Giá trị và hạn chế của phật giáo trong phương pháp tư duy của người Việt Nam

tiêu cực về mặt khoa học và nhân sinh quan. Song với thái độ khách quan, chúng ta cần nhận thức rõ những yếu tố tích cực trong tư tưởng Phật giáo. Trong lịch sử và cho đến ngày nay, Phật giáo là tôn giáo duy nhất chống lại thần quyền. Trong những tư tưởng của nó có những yếu tố duy vật và biện chứng. Đạo Phật là tiếng nói chống chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, tố cáo bất công, đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội; nói lên khát vọng giải thoát con người khỏi những bi kịch của cuộc đời. Đạo Phật nêu cao thiện tâm, bình đẳng, bác ái cho mọi người như là những tiêu chuẩn đạo đức cơ bản của đời sống xã hội. Những giá trị đạo đức của Phật giáo đã đưa nó lên thành một trong ba tôn giáo lớn nhất trên thế giới ( Thiên chúa giáo, Hồi giáo và Phật giáo).

doc16 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1597 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giá trị và hạn chế của phật giáo trong phương pháp tư duy của người Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG I PHẬT GIÁO, MỘT HIỆN TƯỢNG TÔN GIÁO VÀ TRIẾT HỌC CỦA DÂN TỘC. Sự giao lưu giữa các quốc gia trong một khu vực đã phá vỡ cái thế riêng biệt của tâm lý, tư tưởng trong từng dân tộc làm cho tâm lý và tư tưởng đó hoà vào cái chung của khu vực. Việt Nam cũng ở trong một quá trình như thế. Theo chân các nhà buôn, nhà truyền giáo Ấn Độ, Phật giáo vào nước ta vào khoảng thế kỷ thứ I và thứ II sau công nguyên. Sau đó, nối gót người Ấn Độ các nhà Phật giáo Bắc tông vào. Rồi những người tìm đường sang Trung Quốc, Ấn Độ học Phật trở về cũng tiếp tục truyền bá Phật giáo. Bằng những con đường khác nhau đó, Phật giáo, một tôn giáo chung của nhiều nước Nam Á và Đông Nam Á lúc bấy giờ cũng tìm được chỗ đứng ở Việt Nam. Nhưng Phật giáo có nguồn gốc ở xã hội Ấn Độ cổ đại vốn mang trong mình những đặc điểm của tư tưởng và tôn giáo, của con người và xã hội của quá khứ và hiên tại Ấn Độ lúc bấy giờ. Có những điều không phù hợp với con người và xã hội Việt Nam đương thời. Vì vậy để phát triển được ở Việt Nam, Phật giáo phải trải qua một quá trình: 1,Vào giai đoạn đầu của thời kỳ truyền bá Phật giáo vấp phải sự phản ứng của các tín ngưỡng cổ truyền của người Việt Nam, của tục thờ phụng tổ tiên, của lệ cúng bái thổ công và các thói quên thờ cúng thành hoàng.. . Người Việt Nam mang các tín ngưỡng trên không khỏi ngỡ ngàng trước Phật giáo. Họ đã xa lánh, thậm trí chê bai, đả kích. 2,Vào thời kỳ sau của sự truyền bá, lúc Phật giáo đã làm quen với dân tộc nó vẫn còn liên tục bị sự mổ xẻ của một số người. Người ta đã đặt nó trên bình diện chính trị - xã hội để khảo nghiệm và thấy rằng ở Phật giáo có những điều không thích hợp. Do đó, nhiều người Việt Nam trong những thời kỳ khác nhau đã phê phán, kỳ thị Phật giáo như : Đàm Mĩ Mông (thế kỷ XII); Lê Quát, Trương Hán Siêu (thế kỷ XIV); Bùi Huy Bích, Phạm Nguyễn Du (thế kỷ XVIII); Phạm Quý Thích (thế kỷ XIX)... đều xem Phật giáo là điều có hại cho xã hội. Nhưng ở một phía khác, trên phương diện tín ngưỡng, người Việt Nam xưa lại tìm đến Phật giáo. Dần dần, họ đi đến tôn sùng và đề