. Sự xuất hiện và phát triển của chủ nghĩa xã hội đã trở thành đối trọng đáng kể nhất là cho chủ nghĩa tư bản mất đi vị trí độc tôn và bởi thế, chủ nghĩa tư bản không thể phát triển tự phát trên cơ sở của bản thân nó nữa, mà buộc phải tự điều chỉnh lại mình. Trong quá trình điều chỉnh để thích nghi đó, chủ nghĩa tư bản đã ứng dụng thành công các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và đặc biệt đã sử dụng có hiệu quả nhiều giải pháp của chủ nghĩa xã hội. Vì thế, chủ nghĩa tư bản đã tạm thời làm dịu đi những mâu thuẫn vốn có trong lòng nó. Nhưng cũng từ đó, lại một lần nữa chủ nghĩa tư bản tạo thêm những tiền đề, những yếu tố của phương thức sản xuất mới, hình thành nền tảng công nghiệp mới, cơ sở hạ tầng ở tầm cao mà chủ nghĩa xã hội sẽ xây dựng trên đó. Những tiền đề ấy là: việc điều hoà sản xuất - ở mức độ nhất định, trong phạm vi toàn xã hội; các cơ chế phân phối lại ngoài thu nhập quốc dân; hệ thống bảo hiểm và các quỹ phúc lợi xã hội; sự tham gia của nhân dân lao động và công tác quản lý; sự mở rộng dân chủ hơn với các tầng lớp nhân dân. Chủ nghĩa tư bản đã vô tình hoặc đã buộc phải thực hiện những vấn đề trên. Và chính vì thế, có thể nói rằng, xã hội tư bản hiện đại, một mặt, tất nhiên đang là tư bản chủ nghĩa, nhưng mặt khác, chính nó đang chuẩn bị cho sự tự phủ định mình.
Về khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội. Nguyên nhân của những khó khăn và bi kịch của chủ nghĩa xã hội là do rất nhiều yếu tố. Sự xuất hiện và xây dựng chủ nghĩa xã hội đã diễn ra theo một kịch bản hoàn toàn khác với dự kiến của Mác. Trên thực tế, chủ nghĩa xã hội không phải là kết quả của sự phủ định chủ nghĩa tư bản. Nó được thực hiện ở những nước tư bản chủ nghĩa kém phát triển, ở những nơi có tình thế giai cấp vô sản giành chính quyền nhưng lại thiếu cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác chưa dự tính đến việc chủ nghĩa xã hội tồn tại song song với chủ nghĩa tư bản và hơn thế nữa, lại ở điểm xuất phát thấp hơn các nước tư bản Tây Âu.
Ngay cả khi quan niệm về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác tỏ ra hết sức thận trọng. Ăng-ghen đã từng nhấn mạnh: “Theo tôi, cái mà người ta gọi là xã hội, chủ nghĩa không phải là một xã hội hoàn chỉnh ngay một lúc, mà cũng như mọi chế độ xã hội khác, nó cần phải được xem xét trong sự biến đổi và cải tạo thường xuyên”. Những tác phẩm của Lê Nin dưới nhan đề “Di huấn chính trị” có một ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển quan điểm mác-xít. Điều chủ yếu của toàn bộ tác phẩm là việc thừa nhận “toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về căn bản”.
Như vậy, từ thực trạng của các nước xã hội chủ nghĩa, vấn đề đặt ra là muốn theo kịp và sau đó chiến thắng được chủ nghĩa tư bản trong cuộc đua tranh, chủ nghĩa xã hội cần phải chủ động rất cao, tự giác rất cao, nắm thật vững những đặc điểm lịch sử cụ thể, vận dụng một cách có hiệu quả các quy luật phát triển kinh tế xã hội để tìm ra cho được chiến lược tăng tốc. Thế nhưng chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô (trước đây) đã được xây dựng theo ý muốn chủ quan, cứng nhắc, khuôn mẫu và chưa đúng quy luật. Khi đã nhận ra những khuyết tật của chủ nghĩa xã hội và tiến hành công cuộc cải tổ, đổi mới nó, thì ở nhiều nước lại thiếu sự chuẩn bị những giải pháp tháo gỡ, củng cố hoặc xây lại, mà mới kịp làm được một công việc đầu tiên là phá bỏ những gì đã có! Vậy nên việc chủ nghĩa xã hội thua kém chủ nghĩa tư bản là do sự giáo điều hoá, thô thiển hoá chủ nghĩa Mác, chứ đâu phải do bản thân chủ nghĩa Mác. Cũng như sự sụp đổ nhanh chóng của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô một phần chính là do sai lầm trực tiếp của công việc cải tổ, chứ đâu phải là sai lầm của học thuyết mác-xít.
Về những nhân tố chủ quan. Ở đây có hai cấp độ. Một là, cái sai của những người kế tục và phát triển chủ nghĩa Mác-Lê Nin.
Cũng như bất kỳ một học thuyết khoa học nào khác, do hạn chế của lịch sử, những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác không phải không có những nhận định chưa thật chuẩn xác. Chẳng hạn, khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản, Mác đã phát hiện ra quy luật vận động và phát triển của nó, nhưng lại không đánh giá hết tính co giãn, khả năng tự biến đổi của xã hội tư bản. Đọc Mác, người ta thấy dường như mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản cứ ngày một tăng lên và dường như mọi tiến bộ xã hội được thực hiện trong điều kiện chủ nghĩa tư bản cũng đều chống lại chủ nghĩa tư bản, làm cho chế độ xã hội đó thêm ngắc ngoải. Thực tiễn cho thấy cách đặt vấn đề như vậy là một chiều, còn phiến diện và thậm chí xa lạ với bản thân phương pháp luận mác-xít.
