Dạng tài liệu: Bài trích kỷ yếu
Tác giả: Nguyễn Đức Thắng; Nguyễn Ngọc Châu; Trần Công Hùng
Nhan đề: Giải pháp đảm bảo chất lượng dịch vụ (Qos) cho mạng lõi
Nguồn trích: Tài liệu Hội nghị Khoa học lần thứ tám - Nhân dịp kỷ niệm 40 năm thành lập Viện Khoa học Kỹ thuật bưu điện - Tập đoàn bưu chính Viễn thông Việt Nam
Năm xuất bản: 2006
Số: 00
Trang: 390-395
Từ khoá: Thông tin di động; Mạng lõi; Dịch vụ tích hợp; Dịch vụ phân biệt; Chất lượng
Tóm tắt
8 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2089 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp đảm bảo chất lượng dịch vụ (QoS) cho mạng lõi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giải pháp đảm bảo chất lượng dịch vụ (QoS) cho mạng lõi
Nguyen Duc Thang (Posts & Telecommunications Institute of Technology, Viet Nam)
E-mail: duc_thang@ptithcm.edu.vn
Nguyen Ngoc Chan (Posts & Telecommunications Institute of Technology, Viet Nam)
E-mail: ngoc_chan@ptithcm.edu.vn
Tran Cong Hung Ph.D. (Posts & Telecommunications Institute of Technology, Viet Nam)
E-mail: conghung@ptithcm.edu.vn
Tóm tắt:
Trong vòng 30 năm trở lại đây, từ lúc
mạng IP ra đời, hệ thống mạng lõi đã vô cùng
phát triển với băng thông cung cấp cho người
dùng ngày càng lớn. Nhưng song song với đó,
rất nhiều dịch vụ cung cấp cho người dùng cũng
phát triển theo, yêu cầu chất lượng dịch vụ (QoS)
xa hơn là so với hệ thống mạng lõi có thể cung
cấp. Các giải pháp cả về phần cứng lẫn phần
mềm đã được đưa ra để giải quyết bài toán này
và sẽ được phân loại một cách hệ thống trong
bài báo này. Bài báo gồm các phần: 1. Giới
thiệu: Giới thiệu các hệ thống mạng lõi đảm bảo
dịch vụ QoS, 2.Dịch vụ tích hợp Intserv,đảm bảo
chất lượng dịch vụ bằng cách lưu thông tin của
luồng, 3. Dịch vụ phân biệt-Diffserv- đảm bảo
chất lượng dịch vụ không lưu thông tin của
luồng, 4.Trạng thái gói động-SCORE , 5. Router
thế hệ mới, định tuyến dựa trên luồng đảm bảo
chất lượng dịch vụ(QoS), 6. Kết luận
1. Giới thiệu
Kiến trúc mạng hiện nay thực hiện phân
phối gói theo dịch vụ tốt nhất, các router thiết kế
theo kiểu cũ tức là ngoại trừ lưu trữ bảng định
tuyến, router không lưu các thông tin về trạng
thái của luồng dữ liệu để hỗ trợ QoS. Trong khi
đó xu hướng mạng Internet ngày nay dần dần trở
thành mạng đa dịch vụ và phải đảm bảo dịch vụ
cho rất nhiều ứng dụng khác nhau như các ứng
dụng thời gian thực, Video, FTP, Web,… Mỗi
ứng dụng ứng với những người dùng khác nhau
sẽ đòi hỏi chất lượng dịch vụ QoS khác nhau.
Chất lượng dịch vụ QoS dùng để chỉ đến khả
năng của mạng trong việc cung cấp dịch vụ tốt
nhất cho mạng được chọn với những kỹ thuật
khác nhau, bao gồm FrameRelay, ATM,
MPLS… hoặc sử dụng tất cả các kỹ thuật trên.
Mục đích chính của việc đưa ra QoS là cung cấp
độ ưu tiên khác nhau về băng thông, jitter, độ trễ
hoặc tỉ lệ mất gói. Chất lượng dịch vụ QoS sẽ
được áp dụng cho một luồng từ nguồn tới đích
và sẽ đặt độ ưu tiên khác nhau cho các luồng đó.
Trong trường hợp mạng bị tắc nghẽn hoặc lỗi thì
tùy độ ưu tiên luồng nào sẽ được xử lý trước.
