LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu.
Doanh nghiệp nhỏ và vừa đã và đang trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Với số lượng chiếm 96% tổng số doanh nghiệp trên cả nước, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp đáng kể vào Tổng thu nhập quốc dân, tạo công ăn việc làm, huy động các nguồn vốn trong nước cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giải quyết các vấn đề xã hội. Ngoài ra, trong quá trình vận hành, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã tạo ra một đội ngũ doanh nhân và công nhân, với kiến thức và tay nghề dần được hoàn thiện, đáp ứng được các yêu cầu mới trong cạnh tranh.
Đảng và Nhà nước ta đã coi phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam. Trong thời gian qua, với việc ra đời hàng loạt các Luật, Nghị định, Văn bản hướng dẫn đặc biệt là Luật doanh nghiệp 2005 và Luật đầu tư 2005 đã có tác động tích cực đến việc phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, tạo môi trường thông thoáng, bình đẳng cho các loại hình doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp phải không ít những khó khăn: thiếu vốn, trình độ công nghệ còn yếu, khó khăn trong việc gia nhập thị trường, phân biệt đối xử, cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp nước ngoài khi sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) Đặc biệt là tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới khiến cho các DNNVV càng gặp nhiều bất lợi trong hoạt động sản xuất. Yêu cầu đặt ra là cần phải có một cơ chế chính sách cụ thể để hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam phát triển, vượt qua khủng hoảng kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế. Do đó, em chọn đề tài “Giải pháp hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong điều kiện suy thoái kinh tế hiện nay, định hướng đến năm 2020”. Thực hiện đề tài nhằm thúc đẩy việc trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam một cách đồng bộ, thích ứng với xu thế hội nhập giữa các nước trong khu vực và trên thế giới.
2. Mục đích và nội dung nghiên cứu.
Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, kết hợp với kinh nghiệm hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa của các nước trên thế giới, qua đó đề xuất một số giải pháp trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn tới. Nội dụng của nghiên cứu như sau:
- Thứ nhất, tham khảo khái niệm về doanh nghiệp nhỏ và vừa của các quốc gia trên thế giới, qua đó tìm ra tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với Việt Nam. Tìm hiểu vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế. Phân tích kinh nghiệm hỗ trợ phát triển doanh nghiêp nhỏ và vừa trên thế giới. Trên cơ sở đó xây dựng các chính sách trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta.
- Thứ hai, Phân tích thực trạng các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam trong thời gian qua, chỉ ra được những điểm còn vướng mắc cân giải quyết trong thời gian tới.
- Thứ ba, Đề xuất một số giải pháp trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam để tăng cường năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa và thích ứng với yêu cầu hội nhập kinh tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu là toàn bộ các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu sử dụng đựơc vận dụng tổng hợp từ các phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, suy luân logic.
- Nguồn thông tin dữ liệu được lấy từ nhiều ngồn như từ các khảo sát về doanh nghiệp nhỏ và vừa, các báo cáo hàng năm về doanh nghiệp nhỏ và vừa, , bài viết của các nhà nghiên cứu, thông tin trên web, dữ liệu trên Tổng cục Thống kê và trên Cục Phát triển doanh nghiệp
5. Kết cấu của chuyên đề:
Ngoài lời mở đầu và kết luận, chuyên đề gồm có 3 phần như sau:
- Chương 1: Lý luận chung về doanh nghiệp nhỏ và vừa và hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Chương 2: Thực trạng các chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam trong thời gian qua.
- Chương 3: Các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam trong thời gian tới.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA VÀ HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA 4
1.1 Tổng quan chung về doanh nghiệp nhỏ và vừa. 4
1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa. 4
1.1.2 Đặc điểm của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 7
1.1.3 Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế. 8
1.2 Kinh nghiệm trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước. 9
1.2.1 Nhật Bản. 9
1.2.2 Hàn Quốc 12
1.2.3 Cộng hòa Liên Bang Đức. 13
1.2.4 Philippines, Indonexia và Thái Lan. 13
1.3 Một số bài học kinh nghiệm của nước ngoài về phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. 15
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM 20
2.1 Thực trạng doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2008. 20
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. 20
2.1.2 Số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian qua. 23
2.1.3 Cơ cấu của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. 24
2.1.3.1Cơ cấu theo quy mô lao động. 24
2.1.3.2 Cơ cấu theo quy mô vốn. 28
2.1.3.3 Cơ cấu theo hình thức pháp lý của doanh nghiệp. 31
2.1.3.4 Cơ cấu theo ngành nghề kinh doanh. 32
2.1.4 Phân bố của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. 34
2.2 Đánh giá vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế Việt Nam. 37
2.2.1 Doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp vào việc tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu. 37
2.2.2 Doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp một phần đáng kể vào ngân sách nhà nước. 38
2.2.3 Doanh nghiệp nhỏ và vừa giúp giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, các vấn đề xã hội. 38
2.2.4 Doanh nghiệp nhỏ và vừa góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 39
2.2.5 Doanh nghiệp nhỏ và vừa góp phần khôi phục, giữ gìn và phát triển các làng nghề thủ công truyền thống. 40
2.2.6 Doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào hình thành mối liên kết với các doanh nghiệp lớn. 40
