Nồng độ Paraquat huyết tương không có tương quan
với điểm PSS (p>0,05). Nhận định này của chúng
tôi cũng khác với Vũ Anh Phương, Jones, Elton,
Flanagan[6][8]. Nguyên nhân có thể do thời điểm
xét nghiệm và đánh giá điểm PSS của các nghiên cứu
khác nhau và vì đây là nghiên cứu hồi cứu nên chúng
tôi không thể kiểm soát về mặt thời điểm đánh giá
được. Tình trạng ngộ độc ban đầu của bệnh nhân có
thể biểu hiện không nặng nhưng nhưng tình trạng
tổn thương các cơ quan vẫn tiếp diễn ở những ngày
sau. Vì vậy, ngay từ ban đầu nếu chỉ dựa vào các biểu
hiện lâm sàng sẽ rất khó để nhận định tiên lượng
nặng và tử vong. Nhưng nếu biết nồng độ và đặc
biệt là thời gian từ khi uống đến khi định lượng nồng
độ thì hai thông số này rất có giá trị trong tiên lượng
tử vong. Theo Senaratha, có thể gây tử vong nếu
paraquat máu > 1 mg/L sau khi uống 4 giờ và >0,1
mcg/ml nếu còn lớn hơn 0,1 mcg/ml xét nghiệm sau
khi uống 24 giờ [5]. Nghiên cứu của Vũ Anh Phương
và công sự [6] tại Trung tâm chống độc bước đầu
đánh giá giá trị của định lượng Paraquat huyết
tương. Nồng độ Paraquat trong huyết tương trung
bình 8,1 µg/ml (thấp nhất: 0,215 µg/ml; cao nhất
88,66 µg/ml). Bệnh nhân đến viện trong vòng 10
giờ có nồng độ Paraquat cao hơn 10 mg/ml đều
tử vong [6]. Như vậy có thể nói mức tăng nồng độ
Paraquat trong huyết tương là một giá trị quan
trọng trong tiên lượng ngộ độc cấp Paraquat, điều
này cũng đạt được đồng thuận nhiều tác giả trong
nước và trên thế giới [8].
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 11 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị nồng độ paraquat huyết tương trong tiên lượng độ nặng và tử vong ở bệnh nhân ngộ độc cấp paraquat, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
105
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 2 - tháng 4/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
GIÁ TRỊ NỒNG ĐỘ PARAQUAT HUYẾT TƯƠNG
TRONG TIÊN LƯỢNG ĐỘ NẶNG VÀ TỬ VONG Ở BỆNH NHÂN
NGỘ ĐỘC CẤP PARAQUAT
Ngô Đức Ngọc1,2
(1) Bộ môn Hồi sức cấp cứu, Trường Đại học Y Hà Nội
(2) Khoa Cấp cứu Bệnh viện Bạch Mai
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Ngộ độc paraquat hiện nay khá phổ biến ở Việt Nam, tiên lượng độ nặng và tử vong lúc đầu
rất khó khăn. Nồng độ paraquat trong huyết tương là một yếu tố có giá trị tiên lượng tử vong cao. Mục tiêu:
Ứng dụng xét nghiệm định lượng paraquat huyết tương trong chẩn đoán mức độ nặng, tiên lượng bệnh nhân
ngộ độc cấp paraquat. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả phân tích tất cả các bệnh nhân ngộ
độc paraquat điều trị tại Trung tâm Chống độc Bệnh viện Bạch Mai trong thời gian 4/2015 đến 5/2016 . Kết
quả: Có 92 bệnh nhân, 52,6% nam, 47,4% nữ, tuổi trung bình là 34,2 ± 14,5. 52 bệnh nhân tử vong (62,37%).
Nhóm sống nồng độ paraquat huyết tương lúc vào thấp hơn nhóm tử vong (2,6 ± 4,92 so với 23,8 ± 27,64,
p<0,001), nồng độ paraquat huyết tương không có tương quan với điểm độ nặng ngộ độc (PSS). SIPP có giá
trị tốt trong tiên lượng tử vong. Diện tích dưới đường cong của SIPP là 0,860, p<0,001 (95% CI: 0,782 – 0,938).