Với việc sử dụng hàng đợi, khi bị tắc nghẽn,
chúng ta sẽ hủy luồng có độ ưu tiên thấp trước
khi hủy luồng có độ ưu tiên cao. Với việc sử
dụng chính sách hay định khuôn chúng ta sẽ đảm
bảo độ ưu tiên bằng cách giảm thông lượng của
luồng khác…Để hiện thực QoS, các thành phần
cơ bản để đảm bảo QoS gồm: Thành phần QoS
định dạng và đánh dấu sử dụng cho việc đánh
dấu các gói từ đầu đến cuối khi đi qua giữa các
thành phần mạng, Thành phần QoS giữa các
thiết bị mạng như là hàng đợi, bộ lập lịch, định
khuôn lưu lượng, Thành phần quản lý, chính
sách QoS dùng để điều khiển và quản trị lưu
lượng từ đầu cuối đến đầu cuối xuyên suốt mạng.
Rất nhiều cơ chế cho QoS được đưa ra để đáp
ứng cho yêu cầu của người dùng và cũng để đặt
được hiệu quả sử dụng tài nguyên lớn nhất với
chi phí tối thiểu.[2]
Trong vấn đề đảm bảo QoS từ đầu cuối
đến đầu cuối, quan trọng nhất vẫn là vấn đề bảo
đảm QoS tại lớp mạng lõi, là lớp mạng có băng
thông rất lớn, và là đường đồng trục kết nối giữa
các thành phố, tỉnh hoặc các quốc gia. ATM đã
được thiết kế để giải quyết bài toán QoS trên
mạng lõi nhưng nó có nhược điểm là dùng hệ
thống phần mềm rất phức tạp để giải quyết vấn
đề thiết lập luồng, ATM không thể dùng được
với các kết nối với thời gian ngắn. Giá thành của
các thiết bị ATM lại vô cùng cao. Còn hầu hết
các giao thức khác trên mạng băng rộng đều
không thiết kế để hỗ trợ QoS ngay cả MPLS là
giao thức mới phát triển, thành phần chuyển giao
giữa nhiều giao thức mới của mạng băng rộng và
giao thức IP cũ nhưng MPLS vẫn không thực sự
hỗ trợ QoS.
Các giải pháp đưa ra cả về phần cứng
(thay đổi kiến trúc của các router truyền thống)
lẫn phần mềm (xây dựng các giao thức mới) đều
dựa trên thông tin về trạng thái của mạng. Thông
tin về trạng thái của mạng được dùng để chỉ một
tập các thông tin về các luồng dữ liệu, các dịch
vụ và việc sử dụng tài nguyên của chúng, và các
cơ chế lưu lượng để cung cấp dịch vụ. Thông tin
trạng thái của mạng có thể dựa trên từng luồng
hay dựa trên thông tin của tập các luồng. Các
thông tin trạng thái này khác nhau với các thành
phần khác nhau của mạng như tại các router biên
hoặc lõi. Một tác vụ quan trọng liên quan đến
thông tin trạng thái của mạng là phân loại gói.
Sử dụng một số quy luật định nghĩa độ ưu tiên
của gói (một luồng hay thông tin của tập các
luồng), việc phân loại gói bao gồm việc tìm ra
độ ưu tiên mà gói đó thuộc về. Thành phần của
mạng thực hiện việc phân loại, xác định trạng
thái mạng liên quan, và sau đó thực hiện các thao
tác khác như đưa vào hàng đợi, điều
khiển…Việc phân loại gói được thực hiện bởi
việc duyệt một hoặc nhiều trường tiêu đề và
kiểm tra dựa trên các quy luật cho luồng hoặc
tập các luồng. Thao tác kiểm tra có thể rất đơn
giản hoặc phức tạp.
Việc đưa ra định nghĩa về thông tin
trạng thái của mạng phía trên để đưa đến sự phân
biệt hai khuynh hướng phát triển mạng hiện nay
cung cấp dịch vụ QoS, đó là mạng lõi có lưu
trạng thái và mạng lõi không lưu trạng thái:
[3][4][5]
- Mạng lõi lưu trạng thái lưu thông tin
của mỗi luồng tại router biên và tại
lõi. Router biên và lõi sử dụng thông
tin về từng luồng để thực hiện các
thao tác về điều khiển lưu lượng trên
mỗi luồng. Tuy nhiên, một số tác vụ
sẽ phức tạp và không linh động khi
số lượng của luồng lớn do phải sử
dụng giao thức báo hiệu để thiết lập
tuyến đường và còn vấn đề phân loại
các gói tin rất phức tạp. Do đó giải
pháp này không hiệu quả với số
lượng luồng của mạng rất lớn.
