Biến chứng “phản ứng mô tại chỗ bất lợi” là một
biến chứng ít gặp sau mổ thay khớp toàn phần. Ở trong
nước cũng chưa thấy có tác giả nào báo cáo về biến
chứng này. Do đó, chúng tôi cũng nhất trí với ý kiến
của Charles A. Engh và cộng sự [6] là biến chứng này
cần phải thông báo, phổ biến rộng rãi để được biết
đến nhiều hơn trong cộng đồng phẫu thuật viên chấn
thương chỉnh hình. Đặc điểm của “phản ứng mô tại
chỗ bất lợi” sau mổ thay khớp toàn phần thường là xuất
hiện một khối giả u (pseudotumour) ở khu vực quanh
khớp, kèm theo bệnh nhân có đau, về mặt lâm sàng rất
dễ nghĩ đến một biến chứng cũng khá thường gặp là
nhiễm trùng muộn sau mổ. Đặc biệt trong khi mổ để
xử trí cắt lọc và thám sát, tính chất của tổ chức hoại tử
do “phản ứng mô tại chỗ bất lợi” cũng rất giống với tổ
chức mủ trong nhiễm trùng và làm cho chúng ta lạc
hướng. Kết quả nuôi cấy sau đó thường là âm tính vì
không phải là bệnh lý nhiễm trùng. Một số trường hợp
nuôi cấy dương tính nhưng thường là do bội nhiễm chứ
không phải nhiễm trùng tiên phát. Chẩn đoán “phản
ứng mô tại chỗ bất lợi” đã khó, xử trí lại càng khó hơn.
Phẫu thuật viên phải hết sức cân nhắc trước một loạt
câu hỏi hóc búa: có nên tháo bỏ khớp nhân tạo hay
không? Nếu tháo bỏ thì sau đó có nên thay khớp nhân
tạo loại khác hay không? Bao giờ thì thay? Trường
hợp của chúng tôi, bệnh nhân được chọn giải pháp
lấy bỏ khớp nhân tạo và hàn khớp vì phẫu thuật viên
không muốn mạo hiểm trong việc đề nghị bệnh nhân
thay lại khớp gối nhân tạo mà xác suất bị tái diễn biến
chứng này có lẽ là rất cao. Đây chỉ là trường hợp bệnh
nhân đầu tiên chúng tôi ghi nhận được bị biến chứng
này, trong số 200 trường hợp thay khớp gối toàn phần,
chiếm tỉ lệ 0,5%. Theo chúng tôi nghĩ, trong tương lai
các phẫu thuật viên chấn thương chỉnh hình cần chú ý
nhận diện và ghi nhận lại biến chứng này,vì tuy đây là
một biến chứng hiếm gặp song chắc chắn nó sẽ gây ra
rất nhiều phiền toái và thất vọng cho cả bệnh nhân và
phẫu thuật viên. Hiện nay vấn đề điều trị đối với “phản
ứng mô tại chỗ” sau thay khớp toàn phần còn ở mức
độ rất hạn chế. Cần phải có nhiều nghiên cứu hơn nữa
để giúp chúng ta có thêm kinh nghiệm trong việc xử trí
biến chứng bất lợi này.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giả u do mảnh vật liệu mòn hay phản ứng mô tại chỗ bất lợi sau thay khớp gối toàn phần: 1 ca lâm sàng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ 3/2013
36
Bùi Hồng Thiên Khanh*,
Lê Tường Viễn**,
Dương Đình Triết**,
Nguyễn Đức Thành**.
* TS. BS. Giảng viên bộ môn
CTCH ĐH Y Dược TP.HCM,
Trưởng phân khoa CTCH
B.viện ĐH Y Dược TP.HCM,
** ThS. BS. Bệnh viện
ĐH Y dược TP.HCM.
Email:
khanhbui1969@yahoo.com
Ngày nhận: 25 - 9 - 2012
Ngày phản biện: 20 - 3 -2013
Ngày in: 06 - 6 - 2013
Bui Hong Thien Khanh*,
Le Tuong Vien**,
Duong Dinh Triet**,
Nguyen Duc Thanh**.