Có thể nêu một ví dụ khác nữa như lập trường của Mác, Ăng-ghen và sau này của cả Lênin về quan hệ hàng hoá và cơ chế thị trường. Các ông đã không dành chỗ đứng cho nền sản xuất hàng hoá sau khi thủ tiêu chủ nghĩa tư bản. Lê Nin đã thực hiện theo Mác và đã thất bại. Chính sách “cộng sản thời chiến” đã để lại di chứng nặng nề cho nền kinh tế nước Nga thời đó. Thực tế chứng tỏ rằng, trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, cơ chế thị trường đã tự giải quyết vô vàn mối quan hệ kinh tế-xã hội mà những giải pháp tập trung quan liêu không thể thay thế nó được. Cũng chính Lê Nin đã điều chỉnh, đã đổi mới, đã sáng tạo bằng “chính sách kinh tế mới” (NEP) nổi tiếng.
Nói tới nhân tố chủ quan, có lẽ điều cần nhấn mạnh nhất phải là việc tự phê phán của những người cộng sản. Lê Nin là nhà mác-xít rất mẫu mực trong việc tiếp thu chủ nghĩa Mác một cách có phê phán và cùng với nó là tự phê phán để làm giàu và hoàn thiện thêm cho học thuyết Mác. Đã là một học thuyết khoa học thì luôn luôn phải tự xem xét lại. Việc xem xét và tự phê phán của chủ nghĩa Mác khác xa và thậm chí trái ngược với chủ nghĩa xét lại. Chủ nghĩa xét lại mưu toan từ bỏ nguyên tắc, muốn làm biến dạng chủ nghĩa Mác. Còn việc tự phê phán chỉ có một mục tiêu duy nhất là làm cho chủ nghĩa Mác phong phú thêm.
Trong lịch sử phong trào công nhân quốc tế, ta thấy nổi rõ một điểm là những đảng công nhân chưa nắm được chính quyền thường lại có sự tự phê phán mạnh mẽ hơn những đảng cầm quyền. Đáng lý đây phải là nhiệm vụ của những người đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, bởi chính đây là cuộc sống, là thực tiễn phong phú nhất. Một yếu tố mà không ít đảng cầm quyền thiếu mạnh dạn trong việc xem xét chủ nghĩa Mác và tự phê phán mình là tâm lý sợ xét lại hơn sợ giáo điều. Nhưng thực ra, chủ nghĩa giáo điều không kém phần nguy hại, vì nó cứ yên vị trong một cái vỏ ốc, nó làm cho chủ nghĩa Mác thành máy móc, thành khuôn mẫu.
Cũng cần phải nói tới một số nguyên nhân quan trọng khác. Đó là việc một số đảng công nhân luôn bằng lòng với chủ nghĩa Mác và bằng lòng với mình nên thường coi nhẹ công tác lý luận, đồng nhất công tác lý luận với công tác chính trị, trong khi ấy lại rất ít để ý tới hoặc rất ít tiếp thu cái mới. Tất cả những sai lầm và những nguyên nhân kể trên đã làm cho chủ nghĩa Mác mất đi tính sống động vốn có của nó, và nếu tình hình cứ như vậy, chủ nghĩa Mác sẽ thiếu hơi thở của cuộc sống, sẽ trở thành lạc hậu, không thể lý giải được những vấn đề mới mà thực tiễn đặt ra.
Để khắc phục tình trạng đó, chúng ta cần đặc biệt coi trọng công tác lý luận. Chủ nghĩa Mác luôn luôn mở rộng, như một cơ thể sống phát triển không ngừng. Đó là một học thuyết khoa học gắn bó hữu cơ với thời cuộc, như cây xanh gắn bó với nắng gió và khí trời. Thực tiễn đòi hỏi phải có một sự đột phá lớn lao mới trong lý luận mác-xít. Nguyên lý mác-xít chỉ có thể được bảo tồn và làm giàu một cách sáng tạo trong điều kiện bước ngoặt của thời đại ngày nay, trên cơ sở những thành tựu mới của cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại, trên cơ sở đánh giá đúng những thay đổi của thế giới, trên cơ sở phê phán có kế thừa những lý thuyết ngoài chủ nghĩa Mác, tiếp thu một cách có chọn lọc những yếu tố sáng tạo và hợp lý của các trào lưu tiến bộ khác, không đố kỵ, không xa lánh, không đối lập.
Ngọn cờ tư tưởng và lý luận mà Đảng ta và Bác Hồ luôn giương cao là chủ nghĩa Mác-Lê Nin. Chủ nghĩa Mác là vỉa tầng quý giá nhất của trí tuệ loài người, là cốt lõi tinh thần của chủ nghĩa xã hội. Chính chủ nghĩa Mác-Lê Nin đã tạo điều kiện cho phong trào xã hội chủ nghĩa có những bước đi khổng lồ, đem lại cho chủ nghĩa xã hội vị trí xứng đáng trong những nấc thang phát triển của xã hội loài người. Chủ nghĩa Mác không nghĩ thay cho chúng ta. Nhưng chính chủ nghĩa Mác đã cung cấp cho chúng ta một phương pháp phân tích, một cách nhìn thích hợp, một chiến lược chính trị đúng để cải tạo xã hội, để áp dụng một cách thành công vào công cuộc đổi mới mọi mặt đời sống xã hội hiện nay và thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa lâu dài trên đất nước ta./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gia_tri_khoa_hoc_va_y_nghia_thuc_tien_cua_tac_pham_136.doc