cao nó. Các vua Lý, vua Trần từ các thế kỷ XI đến XIV đều đề cao Phật giáo. Thời Lê, thời Nguyễn tuy tôn sùng Nho, nhưng vẫn để cho Phật giáo lưu hành. Lê Sát, Lê Ngân là những đại thần thời Lê sở và những hoàng thân, quốc thích thời Nguyễn trong nhà đều có chùa thờ Phật. Thậm chí Trương Hán Siêu trước chống Phật giáo sau lại theo Phật giáo. Còn quần chúng nhân dân thì lẳng lặng đi theo Phật giáo. Hai khuynh hướng phủ nhận và thừa nhận trên đã đan xen nhau, kế tiếp nhau trong lịch sử. Nhưng khuynh hướng thừa nhận mạnh hơn khuynh hướng phủ nhận và là khuynh hướng chung của lịch sử, làm cho Phật giáo trở thành một tôn giáo và là một hiện tượng triết học lâu dài của dân tộc. Trở thành một hiện tượng đó, rõ ràng không phải là sự áp đặt, cũng không phải là sự lầm lỡ nhất thời, mà như là một sự tất yếu, một hiện tượng có tính quy luật, không thể khác trong hoàn cảnh lúc bấy giờ. Tính tất yếu trên ít nhiều đã có người đề cập. Một số người có kiến thức lịch sử lại có quan điểm hiện thực chủ nghĩa, không thể không công khai thừa nhận sự tồn tại hiển nhiên của Phật giáo. Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích thế kỷ XVIII đều thừa nhận một số yếu tố của Phật giáo. Thậm chí Lê Quý Đôn còn cho rằng chê bai tiên Phật là thái độ "hẹp hòi". Vì sao Phật giáo, một tôn giáo, một triết thuyết từ bên ngoài vào lại khẳng định được vị trí của mình dài lâu trong dân tộc như thế? Về vấn đề này đã có nhiều giải kiến khác nhau. Có người cho rằng dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống bao dung tôn giáo nên dung nạp Phật giáo; có người giải thích rằng Phật giáo là một trào lưu văn hoá nên sẽ sống mãi với dân tộc, có người quan niệm rằng Phật giáo không giành quyền binh và uy lực ngoài đời nên người ta tin theo... Nhưng tất cả các lý lẽ đó đều không sức thuyết phục. Nếu nói rằng, người Việt Nam có truyền thống bao dung tôn giáo thì không thể giải thích được hiện tượng các nhà nho phê phán Phật giáo và những người vô thần đối nghịch với Phật giáo. Nếu nói rằng Phật giáo là một trào lưu văn hoá mới thấy một mặt của văn hoá dân tộc: mặt chịu ảnh hưởng và mang dấu ấn của Phật giáo. Nhưng xét về bản chất thì Phật giáo là một tôn giáo, một lý thuyết thần bí về sự giải thoát con người và do đó gọi là một tôn giáo đúng hơn là một trào lưu văn hoá. Nếu nói rằng Phật giáo không giành quyền binh, địa vị ngoài đời thì không thể giải thích được các hiện tượng lịch sử, như có người tin theo Phật giáo để mong giầu sang... CHƯƠNG II PHẬT GIÁO LÀ MỘT NHU CẦU TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM TRONG LỊCH SỬ Con người ta gồm các cá nhân khác nhau, sống trong thời gian và không gian khác nhau, nhưng để sống, ở họ đều có chung một tâm lý: mong muốn ấm no, mạnh khoẻ, sống lâu, giàu sang... Mong muốn đó ở người dân Việt Nam được gửi vào hình tượng "Tam đa": Phúc, Lộc, Thọ. Đó là tâm lý, vừa mang tính chất tự nhiên, vừa mang tính chất xã hội, vừa lâu dài, vừa cấp bách. Nó gắn liền với con người như sự tồn tại của chính họ. Xã hội phong kiến là một xã hội trì trệ lâu dài. Người ta bằng lòng với nền kinh tế tự cấp, tự túc, với tri thức hạn hẹp và nếp sống làng xã khép kín. Người ta không thể