GIẢ U DO MẢNH VẬT lIỆU MÒN HAY PHẢN ỨNG MÔ
TẠI cHỖ BẤT lỢI SAU THAY KHỚP GỐI TOÀN PHẦN:
1 cA lÂM SÀNG
WEAR DEBRIS PSEUDOTUMOR OR ADVERSE lOcAl TISSUE
RESPONSE (AlTR) FOllOWING TOTAl KNEE ARTHROPlASTY:
A cASE REPORT
ABSTRAcT
Introduction: A soft tissue mass, resulting from metal wear debris or metal reactivity
is rare but important complication of hip and knee replacement. These leisons, which
may be cystic or solid, have been called various names by different group including
pseudotumor, cysts, bursae, metal reaction, metal sensibility and adverse local tisssue
response (ALTR). They can be invasive and cause massive soft tissue destruction. They
cause a spectrum of symptoms ranging from mild or asymtomatic to severe. The outcome
or revision is poor, with a high incidence of complication and need for re-revision.
In patients who have undergone a total joint replacement, any mass occurring in or
adjacent to the joint needs thorough investigation and a wear debris-induced cyst should
be suspected.
Ñaët vaán ñeà: khoái u moâ meàm do phaûn öùng kim loaïi vaø maûnh kim loaïi moøn hieám gaëp
nhöng laø bieán chöùng naëng neà trong thay khôùp goái vaø khôùp haùng toaøn phaàn. Nhöõng
sang thöông naøy coù theå daïng nang hoaëc daïng ñaëc, ñöôïc goïi vôùi nhieàu teân khaùc nhau
bôûi nhieàu taùc giaû nhö giaû u, nang, tuùi hoaït dòch, phaûn öùng kim loaïi, nhaïy caûm vôùi kim
loaïi vaø phaûn öùng moâ taïi choã baát lôïi (ALTR).
Nhöõng sang thöông naøy coù theå xaâm laán vaø gaây ra huûy moâ nhieàu cuõng nhö gaây ra trieäu
chöùng thay ñoåi töø nheï ñeán traàm troïng. Keát quaû thay khôùp laïi keùm vôùi bieán chöùng cao
vaø khaû naêng phaûi thay khôùp theâm moät laàn nöõa.
ÔÛ beänh nhaân coù thay khôùp toaøn phaàn, baát cöù khoái u naøo ôû trong vaø gaàn khôùp ñeàu caàn
ñöôïc thaêm khaùm kyõ vaø neân nghi ngôø nang do maûnh vaät lieäu moøn.
Ca laâm saøng: Beänh nhaân nöõ, 68 tuoåi, ñaõ ñöôïc thay khôùp goái 3 naêm, sau 1 naêm beänh
nhaân phaùt hieän moät khoái u lôùn vaø ñau ôû vuøng tröôùc trong khôùp goái phaûi (1/200 tröôøng
hôïp). X quang thöôøng qui cho thaáy khe khôùp goái phía trong bình thöôøng. Sieâu aâm cho
thaáy coù sang thöông daïng nang ôû vuøng tröôùc trong khôùp goái phaûi. Choïc huùt dòch: PCR
(-), vi truøng (-), giaûi phaãu beänh: moâ vieâm maïn tính (sau caét loïc laàn 1 bò boäi nhieãm
Staphylococcus, beänh nhaân ñöôïc caét loïc 3 laàn). Trong khi moå caét loïc laàn 3 (sau theo
doõi 2 naêm) laáy boû khôùp nhaân taïo vaø haøn khôùp goái, thaáy dò vaät kim loaïi , dòch vaøng seät
nhö muû, moâ vieâm xô hoùa daøy.
Keát luaän: Theo doõi laâu daøi nghieâm ngaët cho beänh nhaân coù thay khôùp goái ñeå phaùt
hieän sôùm söï moøn polyethylene vaø loûng khôùp nhaân taïo. Trong tröôøng hôïp phaùt hieän
sôùm, thay laïi khôùp goái coù theå ñaït ñöôïc chöùc naêng ñaùng keå. Tröôøng hôïp beänh nhaân cuûa
chuùng toâi ñöôïc phaãu thuaät laøm cöùng khôùp goái sau khi thaùo boû khôùp nhaân taïo.