- Mạng lõi không lưu trạng thái có lưu
trạng thái của mỗi luồng nhưng
không lưu thông tin tập trạng thái tại
lõi. Mỗi router biên sẽ phân loại mỗi
luồng thuộc vào tập nào và router lõi
chỉ việc áp dụng chính sách khác
nhau với mỗi tập. Với cơ chế này,
việc đáp ứng dịch vụ không tốt bằng
việc quản lý thông tin của từng
luồng nhưng cơ chế này đơn giản và
linh động, không cần thiết phải có
việc báo hiệu tại mỗi luồng và dùng
cơ chế phân loại đơn giản.
Dựa vào hai mô hình mạng trên, chúng
ta sẽ nghiên cứu các giải pháp đưa ra để
đảm bảo chất lượng dịch vụ QoS cho
mạng lõi lần lượt từ phần mềm đến giải
pháp phần cứng
2. Dịch vụ tích hợp-Intserv
Tổng quan của phương pháp này là cung
cấp mô hình dịch vụ cho Internet, liên quan tới
mô hình truyền thống dựa trên dịch vụ tốt nhất
và lớp Internet IP. Giải pháp này yêu cầu router
QoS phải lưu thông tin của tài nguyên còn lại
(dung lượng của liên kết, không gian bộ đệm,
khả năng tính toán của bộ chuyển tiếp…) sau
cấp phát cho một luồng. Để thực hiện được điều
này router phải xác định và lưu trữ thông tin của
luồng, và đòi hỏi có sự thay đổi trong mô hình
Internet( trạng thái mạng chỉ được lưu trữ ở đầu
cuối).
Hình 1: Kiến trúc Intserv
Mục đích của mô hình này là áp dụng
cho cả luồng từ nguồn cho tới đích, luồng này
yêu cầu phải được bảm bảo QoS. Trạng thái
được cấu hình động trong suốt quá trình thiết lập
tuyến đường. Cơ chế này đòi hỏi phải có cơ chế
điều khiển việc chấp nhận luồng và giao thức
báo hiệu (giao thức giành tài nguyên). 4 dịch vụ
được định nghĩa:
- Dịch vụ đảm bảo (GS) áp dụng cho
các dịch vụ với độ trễ của dịch vụ
được xác định trước.
- Dịch vụ đảm bảo điều khiển tải
(CLS) áp dụng cho các dịch vụ với
độ trễ của dịch vụ với đặc điểm
thống kê.
- Dịch vụ chia sẻ liên kết, là dịch vụ
phân cấp chia sẻ
- Dịch vụ hiệu quả tốt nhất.
Định nghĩa của các dịch vụ trên là độc
lập với cơ chế thiết lập tuyến đường. Thao khảo
về Intserv trong [RFC1633]. Intserv có 4 thành
phần, thành phần phân loại, lập lịch gói, điều
khiển việc chấp nhận luồng mới (3 thành phần
này cung cấp việc điều khiển lưu lượng) và giao
thức dành trước tài nguyên
- Thành phần phân loại phân loại các
gói của một luồng cho trước (hoặc
của một tập) để sử dụng bởi thành
phần lập lịch
- Thành phần lập lịch quản lý việc
chuyển tiếp các gói khác nhau sử
dụng hàng đợi và bộ định thời.
Thành phần điều kiện được thực
hiện tại biên của mạng và được xem
là một thành phần của bộ lập lịch
gói.
- Thành phần điều khiển việc chấp
nhận luồng thực thi các thuật toán
tại các router hoặc host để xác định
xem một luồng mới có được chấp
nhận hoặc không.Thành phần điều
khiển chấp nhận luồng thực hiện
chấp nhận/quyết định cục bộ, tại
thời điểm host yêu cầu dịch vụ dọc
theo tuyến đường. Thành phần này
không chỉ thực hiện việc quyết định
có hay không và nó còn thông báo
cho ứng dụng yêu cầu về QoS thấp
hơn có thể được đáp ứng.