hiểu được những nguyên nhân thực sự đưa đến những số mệnh khác nhau của con người, không thể hiểu được vì sao ở người này thì có số phận hẩm hiu, ở người khác thì có số phận may mắn... Mỗi con người nghèo khổ đều băn khoăn và mong muốn có một ngày nào đó được đổi đời. Trong một chế độ xã hội người bóc lột người như chế độ phong kiến, con người chưa tìm được sức mạnh để giải phóng mình ở chính bản thân mình. Người ta đặt hy vọng vào một lực lượng siêu nhiên, đặt niềm tin vào tôn giáo. Tín ngưỡng nguyên thuỷ đã thoả mãn phần nào nhu cầu của con người Việt Nam trong lịch sử. Tín ngưỡng đó với các nguyên lý: Thờ tổ tiên thì được tổ tiên phù hộ, thờ thổ công thì được thổ công cho phúc, thờ thành hoàng thì được thành hoàng bảo vệ... đã gieo vào lòng người những niềm tin. Nhưng tín ngưỡng thô sơ đó không thoả mãn được nhu cầu tâm lý và nhận thức của con người Việt Nam. Cùng với sự phát triển của xã hội, người Việt Nam ngày càng mong muốn hiểu được ý nghĩa cuộc sống của mình, muốn biết sự sinh thành của mình, muốn biết quan hệ nhân quả trong cuộc đời mình... Phật giáo với lý thuyết: Khổ, tập, diệt, đạo, nghiệp, vô, thường, ngã ... đã đáp ứng được phần nào nhu cầu đó. Phật giáo do đó đã thay thế được các tín ngưỡng cổ truyền, trở thành tôn giáo chung của nhiều địa phương và cuối cùng là của cả đất nước. Sống và yêu cầu sống không được đáp ứng trong hiện thực xã hội, không những là điều kiện cho Phật giáo du nhập và thắng thế, mà còn là cơ sở qui định sự phát triển của các tông phái. Phật giáo ở Việt Nam, Tông phái nào chú ý đến yêu cầu sống của dân, đến cảnh khổ đau thì ăn sâu phát triển, tông phái nào lý luận cao siêu nhưng không chú ý mấy đến sự thoả mãn yêu cầu của con người thì dù có được thịnh hành cũng chỉ là hiện tượng tạm thời trong lịch sử. Phật giáo truyền vào nước ta là Phật đại thừa với cả ba tông phái: Thiền tông, Mật tông, Tinh độ tông. Thiền tông với các quan niệm: Phật tại tâm, Phật có ở mọi nơi, ai cũng có thể trở thành Phật, có thể trở thành Phật ngay tức khắc... đã nâng con người lên trong ách kìm kẹp nặng nề của trật tự phong kiến và Nho giáo. Nhưng Thiền tông không đề cập đến những nhu cầu thực tế, hàng ngày nên chỉ được thịnh hành trong một giai đoạn lịch sử (Lý - Trần). Mật tông với thuật phù chí, bùa phép, với phương pháp hàng long phục hổ, trấn tà yểm huyệt, tuy thô thiển về mặt cách thức nhưng hứa hẹn thoả mãn một điều gì đó trong tâm lý con người, nên được nhiều người tin theo nhất là quần chúng người nghèo khổ. Nhưng nổi hơn cả , có sức hấp dẫn hơn cả phải tính đến Tinh độ tông. Tinh độ tông với chủ trương niệm Phật A-di-đà, với sự tôn thờ Phật Quan thế âm, với quan niệm sống từ bi hỉ xả, thì khi chết sẽ được về nơi tịnh thổ, được lên cõi niết bàn, được thoát khỏi cảnh trầm luân khổ ải ở kiếp sau, đã đánh đúng vào yêu cầu thoát khổ thoát nạn của con người trần gian, nên đã có sức lôi cuốn đặc biệt. Người ta dốc lòng tin theo Phật Quan thế âm. Người ta còn tạo nên Phật Bà Quan âm nghìn mắt, nghìn tay để chứng tổ rằng có một vị Phật có thể thấy được hết khổ ải của chúng sinh, có thể cứu vớt được hết mọi người khổ đau. Chính do chủ trương cứu khổ, cứu nạn, đổi đời người như thế nên