Giá trị SIPP = 15 có độ nhạy và độ đặc hiệu cao nhất (tương ứng 0,750 và 0,767). Kết luận: Xét nghiệm định
lượng paraquat huyết tương có giá trị tốt trong chẩn đoán mức độ nặng và tiên lượng tử vong. Điểm SIPP có
giá trị tốt dùng để tiên lượng tử vong.
Từ khóa: Ngộ độc cấp Paraquat, định lượng Paraquat huyết tương
Abstract
SEVERITY AND MORTALITY PREDICTION IN ACUTE PARAQUAT
POISONING BY SERUM PARAQUAT QUANTITIVE TEST
Ngo Duc Ngoc1,2
(1) Hanoi Medical University
(2) Bach Mai Hospital
Introduction: Acute paraquat poisoning is common in Vietnam. Mortality and severity prediciton of
acute paraquat poisoning patient is difficult. Serum paraquat concentration is a useful prognostic fatal value.
Objective: Apply quantitative test for serum paraquat concentration to determine the severity and prognose
in acute paraquat poisoning patients. Subjects and methods : An observational analytic study included acute
paraquat poisoning patients were treated at Poison Control Center of Bach Mai hospital from 4/2015 to
5/2016. Results: 92 patients were included, with 52.6% males and 47.4% females. The average age of the
patients was 34.2 ± 14.5. Fifty-two patients were reported dead (62.37%). The patients classifed as survial
group were detected to get serum paraquat concentration to be significantly lower than other patients in
dead group (2.6 ± 4.92 in comparision with 23.8 ± 27.64, p<0.001), serum paraquat concentration was not
correlated with PSS level (p>0.05). SIPP scale was evaluated to be efficient in dead prognosis. The AUROC
- Địa chỉ liên hệ: Ngô Đức NgọcHoàng Bùi Hải,Email: ngoducngoc@gmail.com
- Ngày nhận bài: 22/12/2016; Ngày đồng ý đăng: 12/4/2017; Ngày xuất bản: 20/4/2017
106
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 2 - tháng 4/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
of SIPP scale was 0.860, p<0.001 (95% CI: 0.782 – 0.938). The value of SIPP = 15 had highest sensitivity
and specificity (0.750, 0.767, respectively). Conclusion: Serum paraquat concentration was determined the
effective values in estimating the severity and dead prognosis. SIPP Scale was useful for mortality prognosis.
Keywords: Acute Paraquat poisoning, serum Paraquat concentration.
-----
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Paraquat (viết tắt của paraquaternary bipyridyl)
là một thuốc diệt cỏ hiệu quả sử dụng khá phổ biến
ở Việt Nam, bị cấm ở các nước phát triển. Ngộ độc
paraquat rất thường gặp và luôn là một thách thức
lớn đối với bác sỹ cấp cứu chống độc vì tỉ lệ tử vong rất
cao (60-80%)[1]. Trong nước, nghiên cứu của Đặng
Thị Xuân, Nguyễn Thị Dụ là 72,5% [2], Nguyễn Thị
Phương Khắc là 52,8% [3]. Hầu hết các bệnh nhân tử
vong do suy hô hấp, suy đa tạng. Đa số bệnh nhân lúc
vào đều có biểu hiện khá nhẹ nhàng như đau họng,
nôn... Tuy nhiên diễn biến hết sức phức tạp và nặng
nề. Lúc vào nếu không biết số lượng uống và nồng độ
độc chất trong huyết tương thì tiên lượng cực kỳ khó
khăn. Các tác giả thế giới đều nhấn mạnh tới giá trị
nồng độ paraquat trong máu là một yếu tố có giá trị
tiên lượng cao. Tại Việt nam rất ít nghiên cứu về vấn
đề này. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài
“Ứng dụng xét nghiệm định lượng paraquat huyết
tương trong chẩn đoán mức độ nặng, tiên lượng
bệnh nhân ngộ độc paraquat cấp”.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu hồi cứu mô tả phân tích trên các
bệnh nhân ngộ độc paraquat điều trị tại Trung tâm
Chống độc Bệnh viện Bạch Mai trong thời gian
4/2015 đến 5/2016 được xét nghiệm định lượng PQ
trong huyết tương.