TÓM TẮT
Phản biện khoa học: GS. TS. Đỗ Đức Vân, PGS. TS. Nguyễn Văn Thạch
Giả u do mảnh vật liệu mòn hay phản ứng mô tại chỗ bất lợi sau thay khớp gối toàn phần: 1 ca lâm sàng
37
Case presentation: An 68-year-old woman had had a total right knee replacement 3 years previously.
After total replacement 1 year, she presented with a painful and enlarging mass at the antero-medial
area of her right knee (1/200 TKAs). Plain radiographs showed normal of the medial compartment.
Ultrasound showed a cystic lesion at the antero-medial aspect of the knee joint. Fine needle aspiration
was non-diagnostic: PCR (-), bacterium (-), pathology: inflamation at first time (but in the second
debridement, she had surinfection with Staphylococcus). Intraoperative findings revealed metallosis,
fluid like pus related to polyethylene and metal wear. Removal of prothesis and knee fusion was carried
out after thorough debridement (3 times) of the knee joint.
Conclusion: Long-term follow-up is critical for patients with total joint replacement for early detection
of occult polyethylene wear and prosthesis loosening. In these cases, revision arthroplasty may provide
a satisfactory knee function. Our case is operated on to make knee arthrodesis.
Keywords: Total arthroplasty, soft tissue mass, necrotic granulomatous pseudotumor
tổNG QUaN y VăN
Năm 1977, GC Brown và cộng sự (USA) [1] nghiên
cứu khả năng sự ăn mòn vật liệu hợp kim côban – crôm
có dẫn tới sự mẫn cảm của cơ thể với vật liệu này, từ đó
gây lỏng khớp nhân tạo sau mổ thay khớp toàn phần hay
không? 20 bệnh nhân bị lỏng khớp vô khuẩn sau mổ thay
khớp háng toàn phần được xét nghiệm kiểm tra sự mẫn
cảm với côban, niken và crôm. Kết quả tất cả các bệnh
nhân đều âm tính. Xét nghiệm mô học ở 17 bệnh nhân
được mổ lại cho thấy không có dấu hiệu của quá mẫn
muộn. Có 5 bệnh nhân được làm xét nghiệm về yếu tố ức
chế di chuyển bạch cầu và yếu tố mầm. Chỉ có một trường
hợp dương tính. Nhóm nghiên cứu kết luận rằng không
có bằng chứng cho thấy quá mẫn với kim loại là nguyên
nhân dẫn tới lỏng khớp nhân tạo sau mổ thay khớp háng
toàn phần.
Năm 1990, S Santavirta và cộng sự (Finland) [2] thực
hiện một nghiên cứu trên 12 bệnh nhân về phản ứng miễn
dịch bệnh lý tại chỗ sau mổ thay khớp háng toàn phần có
xi-măng. Trong 12 bệnh nhân này có 6 bệnh nhân phải
mổ thay lại khớp háng toàn phần vì tổn thương u hạt
(granulomatous) tiến triển, và 6 bệnh nhân phải mổ lại
vì lỏng khớp nhân tạo. Kết quả phân tích mô miễn dịch
ở nhóm bệnh nhân có biến chứng u hạt cho thấy có biểu
hiện phản ứng của cơ thể với vật lạ, tương ứng với sự tiêu
xương tiến triển nhanh quan sát được trên X quang. Các
tác giả này nhận định rằng u hạt là biến chứng có liên
quan một cách rõ ràng với thay khớp háng toàn phần có
xi-măng, không chỉ về mặt lâm sàng và hình ảnh học mà
còn về mặt mô bệnh học.