Tịnh độ tông trở thành tông phái chủ đạo của Phật giáo Việt Nam và xuyên suốt trong lịch sử. Có thể nói Phật giáo, nhất là Tịnh độ tông là một phương thức thoả mãn nhu cầu tinh thần của con người Việt Nam trong lịch sử. Chừng nào thế giới quan vô thần và khoa học chưa đủ điều kiện để thống trị trong đầu óc họ thì những vị Phật do con người tạo ra dù âm thầm ngồi dưới mái chùa chật hẹp , hay đứng phơi ngoài không gian rộng lớn vẫn còn sức hấp dẫn nhiều người. CHƯƠNG III PHẬT GIÁO TRONG THẾ GIỚI QUAN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM Như bất cứ một cộng đồng nào khác, cộng đồng người Việt Nam trong thời kỳ cổ đại muốn tồn tại và phát triển thì phải lợi dụng, chế ngự và cải tạo thiên nhiên xung quanh mình, phải tổ chức cải tạo xã hội của mình, phải duy trì và phát triển giống nòi. tính chất đó đã làm cho hoạt động thực tiễn của họ ngay từ đầu trở đã có tính toàn diện. Vì vậy thế giới quan với đặc trưng là hình ảnh của sự vận động đó của họ cũng ngay từ đầu đã mang tính chất toàn diện. Trong thời kỳ cổ đại và trung đại, mặc dù nền sản xuất thấp kém, khoa học tự nhiên chưa xuất hiện, công nghiệp không có trên đất Việt Nam mặc dù những nhận thức về tự nhiên và xã hội ở Việt Nam phần nhiều còn ngây thơ, chất phác, còn dừng lại ở mức độ tư duy kinh nghiệm nhưng những tác phẩm thành văn và hiện vật ghi chép lại đã cho thấy ở họ có một bức tranh tổng quát và hoàn thiện về thế giới. Do hoàn cảnh lịch sử, các học thuyết Nho, Phật,, Lão từ bên ngoài truyền vào nước ta. Các học thuyết đó không những không phá vỡ sự hoàn chỉnh vốn có của thế giới quan người Việt Nam mà còn dung hoà phát triển trên cơ sở đó. Xét về mặt chất thì Nho, Phật, Lão có quan niệm khác nhau, thậm chí mâu thuẫn nhau về thế giới, xã hội và con người. Nhưng xét về mặt kết cấu của một thế giới quan thì Nho, Phật, Lão lại là các bộ phận cần thiết hợp thành. Giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ, có sự phân công trách nhiệm, đồng thời cũng có sự nương tựa vào nhau, bổ sung cho nhau làm thành một thế giới quan toàn diện, cần thiết cho con người phong kiến. Thời kỳ Lý - Trần, các vua và triều đình cùng một lúc coi trọng cả ba đạo, cùng một lúc sử dụng cả nhà nho, nhà sư và đạo sĩ. Họ đã tổ chức ra các kỳ thi tam giáo và dựa vào thái độ của họ, người đương thời đã đề xuất ra các lý thuyết "Tam giáo đồng nguyên", "Tam giáo đồng quy", "Tam giáo nhất nguyên"... Lý thuyết "Tam giáo đồng nguyên" còn được nêu lên mạnh mẽ ở thế kỷ XVIII. Đó không phải là điều ngẫu nhiên, mà có cơ sở trong nội dung mỗi đạo cũng như vị trí mỗi đạo trong thế giới quan người Việt Nam. Nho giáo, một học thuyết được giai cấp thống trị đề cao và thần thánh hoá, nhưng nó chỉ là học thuyết chính trị và đạo đức của giai cấp phong kiến. Trong nhiều phương diện hoạt động của con người, nó chỉ chú ý tới phương diện xã hội, trong nhiều mối quan hệ xã hội, nó chỉ chú ý đến quan hệ vua - tôi, cha - con, chồng - vợ. Bước vào lĩnh vực khác của đời sống xã hội, của sinh hoạt con người nó bỏ qua và tỏ ra bất lực. Lão giáo, một học thuyết yếm thế, chủ trương xã lánh sự phát triển của xã hội, quay về bắt trước giới tự nhiên, có vẻ như mâu thuẫn với chủ trương nhập thế của Nho giáo, với cách sống của nhà nho nhưng bao đời nay vẫn được con người phong kiến vin lấy, ngân nga tán thưởng. Chế độ phong kiến đã dầy vò con người, đã chà đạp lên tài năng của con người khiến cho những con người tích cựu nhất cũng phải rơi vào cảnh trầm luân để rồi phải lấy đạo Lão - Trang làm niềm an ủi cho mình. Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ .v.v.. tuy con đường hoạn lộ khác nhau, đóng góp cho xã hội khác nhau, nhưng cùng chung một hoàn cảnh là hướng vào đạo Lão lúc cuối đời. Nhưng đạo Nho và đạo Lão - Trang lảng tránh hoặc có thái độ hư vô chủ nghĩa đối với những vấn đề cơ bản có liên quan đến đời sống con người, như các vấn đề: sống chết, thọ yểu, phúc họa, sướng khổ... Chủ nghĩa tôn quân của đạo Nho cho rằng chưa biết việc sống làm gì phải biết việc chết, cho rằng thọ hay yểu là do số mệnh, phúc hay họa là do trời... Chủ nghĩa tương đối của đạo Lão - Trang cho rằng sống hay chết, thọ hay yểu là điều tự nhiên con người không cần can thiệp vào, còn về phúc hoạ thì cho rằng trong cái phúc có ẩn náu cái hoạ, trong cái hoạ có ẩn náu cái phúc... Tất cả những lý lẽ đó không đủ để thoả mãn những nhu cầu về mặt tâm lý cũng như nhận thức của người Việt Nam. Đạo Phật đã giành lấy một vai trò trong chỗ trống đó trong tinh thần người Việt Nam. Sự phân công giữa Nho và Phật trong thế giới quan người Việt hình như là điều tự nhiên. Thế mà điều tự nhiên này lại không được mấy ai suy xét đến ngọn nguồn. tuy nhiên Trần Thái Tông cũng đã nói: "Đại giác của đức Phật là phương diện dẫn dụ mọi bầy mê hoặc là đường tắt để tỏ rõ mọi lẽ tử sinh làm cán cân cho hậu thế, làm khuôn phép cho tương lai, đó là trọng trách của tiên thánh.". Sự lớn mạnh của Phật giáo, sự chi phối đời sống tinh thần toàn xã hội của Phật giáo đã khiến nhiều nhà nho trong lịch sử không hiểu được và thắc mắc. Lê Quát, một nho sĩ thế kỷ XIV phàn nàn rằng: " Nhà Phật lấy hoạ phúc để cảm lòng người, sao được người ta tin sâu bền thế? " (Đại việt sử ký toàn thư), Bùi Huy Bích một nho sĩ khác ở thế kỷ XVIII cũng phàn nàn rằng: "Nhà nhà mê hoặc vào thuyết báo ứng, người ở đâu thì lề Phật ở đấy" ( "Lừ trung tạp thuyết" của Bùi Huy Bích). Sự không hiểu được đó vì thái độ thành kiến và thói quen nhắm mắt trước hiện thực của nhà nho. Phật giáo, ngoài vấn đề thế giới quan của giai cấp phong kiến, còn là vấn đề của người dân bình thường, được quần chúng tự nguyện tin theo. Ngoài tính giai cấp ra, Phật giáo còn có tính quần chúng. Chính vì vậy, khi cuộc cách mạng xã hội nổ ra thì Nho và Lão - Trang không còn cơ sở tồn tại, nhưng Phật giáo vẫn còn sống dai dẳng. CHƯƠNG IV GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA PHẬT GIÁO TRONG PHƯƠNG PHÁP TƯ DUY CỦA NGƯỜI VIỆT NAM. Phật giáo là một tôn giáo, nhưng trong đó hai yếu tố tôn giáo và triết học quện vào nhau, làm cơ sở luận chứng cho nhau. Ở đây, chúng ta chú ý tới yếu tố triết học. Về mặt này, Phật giáo đã có ảnh hưởng lớn tới phương pháp tư duy của người Việt Nam. Trong đó có những giá trị, đồng thời cũng có nhiều hạn chế. Tiếp thu Phật giáo, tư duy người Việt có thêm một loạt khái niệm và phạm trù nói lên bản thể luận, nhận thức luận là những