Chẩn đoán ngộ độc paraquat dựa vào: bệnh
nhân có 1 trong 2 tiêu chuẩn: (1) Bệnh nhân uống
thuốc trừ cỏ paraquat và có biểu hiện lâm sàng ngộ
độc paraquat. (2) Xét nghiệm định tính độc chất
nước tiểu tìm thấy paraquat.
Tiêu chuẩn loại trừ: Bệnh nhân có tiền sử bệnh
phổi, thận, gan hoặc những bệnh nhân ngộ độc
đồng thời các chất độc khác.
Các thang điểm ngộ độc
Thang điểm độ nặng nhiễm độc Paraquat (SIPP:
Severity index of Paraquat Poisoning)= [nồng độ
Paraquat huyết tương (µg/ml)] × [thời gian từ khi
uống đến bắt đầu định lượng (h)]. Lấy giá trị nồng
độ Paraquat huyết tương khi bệnh nhân mới nhập
viện, tính khoảng thời gian từ khi bệnh nhân uống
tới khi lấy máu xét nghiệm.
Thang điểm độ nặng ngộ độc Poison Severity
Score (PSS) do Chương trình An toàn Hoá học quốc
tế xây dựng, sử dụng cho cả người lớn và trẻ em,
bảng này dùng cho các trường hợp ngộ độc cấp mà
không đề cập tới loại và số lượng của độc chất, áp
dụng cho tất cả các loại độc chất[4]. Thang điểm PSS
cung cấp một mô hình đơn giản nhưng đáng tin cậy
cho việc mô tả tình trạng ngộ độc, nó có ý nghĩa là
dự báo và theo dõi tiến triển của ngộ độc cấp. Nhẹ
(độ 1): nhẹ, thoáng qua, các triệu chứng có thể tự
hồi phục. Trung bình (độ 2): triệu chứng rõ hoặc kéo
dài. Nặng (độ 3): triệu chứng nặng, đe doạ đến tính
mạng. Thang điểm PSS dùng trong lâm sàng dựa vào
các triệu chứng nặng nhất (bao gồm cả triệu chứng
chính và các dấu hiệu phụ).
Các biến số nghiên cứu: Tuổi, giới, nghề nghiệp,
chất gây ngộ độc, hoàn cảnh ngộ độc, thời gian từ khi
uống đến khi định lượng, nồng độ paraquat huyết
tương (đánh giá thang điểm SIPP), kết cục lâm sàng.
Các thông số đánh giá thang điểm PSS: hệ tiêu
hóa (nôn, ỉa chảy, trợt miệng, bỏng, xuất huyết tiêu
hóa...), hệ hô hấp (ho, khó thở, hạ oxy máu, suy hô
hấp, bất thường trên phim X-quang...), hệ thần kinh
(lơ mơ, chóng mặt, rối loạn thần kinh thực vật, hôn
mê, co giật, liệt, rối loạn cảm giác...), hệ tim mạch
(ngoại tâm thu, nhịp chậm, nhịp nhanh, loạn nhịp,
block nhĩ thất, nhồi máu cơ tim...), rối loạn chuyển
hóa (rối loạn nước, điện giải và kiềm toan, hạ đường
huyết...), gan (men gan tăng, rối loạn yếu tố đông
máu, dấu hiệu suy gan trên lâm sàng...), thận (hồng
cầu niêu, protein niệu, thiểu niệu, vô niệu, tăng
creatinin...), máu (huyết tán, methemoglobulin, rối
107
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 2 - tháng 4/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
loạn đông máu, giảm hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu...),
hệ cơ (đau cơ, nhẽo cơ, chuột rút, tiêu cơ vân...), hệ
da (kích thích, bỏng), mắt (đỏ mắt, kích thích, tổn
thương giác mạc...).
Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phần mềm STATA 14.0.