Giao thức giành tài nguyên(RSVP)
Giao thức giành tài nguyên là giao thức được sử
dụng bởi Intserv được đề cập trong RFC2205,
việc sử dụng GS và CLS được mô tả trong
RFC2210. RSVP có thể mang dịch vụ yêu cầu
và đáp ứng tương ứng của thành phần chấp nhận
luồng từ máy tính tới router, từ router tới router
và từ router tới máy đích (hoặc nhiều một máy).
RSVP sử dụng 6 thông điệp, “Path” và “Resv”.
Thông điệp Resv mang tham số dịch vụ. Thông
điệp Path bắt đầu từ nguồn và được gửi tới đích.
Mục đích chính của nó là để router biết trên kết
nào sẽ chuyển tiếp thông điệp giành tài nguyên
(nó cũng bao gồm định nghĩa về đặc điểm lưu
lượng của luồng). Thông điệp Error được sử
dụng khi việc giành tài nguyên thất bại. RSVP
không phải là một giao thức định tuyến do đó nó
không cần xác định liên kết nào sẽ được dùng để
giành trước mà nó dựa vào các giao thức định
tuyến bên dưới để xác định tuyến đường cho một
luồng. Một khi tuyến đường được xác định,
RSVP bắt đầu thực hiện việc giành trước tài
nguyền. Trong suốt quá trình thiết lập để giành
tài nguyên, RSVP phải được thông qua mô đun
điều khiển về chính sách và mô đun quản lý về
việc chấp nhận tuyến đường. Mô đun điều khiển
về chính sách xác định xem người dùng có đủ
thẩm quyền để giành được nguồn tài nguyên hay
không. Thành phần chấp nhận tuyến đường xác
định xem nút đó có đủ tài nguyên để cung cấp
cho yêu cầu QoS hay không. Nếu cả hai bước
kiểm tra đều tốt, các tham số được thiết lập trong
bộ phân loại gói và trong bộ lập lịch để đạt được
QoS mong muốn. Tiến trình này được thực hiện
tại mọi router và máy tính dọc theo tuyến đường.
Nếu có xảy ra lỗi, thông điệp RSVP Error được
tạo và quảng bá cho mọi nút.
Một đặc điểm quan trọng của RSVP là
việc giành tài nguyên được thực hiện bởi “trạng
thái mềm”. Có nghĩa là trạng thái giành tài
nguyên có liên quan tới một bộ định thời, và khi
bộ định thời hết hạn, việc giành trước tài nguyên
được loại bỏ. Nếu nơi nhận muốn lưu lại trạng
thái giành tài nguyên nào, nó phải đều đặn gửi
các thông điệp giành tài nguyên. Nơi gởi cũng
phải thường xuyên gửi các thông điệp này.
RSVP được thiết kế dành cho kiến trúc Intserv
nhưng vai trò của nó cũng được mở rộng cho
giao thức báo hiệu trong MPLS
3. Dịch vụ phân biệt-Diffserv
Việc thực hiện kiến trúc như trên gặp
nhiều khó khăn do chỉ áp dụng được cho những
mạng có số các luồng dữ liệu là nhỏ. Mục đích
của việc đưa ra dịch vụ Diffserv để nhằm đạt
được tính linh động. Diffserv trái ngược với
Intserv là dựa trên từng luồng dữ liệu, nó phân
loại các gói thành một số lượng không lớn các
tập (gọi là các lớp) và do đó đạt được hiệu quả
cho các mạng lớn. Các chức năng đơn giản được
thực hiện tại router lõi, trong khi các chức năng
phức tạp được triển khai tại các router biên. Tính
linh động rất là cần thiết vì dịch vụ mới có thể
xuất hiện và một số dịch vụ trở lên lỗi thời. Do
đó Diffserv không cần thiết phải xác định dịch
vụ như là Inserv, thay vào đó, nó cung cấp các
thành phần chức năng mà trên đó dịch vụ có thể
được xây dựng. Một gói đi và mạng mà không
đề cập gì đến dịch vụ và mạng sẽ xác định luồng
và cung cấp dịch vụ thích hợp. Việc thông tin
giữa người dùng và dịch vụ sẽ nằm trongBản
Thỏa Thuận dịch vụ (SLA) và giàn xếp giữa một
luồng xác định trước với Bản Thỏa Thuận về
Lưu Lượng. Việc xác định SLA sẽ được cung
cấp bao nhiêu tài nguyên sẽ được cấu hình tay.