vấn đề cơ bản của triết học. Trong thế giới quan phức hợp nhiều thành phần của người Việt Nam thì Phật giáo là thành phần có ý nghĩa triết học nhiều nhất. Hơn tất cả các học thuyết khác của Phương Đông, Phật giáo chú ý đến mặt phát triển tự nhiên của con người, đó là sinh, lão, bệnh, tử. Bốn chặng đó của cuộc đời phản ánh sự phát triển tất yếu của cơ thể con người, mà nếu ai đó nhận thức được thì sẽ không sợ hãi trước sự thay đổi của cuộc đời, thậm chí còn bình thản, lạc quan trước cái chết. Nhiều nhà sư trong thời Lý - Trần đã có một quan niệm như thế. Phật giáo đề cập đến vấn đề ngũ uẩn: sắc, thụ, tưởng, hành, thức là những vấn đề có ý nghĩa nhận thức luận sâu sa. Tuy đối tượng của nhận thức đó là tâm và tính chất là duy tâm nhưng ở trong quá trình ngũ uẩn chứa đựng một quá trình nhận thức gồm các bước hợp lý: từ sự vật khách quan (sắc), con người cảm thụ được (thụ), suy nghĩ (tưởng), rồi đem thực hiện (hành) và cuối cùng là hiểu biết (thức). Ở đây, nếu bóc cái vô thần bi ra, ta thấy có những hạt nhân hợp lý. Phật giáo đưa vào hệ tư tưởng Việt Nam những quan niệm biện chứng với các khái niệm " vô thường ", " vô ngã ". Ở đó cho thấy Phật giáo nhìn sự vật trong sự vận động và biến đổi liên tục, không có gì là trụ lại mãi mãi, không có ai là tồn tại mãi mãi. Tuy nhận thức đó chỉ thấy được cái biến đổi mà không thấy được cái ổn định tương đối, chỉ thấy được cái vận động mà không thấy được cái hình thức của vận động, tuy dễ đi tới chiều hướng bi quan và thái độ buông xuôi, nhưng mặt khác phải thấy nhận thức như vậy là có chiều sâu, là thấy được một phương diện cơ bản của phát triển sự vật. Phật giáo đề cập đến thuyết nhân duyên, đến mối quan hệ nhân quả, đến việc xét sự vật phải từ kết quả tìm ra nguyên nhân và xem kết quả này là nguyên nhân của kết quả khác trong mối quan hệ khác. Phật giáo đề ra tư tưởng từ bi bác ái, chủ trương hỉ xả cứu khổ cứu nạn là những tư tưởng gây được xúc động lòng người và đã trở thành một trong những nguồn gốc của lòng thương người, của chủ nghĩa nhân đạo. Tuy ở đó có nội dung báo ứng, có tư tưởng nhẫn nhục chịu đựng và không phân biệt bạn thù, song việc làm do tác động của tư tưởng trên biểu hiện một sự quan tâm đến con người, cứu vớt con người. Trên đây là những vấn đề mà triết học Phật giáo dựa vào thế giới quan Việt Nam, góp phần làm nên những yếu tố có ý nghĩa triết học sâu sa trong phương pháp tư duy của người Việt Nam. Tuy vậy, Phật giáo có những hạn chế, những ảnh hưởng tiêu cực đến tư duy người Việt. Phật giáo chỉ thấy cá nhân con người mà không thấy xã hội con người, chỉ thấy con người nói chung mà không thấy con người thuộc các giai cấp đối kháng nhau trong xã hội trước đây, không thừa nhận sự đấu tranh giai cấp trong xã hội. Do đó, không thấy được nguyên nhân xã hội đưa đến sự khổ ải của con người, không thấy được sự cần thiết phải đấu tranh chống áp bức, bóc lột vì thế quan niện từ bi, bác ái trong một số trường hợp bất lợi cho sự đấu tranh giải phóng giai cấp, chống áp bức. Phật giáo không bàn tới lĩnh vực chính trị, vì thế mỗi khi nhà sư bước sang lĩnh vực chính trị - xã hội, họ phải sử dụng các tư tưởng của nhà Nho hay Lão - trang. Nhà sư Viên Thông cho