Năm 2005, Yoon Soo Park và cộng sự (Korea) [3] thực
hiện một nghiên cứu hồi cứu kiểu đoàn hệ (cohort) trên
169 trường hợp thay khớp háng toàn phần kiểu metal-on-
metal trên 165 bệnh nhân. Sau 24 tháng theo dõi, có 9 bệnh
nhân (9 khớp háng) có biểu hiện tiêu xương tại chỗ ở mấu
chuyển lớn. Phản ứng mẫn cảm với kim loại đã được thực
hiện trên 9 bệnh nhân này và trên nhóm chứng gồm 9 bệnh
nhân thay khớp háng khác không bị biến chứng tiêu xương
được chọn ngẫu nhiên. Trong 9 bệnh nhân có biến chứng
tiêu xương, có 2 trường hợp được mổ thay lại khớp háng
và trong lúc mổ đã được lấy mẫu mô quanh khớp háng
nhân tạo cũ đem nuôi cấy vi sinh, xét nghiệm mô bệnh học
và phân tích hóa mô miễn dịch. Kết quả cho thấy ở các
bệnh nhân có biến chứng tiêu xương, tỉ lệ có phản ứng quá
mẫn với cobalt cao hơn có ý nghĩa so với nhóm chứng (p =
0,031). Phân tích mô học cho thấy có sự tập trung đại thực
bào quanh mạch máu. Phân tích hóa mô miễn dịch cho
thấy có các cytokine tái hấp thu xương. Các tác giả nhận
định có khả năng biến chứng tiêu xương sớm ở bệnh nhân
sau mổ khớp háng toàn phần kiểu metal-on-metal có liên
quan đến phản ứng quá mẫn muộn với kim loại. Tuy nhiên
cần có những nghiên cứu tiền cứu với số lượng bệnh nhân
lớn hơn để khẳng định chắc chắn giả thuyết này.
Năm 2005, nghiên cứu của Hans Georg Willert và cộng
sự (Germany) [4] thực hiện trên 19 bệnh nhân được mổ
thay lại khớp háng toàn phần kiểu metal-on-metal, trong
đó có 14 bệnh nhân lần trước đã được thay khớp háng toàn
phần kiểu alumina-ceramic hoặc metal-on-polyethylene, 5
bệnh nhân đã được thay khớp háng toàn phần kiểu metal-
on-metal loại khác. Đa số các bệnh nhân này có biểu hiện
tồn tại dai dẳng hoặc tái phát sớm các triệu chứng như
trước mổ, và tràn dịch khớp háng sau mổ thay khớp lần
đầu. Tất cả các bệnh nhân được lấy mẫu mô quanh khớp
nhân tạo để làm xét nghiệm mô học theo phương pháp hóa
mô miễn dịch. Kết quả các thay đổi mô học đặc trưng của
mô quanh khớp nhân tạo cho thấy có biểu hiện của phản
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ 3/2013
38
ứng miễn dịch. Các tác giả khuyến cáo cho dù tần suất
của biến chứng phản ứng này là thấp, nhưng khi ở
bệnh nhân có sự tồn tại dai dẳng hoặc tái phát sớm các
triệu chứng, bao gồm tràn dịch khớp và tiêu xương sau
mổ thay khớp lần đầu, chúng ta phải nghĩ ngay đến
biến chứng phản ứng này.
Năm 2009, AF Mavrogenis và cộng sự (Greece)
[5] báo báo 1 trường hợp bị biến chứng “giả u” do
mảnh vụn kim loại sau mổ thay khớp gối toàn phần.
Đây là một bệnh nhân nam 81 tuổi, sau mổ 7 năm thì
thấy ở vùng khoeo xuất hiện một khối lớn dần và đau.
X quang thường qui cho thấy có hẹp khe khớp trong.
MRI cho thấy có một thương tổn dạng nang ở phía
sau trong khớp gối, nghi ngờ là nang hoạt dịch hoặc
sarcoma mô mềm. Chọc hút bằng kim nhỏ không chẩn
đoán được gì. Sinh thiết với kim lớn kết quả cho thấy
có biểu hiện của bệnh kim loại (metalosis). Trong lúc
mổ thấy có tổn thương bệnh kim loại liên quan đến sự
ăn mòn polyethylene. Bệnh nhân đã được cắt lọc cẩn
thận và thay lại khớp gối toàn phần. Các tác giả này
khuyến cáo rằng các trường hợp thay khớp gối toàn
phần cần được theo dõi lâu dài và phát hiện sớm sự ăn
mòn polyethylene và lỏng khớp nhân tạo, và thay khớp
lại có thể mang lại kết quả tốt ở các bệnh nhân này.