Kiến trúc Diffserv bao gồm hai tập các thành
phần chức năng:
- Tại biên của mạng, việc phân loại
và điều khiển lưu lượng được thực
hiện và các gói được phân vào các
lớp.
- Tại lõi, một cơ chế phân loại đơn
giản được thực hiện. Cơ chế hàng
đợi dựa trên lớp được áp dụng.
-
Hình 2: Kiến trúc Diffserv
Tại cạnh biên đi vào của mạng, các gói
đi vào được đánh dấu thông qua một quá trình
phân loại phức tạp (thông qua một số luật được
định nghĩa trước trong TCA). Việc đánh dấu bao
gồm thiết lập một vài bit còn được gọi là bit của
“Trường Phân Biệt Dịch Vụ” (trường DS) của
tiêu đề gói (của trường Type-Of-Service trong
IPv4). Đánh dấu của một gói cũng được gọi là
PHB (cách ứng xử tại mỗi nút). Trường DS được
dùng thay cho các các định nghĩa trước như ToS
(Loại dịch vụ trong IPv4) và trường Lớp lưu
lượng của IPv6. Trường DS là 6 bít cao nhất của
những trường trên và bao gồm thành phần đánh
dấu hay ( mã dịch vụ DS DSCP).
Trường DSCP sẽ mã hóa PHB và được
đưa vào gói. Sau khi được phân loại và đánh dấu,
thành phần quy định lưu lượng được áp dụng,
cũng tại biên của mạng. Chức năng đo cũng
được thực hiện để đo tính chất thời gian của
luồng được phân loại (hoặc thường là một tập)
và thông qua so sánh với profile lưu lượng được
thỏa thuận, xác định xem gói đó có thuộc profile
hay không. Nếu như:
- Gói đó nằm ngoài profile, gói đó
sẽ được đặt trong hàng đợi cho
đến khi nó nằm trong profile và
sau đó được chuyển tiếp, hoặc
chúng có thể bị hủy hay được
đánh dấu lại…
- Gói nằm trong profile được
chuyển tiếp mà không thay đổi
nhưng trong một vài trường hợp,
chúng có thể được đánh dấu lại
(nếu chúng đi vào một vùng
Diffserv sử dụng ánh xạ PHB và
DSCP khác)
Thiết bị đo lấy thông tin từ các thiết bị
phân loại và hoạt động dựa gần đúng trên các
thiết bị đánh dấu, hiệu chỉnh và hủy. Việc đánh
dấu gói trong hay ngoài profile, quyết định đánh
dấu, loại bỏ, đánh dấu lại… không được quy
định trong Diffserv, Diffserv chỉ cung cấp sườn
và kiến trúc để linh động cung cấp tập các dịch
vụ cho người dùng đầu cuối.
Chức năng chính của thành phần lõi là
áp dụng cơ chế hàng đợi để cung cấp PHB thỏa
thuận cho một lớp. Router thực hiện cơ chế phân
loại đơn giản thông qua trường DSCP, nó sau đó
được ánh xạ qua PHB. Ghi nhớ rằng PHB được
áp dụng dựa trên đánh dấu và không quan tâm
đến cặp nguồn/đích do đó có thể gọi Diffserv là
không trạng thái. PHB không liên quan tới bất
kỳ cơ chế nào về bộ đệm, hay chính sách áp
dụng cho một liên kết mà nó định nghĩa ứng xử
hoặc dịch vụ trên mỗi nút. Diffserv không định
nghĩa dịch vụ, chỉ có PHBs. Dịch vụ cung cấp
đầu cuối cho một luồng (hoặc một tập) là kết quả
của việc áp dụng điều khiển lưu lượng tại router
biên và PHBs qua các lớp trong lõi.
4. Trạng thái gói động-SCORE
(Dynamic Packet State)
Mục đích của mạng SCORE là kết hợp những
điểm mạnh của mạng có trạng thái và tính linh
động của mạng không trạng thái. Kiến trúc của
mạng SCORE tương tự như là Diffserv, chỉ có
router biên là thực hiện việc quản lý trạng thái
của luồng, còn router lõi thì không. Nhưng mạng
SCORE cũng mang tính chất của mạng có trạng
thái, bằng kỹ thuật Trạng Thái Gói Động (DPS).