Chọn giá trị α=0,05 có ý nghĩa thống kê, β=0,2. Sử
dụng phân tích hồi quy logistic để giá trị của định
lượng paraquat huyết tương trong tiên lượng độ
nặng và tử vong.
3. KẾT QUẢ
Có 92 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn nghiên cứu, 57
ca tử vong (62,37%).Có 52,6% là nam, 47,4% nữ, độ
tuổi trung bình là 34,2 ± 14,5, thấp nhất 11, cao
nhất là 75.
Bảng 3.1. Kết quả định lượng nồng độ paraquat khi vào viện và tỷ lệ tử vong
Nồng độ paraquat (µg/ml)
Tử vong
n Tỉ lệ (%)
<10 24 47,06
10-<20 6 11,76
20-<30 5 9,80
30-<40 4 7,84
40-<50 3 5,88
≥50 9 17,65
Tổng 51 100
Nhận xét: Tỉ lệ tử vong tập trung chủ yếu ở nhóm có nồng độ paraquat huyết tương <10 và ≥50 µg/ml.
Bảng 3.2. Kết quả định lượng nồng độ paraquat khi vào viện và điểm PSS
Nồng độ Paraquat (µg/ml) n
Điểm PSS
X±SD
<10 5 3,37±0,88
10-<20 6 3,33±1,03
20-<30 4 3,50±0,58
30-<40 16 2,25±0,50
40-<50 13 3,33±1,15
≥50 49 3,33±0,87
Tổng 92 3,31±0,88
r (điểm PSS-nồng độ paraquat vào viện)= -0,04, p>0,05
Nhận xét: Không có mối tương quan giữa nồng độ paraquat và điểm PSS
Bảng 3.3. Nồng độ paraquat huyết tương, điểm PSS và điểm SIPP giữa 2 nhóm sống và tử vong
Nhóm Sống (n=35)
Tử vong
(n=47)
Chung (n=92) P
Nồng độ Paraquat
(µg/ml)
2,66±4,93 23,84±27,64 16,00±24,33 <0,001
Điểm PSS 3,20±0,92 3,43±0,84 3,35±0,88 <0,05
Điểm SIPP 11,51±15,96 100,94±107,82 66,55±95,44 <0,001
Nhận xét: Nồng độ paraquat, điểm PSS và điểm SIPP của nhóm tử vong cao hơn nhóm sống có ý nghĩa
thống kê.
108
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 2 - tháng 4/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Biểu đồ 3.1. Giá trị nồng độ paraquat trong tiên lượng tử vong
Nhận xét: Diện tích dưới đường cong của nồng độ paraquat trong tiên lượng tử vong là 0,835, có giá trị
tốt trong tiên lượng. Điểm cut-off là 10 với độ nhạy 54,9% và độ đặc hiệu 96,7%.
Bảng 3.4. Tiên lượng tử vong của thang điểm SIPP
SIPP Độ nhạy Độ đặc hiệu
0 100,0% 0%
5 87,5% 56,6%
10 79,2% 63,3%
15 75,0% 76,7%
20 72,9% 76,7%
25 70,8% 80,0%
30 68,8% 83,3%
35 66,7% 83,3%
40 64,6% 86,7%
45 58,3% 90,0%
50 56,3% 100,0%
0.0
0
0.2
5
0.5
0
0.7
5
1.0
0
Dư
ơn
g t
ính
th
ật
0.00 0.25 0.50 0.75 1.00
Dương tính giả
Diện tích dưới đường cong (AUROC) = 0.8601
Biểu đồ 3.2. Thang điểm SIPP tiên lượng tử vong
Nhận xét: Diện tích dưới đường cong (AUC) của điểm SIPP là 0,86 (95%CI: 0,782 – 0,938). Như vậy, điểm
SIPP có giá trị tốt dùng để tiên lượng tử vong. Giá trị thang điểm SIPP=15 có độ nhạy và độ đặc hiệu cao nhất
(tương ứng 0,750 và 0,767).