Gần đây nhất, năm 2010, Charles A. Engh và cộng
sự (USA) [6] báo cáo một nghiên cứu dài hạn thực
hiện trên 1327 trường hợp thay khớp háng toàn phần
kiểu metal-on-metal từ năm 2001. Sau 8 năm theo dõi,
có 94% vẫn tốt, 17 trường hợp phải mổ thay lại khớp
(1,3%). Có 5 trường hợp (0,3%) có biểu hiện phản ứng
mô tại chỗ dẫn đến thất bại của lần mổ lại. Cả 5 bệnh
nhân này đều có biểu hiện viêm dày bao khớp và chảy
dịch giống như mủ lúc mổ lại, trong đó có 2 trường
hợp bị nhiễm trùng thứ phát do có khối hoại tử mô
quanh khớp nhân tạo (giả u).
Theo các tác giả việc chẩn đoán “phản ứng mô tại
chỗ” là khó và dễ nhầm là nhiễm trùng, đôi khi phải
đến lúc mổ ra mới chẩn đoán được, làm cho việc điều
trị trở nên phức tạp hơn. Do đó biến chứng này cần phải
phổ biến để được biết đến nhiều hơn trong cộng đồng
chấn thương chỉnh hình. Các tác giả này khuyến cáo
nên làm xét nghiệm tốc độ lắng máu và protein phản
ứng C (CRP) để phân biệt “phản ứng mô tại chỗ” với
nhiễm trùng. Chụp cắt lớp, cộng hưởng từ sẽ giúp phát
hiện dịch hoặc khối giả u quanh khớp nhân tạo. Nếu
tất cả các xét nghiệm đều bình thường mà bệnh nhân
vẫn có triệu chứng thì nên chọc dò khớp háng. Nếu
kết quả nuôi cấy dịch âm tính thì khi mổ thay lại khớp
háng nên đổi sang loại polyethylene. Nếu kết quả nuôi
cấy dịch dương tính thì phẫu thuật viên phải xét xem
đây là nhiễm trùng tiên phát hay thứ phát? Nếu kết quả
xét nghiệm mô học cho thấy có biểu hiện nhiễm trùng
cấp tính mà không có hoại tử mô nhiều thì nên điều trị
như đối với bất kỳ một trường hợp nhiễm trùng khớp
nhân tạo nào khác. Nếu có hoại tử cơ và xương lan
rộng, phẫu thuật viên phải xem đây là một trường hợp
bị “phản ứng mô tại chỗ ”, còn nhiễm trùng chỉ là thứ
phát trên nền mô hoại tử. Trong trường hợp này, phẫu
thuật viên cần cắt lọc hoại tử và phải cân nhắc xem có
cần phải tháo bỏ khớp nhân tạo hay không?
Báo cáo một trường hợp
Tại Bệnh viện đại học Y Dược TP.HCM, trong 200
trường hợp bệnh nhân được thay khớp gối toàn phần
chúng tôi có gặp 1 trường hợp (0,5%) có những biểu
hiện của biến chứng “phản ứng mô tại chỗ bất lợi”.
Hình 1: Dịch hoại tử màu trắng giống như mủ (A) và bao khớp viêm dày (B)
A B
Giả u do mảnh vật liệu mòn hay phản ứng mô tại chỗ bất lợi sau thay khớp gối toàn phần: 1 ca lâm sàng
39
Bệnh nhân nữ, 70 tuổi, bị thoái hoá khớp gối hai bên
kèm bệnh tiểu đường 10 năm đã điều trị ổn định. Bệnh
nhân được thay khớp gối phải kiểu Fix bearing (metal-on-
polyethylene) vào năm 2007, tập đi và gấp gối >100 độ
sau 2 tháng. Sau 3 tháng bệnh nhân đi lại sinh hoạt gần
như bình thường và không tái khám sau đó. Sau 1 năm
(2008) bệnh nhân đi lại nhiều và phát hiện ở vùng trước
gối phía mâm chày trong có một khối u căng, đau nhức.