Ý tưởng là thay vì việc router mang thông tin về
trạng thái của luồng, các gói sẽ mang thông tin
này.
- Router tại đầu vào khởi tạo trạng
thái trong tiêu đề của gói.
- Router biên xử lý mỗi gói dựa và
thông tin trạng thái được lưu trong
tiêu đề, cập nhật thêm thông tin
trạng thái của nó và chuyếp gói tin
đi tiếp.
DPS có thể sử dụng các thuật toán phân tán để
có được hoạt động gần đúng của các lớp băng
rộng của mạng và do đó router lõi không cần lưu
thông tin mạng. Các cơ chế DPS đã được xây
dựng:
- Dịch vụ cân bằng thông lượng
bằng cách sử dụng thuật toán
Core-Stateless Fair
- Queuing (CSFQ) để đánh giá hoạt
động của Hàng đợi cân bằng (Fair
Queue)
- DPS đảm bào dịch vụ trễ bằng
cách sử dung (CJVC), cung cấp
thông tin về giá trị trên của độ trễ
5. Router thế hệ mới
Các IP router không có khả năng hỗ trợ
QoS do chúng chỉ có thể quản lý thông tin của
các gói chứ không quản lý được thông tin của cả
luồng dữ liệu.Một luồng là một luồng các gói IP
có một nguồn, cổng xác định đi tới một cặp đích,
cổng khác và sử dụng cùng giao thức. Một luồng
đơn có thể là một luồng phim, âm thanh, tập tin
hoặc trong một lần truy cập trang Web. Mục
đích của việc thiết kế router thế hệ mới là phải
đảm bảo tốc độ, độ trễ, độ mất gói… cho một
luồng dữ liệu. Như chúng ta đã biết, giao thức IP
hiện nay đang được sử dụng rộng rãi trên toàn
thế giới và bản thân giao thức TCP/IP không hạn
chế QoS, tốc độ sửa lỗi hoặc khả năng linh động
trong chuyển mạch. Do đó, chúng ta không có lý
do nào để thay đổi lại toàn bộ giao thức TCP/IP
mà việc chính là thiết kế và xây dựng ra các
router thế hệ mới hỗ trợ QoS thông qua luồng. [1]
Hình 3: So sánh giữa cấu trúc router truyền thống và router thế hệ mới định tuyến theo
luồng
Để có thể xây dựng các router thế hệ mới định
tuyến thông qua luồng, chúng ta phải giải quyết
2 vấn đề:
- Làm sao để chúng ta có thể thiết
lập được thông tin trạng thái: Các
giao thức SS7, ATM và RSVP
thiết lập các tuyến đường bằng
phần mềm và tốc độ rất chậm,
không đáp ứng được cho các ứng
dụng thời gian thực. Giải pháp là
nắm giữ trạng thái thông qua gói
tin đầu tiên đi vào mạng. Việc này
có thể được thực hiện bằng phần
cứng với tốc độ của đường truyền
- Làm sao để có thể lưu thông tin
một cách kinh tế: trước đây, các
router thế hệ cũ sử dụng SDRAM,
giá thành rất mắc nên bộ nhớ lưu
trữ rất hạn chế, và chúng ta không
có đủ không gian để lưu trạng thái
của tất cả các luồng. Giải pháp là
chúng ta chuyển sang sử dụng
DRAM của máy tính với giá thành
rẻ hơn 75 lần. Để có thể tìm được
nhanh trạng thái một luồng, một
luồng được xác định bằng 5 yếu tố
(SA,DA,SP,SP,PR) và 5 yếu tố
này có thể được băm và tiến trình
xử lý có thể tiến hành bằng phần
cứng.
Như vậy, với hai giải pháp đưa ra trên,
chúng ta có thể thiết kế được router thế hệ mới
đáp ứng QoS dựa trên luồng. Chúng ta có thể
điểm qua sơ lược về cấu trúc của router thế hệ
mới. Để đảm bảo QoS, router này bao gồm các
môđun
- Thành phần phân loại lưu lượng: Kỹ
thuật xác định và đánh dấu được sử
dụng để cung cấp thứ tự ưu tiên về dịch
vụ cho lưu lượng giữa các thành phần
của mạng. Xác định lưu lượng và phân
nó và các lớp xác định, mỗi lớp liên kết
tương ứng với một mức độ của QoS.