4. BÀN LUẬN
Đặc điểm chung: Có 52,6% là nam, 47,4% nữ, độ
tuổi trung bình là 34,2 ± 14,5, thấp nhất 11, cao
nhất là 75. 60% bệnh nhân đến Trung tâm chống
trước 6 giờ, đây là khoảng điều trị tốt nhất để thải
trừ độc chất như lọc máu.
Giá trị xét nghiệm định lượng paraquat huyết
tương trong chẩn đoán mức độ nặng và tiên lượng
bệnh nhân ngộ độc cấp paraquat
Phân tích hồi quy logistic giữa mức nồng độ
0.0
0
0.2
5
0.5
0
0.7
5
1.0
0
Gi
á t
rị d
ươ
ng
tín
h t
hậ
t
0.00 0.25 0.50 0.75 1.00
Giá trị dương tính giả
AUROC = 0.8346
Giá trị nồng độ paraquat trong tiên lượng tử vongGiá trị nồng độ paraquat trong tiên lượng tử vong
109
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 2 - tháng 4/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
paraquat và thang điểm PSS có OR= 12,34; p<0,001.
Cứ mỗi mức nồng độ Pararaquat tăng lên thì độ
nặng sẽ có nguy cơ tăng hơn 12 lần, chứng tỏ nồng
độ Paraquat trong huyết tương có ảnh hưởng rất
lớn tới tiên lượng độ nặng tính theo thang điểm PSS.
Giá trị nồng độ Paraquat khác biệt rõ rệt ở nhóm
tử vong so sánh với nhóm sống. Điểm cut-off là 10
µg/ml, với độ nhạy 54,9% và độ đặc hiệu 96,7%..
Kết quả cũng giống với Senaratha [5]. Tuy độ nhạy
chưa được cao, nhưng giá trị diện tích dưới đường
cong của nồng độ paraquat trong tiên lượng tử vong
là 0,835. Kết quả này cho thấy giá trị tiên lượng tử
vong của nồng độ paraquat là khá tốt. Paraquat là
chất có độc tính rất cao, tăng nồng độ huyết tương
sẽ gắn với tỷ lệ tử vong rất cao. Điểm SIPP của nhóm
bệnh nhân nghiên cứu trung bình là 66,5 ± 9,54 (0 -
500). Kết quả biểu diễn kết cục của bệnh nhân theo
điểm SIPP được chỉ ra ở biểu đồ trên. Các bệnh nhân
ở nhóm sống có điểm SIPP thấp hơn hẳn nhóm tử
vong (11,5 ± 15,96 so với 100,9 ± 107,82, p<0,001).
Chúng tôi khảo sát chi tiết hơn giá trị của thang
điểm SIPP được trình bày dưới dang đường cong
ROC. Diện tích dưới đường cong của điểm SIPP là
0,860 (95% CI: 0,782 – 0,938). Như vậy, điểm SIPP có
giá trị tốt dùng để tiên lượng tử vong. Giá trị thang
điểm SIPP = 15 có độ nhạy và độ đặc hiệu cao nhất
(tương ứng 0,750 và 0,767). Kết quả của chúng tôi
thấp hơn nghiên cứu của Vũ Anh Phương, trong
đó điểm SIPP của nhóm nghiên cứu trung bình là
51,5 (1,1 - 354,6); giá trị SIPP = 25 có độ nhạy và
độ đặc hiệu cao nhất (tương ứng 0,82 và 0,88)[6].