Bệnh nhân đến khám : khối u có kích thước 1cm x 1cm
x 2cm căng, chọc hút dịch vàng hơi sệt, thử PCR (-), cấy
dịch làm kháng sinh đồ (-), xét nghiệm kiểm tra đường
huyết ổn định <150mg%. Bệnh nhân được xử trí chọc hút
dịch và uống thuốc kháng sinh 4 tuần.
Hình 2: Khối giả u ở mặt trước mâm chày trong
gối phải (đã được chọc hút và điều trị kháng sinh)
Tái khám vài lần cách nhau 1 tháng thấy tạm ổn,
nhưng sau đó tháng 3/2008, phát hiện u tái phát như trên,
đau căng. Bệnh nhân đến bệnh viện Thống nhất Đồng Nai
được chẩn đoán áp xe và được rạch tháo dịch, sau đó đến
lại bệnh viện đại học Y Dược TP.HCM được cấy dịch làm
kháng sinh đồ trước mổ, kết quả không có vi trùng mọc.
Bệnh nhân được lên chương trình mổ cắt lọc vết thương
lần 1 ngày 9/3/2008, phối hợp đặt chuỗi xi măng có kháng
sinh gentamycine và ceftazidime. Dịch trong mổ được
đem nuôi cấy và làm kháng sinh đồ có Staphylococcus
coagulase (+). Sau mổ lại, bệnh nhân ổn định đi đứng
không đau. Đến tháng 3/2009 (sau 1 năm) bệnh nhân được
mổ lấy bỏ chuỗi xi măng kháng sinh, cắt lọc lại, lấy dịch
soi tươi và nuôi cấy. Kết quả nhuộm Gram không thấy vi
trùng và cấy không có vi khuẩn hiếu khí. Bệnh nhân ổn
định được 6 tháng, sau đó lại bị tình trạng như trên: có
dịch mô phản ứng , cấy dịch và làm kháng sinh đồ không
có vi trùng mọc, điều trị nội khoa tiếp 6 tháng không giảm.
Đến ngày 1/4/2010, kết quả nuôi cấy trước mổ vẫn không
có vi trùng mọc nên chúng tôi nghĩ đến biến chứng “phản
ứng mô tại chỗ bất lợi” ở bệnh nhân này và quyết định mổ
cắt lọc, tháo bỏ dụng cụ, xi măng và hàn cứng khớp gối
bằng 2 đinh Steimann chéo từ lồi cầu xuống mâm chày
vào ngày 2/4/2010. Trong lúc mổ quan sát thấy mô hoại tử
sệt vàng như mủ thông với mâm chày trong bằng kim loại,
bao khớp phản ứng viêm xơ dày. Cấy dịch trong mổ có
Staphylococcus coagulase (-). Kết quả giải phẫu bệnh lý:
mô viêm mạn tính. Hiện nay bệnh nhân đã ổn định hoàn
toàn, vết mổ lành, không có phản ứng tạo dịch lại.
Hình 3: Dịch hoại tử vàng sệt giống như mủ
Hình 5: Tháo bỏ khớp gối nhân tạo
Hình 4: Bao khớp viêm dày
Hình 6: Hàn khớp
TẠP CHÍ CHẤN THƯƠNG CHỈNH HÌNH VIỆT NAM - SỐ 3/2013
40
Tài liệu tham khảo
1. GC Brown, MD Lockshin, EA Salvati and PG Bullough:
Sensitivity to metal as a possible cause of sterile loosening
after cobalt-chromium total hip-replacement arthroplasty, J
Bone Joint Surg Am. 1977;59:164-168
2. S Santavirta, YT Konttinen, V Bergroth, A
Eskola, K Tallroth and TS Lindholm: Aggressive
granulomatous lesions associated with hip arthroplasty.
Immunopathological studies, J Bone Joint Surg Am.
1990;72:252-258.
3. Youn-Soo Park, Young-Wan Moon, Seung-Jae Lim,
Jun-Mo Yang, Geunghwan Ahn and Yoon-La Choi:
Early Osteolysis Following Second-Generation Metal-
on-Metal Hip Replacement, J Bone Joint Surg Am.