Việc phân loại lưu lượng có thể theo
một trong hai cơ chế
a. Phân loại tĩnh: Loại QoS của
luồng được xác định dựa vào 5
thành phần (địa chỉ IP
nguồn,địa chỉ IP đích, ID của
giao thức, cổng của địa chỉ
nguồn, cổng của địa chỉ đích)
và mã Diffserv (DSCP)
b. Phân loại động: Phân loại lưu
lượng dựa vào hệ thống đo thời
gian thực với các tham số của
luồng như là số byte, thời gian
của luồng, kích thước của gói
và tốc độ trung bình. Việc này
được thực hiện bằng cách lưu
thông tin của luồng trong suốt
thời gian của luồng.
- Thành phần điều khiển lưu lượng: QoS
trong một thành phần mạng, đặc biệt là
thành phần quản lý bộ đệm cho hàng
đợi, lập lịch, chính sách và định khuôn
lưu lượng. Thành phần điều khiển lưu
lượng của router thế hệ mới khác với
các router thế hệ cũ ở chỗ
a. Các router này xử lý trạng thái
và các luồng dựa trên phần
cứng nên nó có thể xử lý hàng
triệu luồng trên một card.
b. Cơ chế quản lý lưu lượng và tài
nguyên cung cấp tốc độ đảm
bảo cho luồng IP
c. Do thông tin của luồng được
lưu lại, nên chúng ta có thể xây
dựng ứng dụng thông minh và
các dịch vụ thêm vào.
Quá trình xử lý một luồng bao gồm các bước:
- Duyệt: khi một gói đi vào card xử
lý, nó được kiểm tra xem đã thuộc
luồng nào đang được xử lý chưa.
- Tạo trạng thái: Nếu không có
thông tin nào về gói tồn tại, thông
tin về luồng được lấy ra từ gói đầu
tiên và thông tin trạng thái được
tạo và lưu trữ một cách cục bộ.
Thông tin về trạng thai bao gồm
thông tin chuyển tiếp được lấy từ
bảng FIB(bảng thông tin chuyển
tiếp) và QoS được phân
- Lập lịch: Ngoài thông tin chuyển
tiếp, thông tin về trạng thái bao
gồm loại lưu lượng, kích thước
của gói, và thời gian mà gói cuối
cùng được gửi
- Xử lý: Điều khiển và xử lý lưu
lượng sẽ kiểm tra mỗi luồng và
đánh dấu. Dựa trên kết quả đánh
dấu, gói đó bị hủy hay lập lịch để
gửi trực tiếp hay được gửi trong
tương lai. Nếu trong một khoảng
thời gian mà không có gói nào đến,
nếu vượt qua thời gian time-out,
luồng đó được coi là không hoạt
động và thông tin về luồng bị
ngưng kích hoạt và hủy sau một
khoảng thời gian time-out nữa.
6. Kết luận
Trong các phần trên đã nghiên cứu,
chúng ta đã xem xét về việc xây dựng các giao
thức mới để hỗ trợ QoS trên nền IP cũ để đưa ra
các giải pháp cung cấp QoS cho lớp mạng lõi.
Tuy nhiên, trong hai giải pháp đưa ra là giữa
mạng không trạng thái và mạng có lưu trạng thái,
mỗi mạng đều có nhiều nhược điểm khác nhau.