Sự khác biệt này có thể do phương pháp chọn mẫu
và cỡ khác nhau giữa hai nghiên cứu. Nhận xét này
cũng tương tự như Xu vào năm 2015[7] với diện
tích dưới đường cong của điểm SIPP là 0,789. Nồng
độ Paraquat huyết tương không có tương quan
với điểm PSS (p>0,05). Nhận định này của chúng
tôi cũng khác với Vũ Anh Phương, Jones, Elton,
Flanagan[6][8]. Nguyên nhân có thể do thời điểm
xét nghiệm và đánh giá điểm PSS của các nghiên cứu
khác nhau và vì đây là nghiên cứu hồi cứu nên chúng
tôi không thể kiểm soát về mặt thời điểm đánh giá
được. Tình trạng ngộ độc ban đầu của bệnh nhân có
thể biểu hiện không nặng nhưng nhưng tình trạng
tổn thương các cơ quan vẫn tiếp diễn ở những ngày
sau. Vì vậy, ngay từ ban đầu nếu chỉ dựa vào các biểu
hiện lâm sàng sẽ rất khó để nhận định tiên lượng
nặng và tử vong. Nhưng nếu biết nồng độ và đặc
biệt là thời gian từ khi uống đến khi định lượng nồng
độ thì hai thông số này rất có giá trị trong tiên lượng
tử vong. Theo Senaratha, có thể gây tử vong nếu
paraquat máu > 1 mg/L sau khi uống 4 giờ và >0,1
mcg/ml nếu còn lớn hơn 0,1 mcg/ml xét nghiệm sau
khi uống 24 giờ [5]. Nghiên cứu của Vũ Anh Phương
và công sự [6] tại Trung tâm chống độc bước đầu
đánh giá giá trị của định lượng Paraquat huyết
tương. Nồng độ Paraquat trong huyết tương trung
bình 8,1 µg/ml (thấp nhất: 0,215 µg/ml; cao nhất
88,66 µg/ml). Bệnh nhân đến viện trong vòng 10
giờ có nồng độ Paraquat cao hơn 10 mg/ml đều
tử vong [6]. Như vậy có thể nói mức tăng nồng độ
Paraquat trong huyết tương là một giá trị quan
trọng trong tiên lượng ngộ độc cấp Paraquat, điều
này cũng đạt được đồng thuận nhiều tác giả trong
nước và trên thế giới [8].
5. KẾT LUẬN
Nồng độ paraquat trong huyết tương càng cao,
điểm PSS càng nặng. điểm SIPP có giá trị tốt dùng
để tiên lượng tử vong. Diện tích dưới đường cong
(AUC) của điểm SIPP là 0,860 p<0,001 (95%CI: 0,782
– 0,938). Điểm cut-off của thang điểm SIPP = 15 có
độ nhạy và độ đặc hiệu cao nhất (tương ứng 0,750
và 0,767).
-----
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Watts M. (2010). Paraquat. Pesticide action network
Asia & the pacific, 1011-1055.
2. Đặng Thị Xuân, Nguyễn Thị Dụ (2007). Hội thảo hồi
sức cấp cứu và chống độc toàn quốc năm 2007, 128-133.
3. Nguyễn Thị Phương Khắc (2008). Nghiên cứu đặc
điểm lâm sàng và cận lâm sàng của ngộ độc paraquat tại
Trung tâm chống độc bệnh viện Bạch Mai
4. Hans E. Persson; Gunilla K. Sjoberg; John A. Haines;
Jenny Pronczuk de Garbino (1998). Poisoning Severity
Score. Grading of Acute Poisoning. Clinical Toxicology,
36(3), 205-213 .
5. Senarathna L., Eddleston M., Wilks M.F., Woollen
B.H., Tomenson J.A., Roberts D.M., Buckley N.A. (2009).
Prediction of outcome after paraquat poisoning by
measurement of the plasma paraquat concentration. QJM
102 (4): 251-259
6. Vũ Anh Phương, Phạm Quốc Chinh, Tạ Thị Thảo
(2015). Xác định thuốc diệt cỏ Paraquat trong huyết
tương người bằng sắc ký lỏng hiệu năng cao. Tạp chí kiểm
nghiệm thuốc, 13 (50), 14 – 18.
7. Xu S, Hu H, Jiang Z (2015). APACHE score, Severity
Index of Paraquat Poisoning, and serum lactic acid
concentration in the prognosis of paraquat poisoning of
Chinese Patients. Pediatr Emerg Care. 31(2):117-21.
8. Jones A. L., Elton N., Flanagan R. (1999). Multiple
logistic regression analysis of plasma concentration as a
predicter of outcome in 375 case of paraquat poisoning,
QJ Med, 573 – 578.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gia_tri_nong_do_paraquat_huyet_tuong_trong_tien_luong_do_nan.pdf