rằng: "Lòng dân là gốc trị loạn", trong đó "lòng dân" là khái niệm và tư trưởng của nhà nho; hoặc nhà sư Đỗ Pháp Thuận nói: "Vô vi cư diện các, xứ xứ tức đao binh" (nếu đường lối vô vi ngự trị trong triều đình, thì nơi nơi sẽ tắt chiến tranh) trong đó " vô vi" là khái niệm của Lão - Trang, mặc dù khái niệm đó đã được giải thích theo quan niệm nhà Phật. Hạn chế lớn nhất của Phật giáo đối với phương pháp tư duy của người Việt Nam là quan điểm duy tâm thần bí. Quan điểm này khiến người ta không hướng vào hiện thực, mà hướng vào nghiệp, vào quả báo, vào thần linh để mong được phù hộ, độ trì. Và một khi tư duy như vậy thì không cần gì đến sự tìm tòi và khám phá, sáng tạo và hành động. Tóm lại: Phật giáo là một tôn giáo. Vì vậy nó có những thiếu sót, những tiêu cực về mặt khoa học và nhân sinh quan. Song với thái độ khách quan, chúng ta cần nhận thức rõ những yếu tố tích cực trong tư tưởng Phật giáo. Trong lịch sử và cho đến ngày nay, Phật giáo là tôn giáo duy nhất chống lại thần quyền. Trong những tư tưởng của nó có những yếu tố duy vật và biện chứng. Đạo Phật là tiếng nói chống chế độ đẳng cấp khắc nghiệt, tố cáo bất công, đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội; nói lên khát vọng giải thoát con người khỏi những bi kịch của cuộc đời. Đạo Phật nêu cao thiện tâm, bình đẳng, bác ái cho mọi người như là những tiêu chuẩn đạo đức cơ bản của đời sống xã hội. Những giá trị đạo đức của Phật giáo đã đưa nó lên thành một trong ba tôn giáo lớn nhất trên thế giới ( Thiên chúa giáo, Hồi giáo và Phật giáo). Phật giáo vào nước ta từ những năm đầu công nguyên. Phật giáo đã phát triển phù hợp với truyền thống Việt Nam. Từ đó hình thành nhiều phái Phật giáo Việt Nam như : Phái Tini Đa lưu chi, phái Thảo đường, phái Trúc lâm (Yên tử) ... Ảnh hưởng của nó khá toàn diện: Phật giáo trở thành quốc giáo ở các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần góp phần kiến lập và bảo vệ chế độ phong kiến tập quyền vững mạnh, giữ vững nền độc lập dân tộc. Phật giáo có công trong việc đào tạo tầng lớp trí thức cho dân tộc. Trong đó có nhiều vị tăng thống, thiền sư, quốc sư có đức độ tài năng giúp nước an dân như: Ngô Chân Lưu, Pháp Nhuận, Vạn Hạnh, Viên Thiếu... Bản chất từ bi hỉ xả ngày càng thấm sâu vào đời sống tinh thần dân tộc, hướng nhân dân và tầng lớp vua quan vào con đường thiện nghiệp, tu dưỡng đạo đức, vì nước vì dân. Vào thời kỳ cực thịnh, Phật giáo là nền tảng tư tưởng trong nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn học, giáo dục, khoa học, kiến trúc, hội hoạ... Nhiều tác phẩm văn học có giá trị, nhiều công trình kiến trúc độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc có tầm cỡ quốc tế của Việt Nam phần lớn được xây dựng vào thời kỳ này. Từ cuối thế kỷ XIII cho đến nay, Phật giáo không còn là "quốc giáo" nữa nhưng những tư tưởng tích cực của nó vẫn còn là nguồn sống tinh thần của nhân dân ta và cần được giữ gìn và phát huy. Bài viết này chưa thực sự hoàn chỉnh, có thể còn nhiều sai sót, tác giả rất mong muốn sự góp ý của các thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn chỉnh hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9625.doc
Tài liệu liên quan