Mạng có trạng thái lưu trạng thái của mỗi luồng
trên rouer ở cả router biên và lõi. Trong mạng lõi,
việc router sử dụng thông tin về luồng sẽ cung
cấp dịch vụ tốt hơn và hiệu quả hơn. Tuy nhiên
phương pháp này gặp khó khăn khi số lượng
luồng lớn. Việc sử xứ để báo hiệu thiết lập một
truyến đường rất phức tạp nhất là thao tác phân
loại gói. Ở khía cạnh khác, mạng thông tin
không trạng thái lưu thông tin của một luồng tại
cạnh của mạng nhưng không có tại lõi. Mỗi
router biên phân phối mỗi luồng cho một hoặc
một tập các luồng và router biên chỉ việc phân
biệt giữa các tập đó. Với mạng không trạng thái,
mạng không cung cấp dịch vụ tốt nhất như trong
mạng lưu trạng thái nhưng nó đơn giản và linh
động hơn. Giao thức báo hiệu không cần sử
dụng và cơ chế phân loại đơn giản. Để giải
quyết mâu thuẫn trên, giải pháp trung hòa được
đưa ra, DPS tận dụng những ưu điểm của cả hai
giải pháp để đưa ra giải pháp tốt hơn cho vấn đề
đảm bảo QoS cho lớp mạng lõi. Một khuynh
hướng mới được đưa ra là việc phát triển các
router thế hệ mới hỗ trợ QoS dựa vào việc quản
lý thông tin của từng luồng dữ liệu. Ý tưởng này
cũng đã được đề cập từ lúc giao thức IP bắt đầu
phát triển từ mạng ARPANET vào năm 1969
nhưng những phát triển khoa học kỹ thuật lúc đó
chưa tạo đủ điều kiện để có thể lưu thông tin của
mỗi luồng dữ liệu trên mạng. Ngày nay, với sự
phát triển của việc thiết kết vi mạch, dung lượng
bộ nhớ được tăng lên nhiều lần, các card ASIC
với tốc độ xử lý hàng Gbs…Các router thế hệ
mới có khả năng đảm bảo chức năng QoS bắt
đầu được xây dựng, mở ra một kỷ nguyên mạng
IP mới- định tuyến dựa trên luồng.[2]
Tham khảo
[1] Dr.lawrence G.Roberts, “The next
Generation of IP-Flow routing”, Caspian
Network
[2] Lluís Fàbrega i Soler “A Proposal Of An
Admission Control Method For The
Assured Service In The Internet”, Thesis
November 2002
[3] Nicolla Chimilleli, “IP end to end QoS
Architecture”.
[4] Kolin Paul , “QoS management”, Dept of
Computer Science Univercity of Britol2000.
[5] Dr. Ehab S. Al-Shaer, “Computer
network”,2000.
TRẦN CÔNG HÙNG sinh năm 1961 tại Việt Nam
Nhận bằng Kỹ sư về Điện tử-Viễn thông tại Đại học Bách Khoa thành phố Hồ Chí Minh, Việt
Nam, năm 1987.
Nhận bằng Kỹ sư về Công Nghệ Thông Tin tại Đại học Bách Khoa thành phố Hồ Chí Minh, Việt
Nam, năm 1995.
Nhận bằng Thạc sĩ kỹ thuật tại Đại học Bách Khoa Hà Nội, Việt Nam, 1998
Nhận bằng Tiến sĩ kỹ thuật tại Đại học Bách Khoa Hà Nội, Việt Nam,2004.
Hướng nghiên cứu chính là phương pháp đo lường tham số hiệu suất B-ISDN, QoS trong mạng
tốc độ cao, MPLS. Hiện tại, đang là giảng viên, Phó khoa Công nghệ thông tin II và Trưởng bộ môn Mạng và
Truyền dữ liệu tại Học Viện Công Nghệ Bưu Chính Viễn Thông (PTIT), Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
NGUYỄN ĐỨC THẮNG sinh năm 1982 tại Việt Nam
Nhận bằng kỹ sư về Công nghệ thông tin tại PTIT, 2004 với tên đồ án tốt nghiệp “Nghiên cứu GIS
trên thiết bị di động và xử lý phân tán . Đạt giải nhất nghiên cứu khoa học 2003 với tên đề tài
“Nghiên cứu và áp dụng các thuật toán xử lý ảnh trong việc nhận dạng bản đồ giấy”. Các đề tài
nghiên cứu khoa học: Tìm giải pháp tối ưu cho quản lý hệ thống mạng phòng LAB, hiện thực hệ
điều hành xử lý theo lô gọi là MECURY OS. Hiện tại, đang là giảng viên khoa CNTT2, Học Viện
Công Nghệ Bưu Chính Viễn Thông (PTIT), Hồ Chí Minh, Việt Nam.
NGUYỄN NGỌC CHÂN sinh năm 1982 tại Việt Nam
Nhận bằng kỹ sư về Công nghệ thông tin tại PTIT, 2004. Hiện tại, đang là giảng viên khoa CNTT2, Học Viện Công
Nghệ Bưu Chính Viễn Thông (PTIT), Hồ Chí Minh, Việt Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- vnQoS_Tran cong Hung_Hoi nghi lan 8 HV_21.pdf