2005;87:1515-1521
4. Hans-Georg Willert, Gottfried H. Buchhorn, Afshin
Fayyazi, Renata Flury, Markus Windler, Georg Köster
and Christoph H. Lohmann: Metal-on-Metal Bearings
and Hypersensitivity in Patients with Artificial Hip Joints. A
Clinical and Histomorphological Study, J Bone Joint Surg
Am. 2005;87:28-36.
5. Mavrogenis AF, Nomikos GN, Sakellariou VI,
Karaliotas GI, Kontovazenitis P, Papagelopoulos
PJ: Wear debris pseudotumor following total knee
arthroplasty: a case report, J Med Case Reports. 2009
Nov 29;3:9304.
6. Charles A. Engh Jr, MD, Henry Ho, MSc, Charles A.
Engh, MD, William G. Hamilton, MD, and Kevin B.
Fricka, MD: Metal-on-Metal Total Hip Arthroplasty Adverse
Local Tissue Reaction, Semin Arthro 21:19-23 © 2010
Elsevier Inc
BàN LUẬN
Biến chứng “phản ứng mô tại chỗ bất lợi” là một
biến chứng ít gặp sau mổ thay khớp toàn phần. Ở trong
nước cũng chưa thấy có tác giả nào báo cáo về biến
chứng này. Do đó, chúng tôi cũng nhất trí với ý kiến
của Charles A. Engh và cộng sự [6] là biến chứng này
cần phải thông báo, phổ biến rộng rãi để được biết
đến nhiều hơn trong cộng đồng phẫu thuật viên chấn
thương chỉnh hình. Đặc điểm của “phản ứng mô tại
chỗ bất lợi” sau mổ thay khớp toàn phần thường là xuất
hiện một khối giả u (pseudotumour) ở khu vực quanh
khớp, kèm theo bệnh nhân có đau, về mặt lâm sàng rất
dễ nghĩ đến một biến chứng cũng khá thường gặp là
nhiễm trùng muộn sau mổ. Đặc biệt trong khi mổ để
xử trí cắt lọc và thám sát, tính chất của tổ chức hoại tử
do “phản ứng mô tại chỗ bất lợi” cũng rất giống với tổ
chức mủ trong nhiễm trùng và làm cho chúng ta lạc
hướng. Kết quả nuôi cấy sau đó thường là âm tính vì
không phải là bệnh lý nhiễm trùng. Một số trường hợp
nuôi cấy dương tính nhưng thường là do bội nhiễm chứ
không phải nhiễm trùng tiên phát. Chẩn đoán “phản
ứng mô tại chỗ bất lợi” đã khó, xử trí lại càng khó hơn.
Phẫu thuật viên phải hết sức cân nhắc trước một loạt
câu hỏi hóc búa: có nên tháo bỏ khớp nhân tạo hay
không? Nếu tháo bỏ thì sau đó có nên thay khớp nhân
tạo loại khác hay không? Bao giờ thì thay? Trường
hợp của chúng tôi, bệnh nhân được chọn giải pháp
lấy bỏ khớp nhân tạo và hàn khớp vì phẫu thuật viên
không muốn mạo hiểm trong việc đề nghị bệnh nhân
thay lại khớp gối nhân tạo mà xác suất bị tái diễn biến
chứng này có lẽ là rất cao. Đây chỉ là trường hợp bệnh
nhân đầu tiên chúng tôi ghi nhận được bị biến chứng
này, trong số 200 trường hợp thay khớp gối toàn phần,
chiếm tỉ lệ 0,5%. Theo chúng tôi nghĩ, trong tương lai
các phẫu thuật viên chấn thương chỉnh hình cần chú ý
nhận diện và ghi nhận lại biến chứng này,vì tuy đây là
một biến chứng hiếm gặp song chắc chắn nó sẽ gây ra
rất nhiều phiền toái và thất vọng cho cả bệnh nhân và
phẫu thuật viên. Hiện nay vấn đề điều trị đối với “phản
ứng mô tại chỗ” sau thay khớp toàn phần còn ở mức
độ rất hạn chế. Cần phải có nhiều nghiên cứu hơn nữa
để giúp chúng ta có thêm kinh nghiệm trong việc xử trí
biến chứng bất lợi này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
gia_u_do_manh_vat_lieu_mon_hay_phan_ung_mo_tai_cho_bat_loi_s.pdf