2.3 Đánh giá thực trạng các chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. 41
2.3.1 Thực trạng chính sách hỗ trợ tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. 43
2.3.1.1 Vai trò của hỗ trợ tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. 43
2.3.1.2 Thực trạng tín dụng ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian qua. 45
2.3.1.3 Những cản trở trong việc hỗ trợ tín dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 49
2.3.1.4 Thực trạng về Quỹ bảo lãnh tín dụng. 50
2.3.2 Thực trạng chính sách đất đai và mặt bằng sản xuất đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 50
2.3.3 Thực trạng chính sách lao động và đào tạo lao động kỹ thuật cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 52
2.3.4 Thực trạng chính sách thuế đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 53
2.3.4.1 Những thuận lợi trong chính sách thuế đối với doanh nghiệp. 53
2.3.4.2 Những hạn chế của chính sách thuế đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 55
2.3.5 Thực trạng chính sách thương mại hỗ trợ phát triển doanh nghiêp nhỏ và vừa. 56
2.3.5.1 Chính sách hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu. 56
2.3.5.2 Chính sách thị trường hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. 57
2.4 Đánh giá những tiến bộ đạt được trong việc phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. 58
2.4.1 Những kết quả đạt được. 58
2.4.2 Những vấn đề tồn tại. 60
2.4.3 Nguyên nhân của những yếu kém trên. 62
2.4.3.1 Từ phía cơ quan quản lý nhà nước. 62
2.4.3.2 Từ phía các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 63
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ CÁC GIẢI PHÁP HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2015 64
3.1 Định hướng và mục tiêu phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. 64
3.1.1 Những yếu tố tác động tới sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, cơ hội và thách thức. 64
3.1.1.1 Tình hình quốc tế. 64
3.1.1.2 Tình hình trong nước. 64
3.1.1.3 Những thách thức đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian tới. 65
3.1.2 Định hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhà nước. 66
3.1.3 Mục tiệu phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. 67
3.2 Các nhóm giải pháp hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. 68
3.2.1 Tăng cường quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 68
3.2.2 Tăng cường khả năng tiếp cận vốn vay cho các doanh doanh nghiệp nhỏ và vừa. 70
3.2.2.1 Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 70
3.2.2.2 Đối với các ngân hàng 70
3.2.3 Đổi mới các chính sách về đất đai và mặt bằng kinh doanh cho doanh nghiệp. 71
3.2.4 Cải cách hệ thống thuế hỗ trợ các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. 72
3.2.5 Xúc tiến thương mại hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 72
3.2.6 Hỗ trợ các doanh nghiệp đào tạo lao động kỹ thuật, lãnh đạo. 73
76 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1959 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong điều kiện suy thoái kinh tế hiện nay, định hướng đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
làng nghề thủ công truyền thống.
Các làng nghề thủ công truyền thống tạo ra lượng sản phẩm hàng hóa đa dạng, phong phú về chủng loại với chất lượng, kỹ - mỹ thuật ngày càng cao, có khả năng cạnh tranh trên khu vực và thế giới, phát triển các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cho các thị trường có dung lượng nhỏ mà các doanh nghiệp lớn không quan tâm. Chính vì vậy các làng nghề này có tầm quan trọng trong việc tạo công ăn việc làm cho lao động nông thôn nhàn rỗi và xuất khẩu.
2.2.6 Doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia vào hình thành mối liên kết với các doanh nghiệp lớn.
Mối liên kết giữa các DNNVV và các doanh nghiệp lớn, kể cả các tập đoàn xuyên quốc gia đã được hình thành và phát triển trong thời gian qua. Các DNNVV liên kết với các doanh nghiệp lớn trong việc cung ứng nguyên vật liệu, thực hiện thầu phụ, dần hình thành mạng lưới công nghiệp bổ trợ và đặc biệt tạo ra mạng lưới vệ tinh phân phối sản phẩm. Có thể nói, đây là mối quan hệ hai chiều, ràng buộc lẫn nhau, các doanh nghiệp lớn đảm bảo vững chắc cho các DNNVV về thị trường, tài chính công nghệ, tiêu chuẩn kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý. Ngược lại, các DNNVV đảm bảo cho các doanh nghiệp lớn về công nghiệp bổ trợ, mạng lưới tiêu thụ rộng khắp cả nước.
Những kết quả và đóng góp tích cực của DNNVV đã nêu ở trên có nhiều nguyên nhân. Trước hết là do chính sách đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước, do tính tích cực sáng tạo và nhạy bén của các DNNVV; các chủ doanh nghiệp có tâm huyết, biết làm ăn. Sự đóng góp tích cực còn do ưu thế của bản thân DNNVV, được thể hiện ở một số đặc điểm sau:
- Việc thành lập doanh nghiệp đòi hỏi ít vốn, diện tích mặt bằng không nhiều, các điều kiện sản xuất đơn giản.
- Nhạy cảm với những thay đổi của thị trường.
- Dễ dàng thay đổi mặt hàng, thay đổi thiết bị công nghệ kỹ thuật.
- Quản lý đơn giản.
2.3 Đánh giá thực trạng các chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam.
Nhằm khuyến khích phát triển DNNVV thực hiện vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta, Chính phủ đã ban hành Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 về trợ giúp phát triển các DNNVV.
Theo Nghị định này, phát triển DNNVV là một nhiệm vụ quan trọng trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhà nước khuyến khích tạo thuận lợi cho DNNVV phát huy tính chủ động sáng tạo, nâng cao năng lực quản lý, phát triển khoa học – công nghệ và nguồn nhân lực, mở rộng các mối liên kết với các loại hình doanh nghiệp khác, tăng hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường; phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động.
Bên cạnh Nghị đinh 90, còn có rất nhiều các văn bản pháp quy hướng dẫn khác của Chính phủ nhằm trợ giúp các DNNVV như:
- Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg ngày 20-12-2001 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Quyết định số 115/2004/QĐ-TTg ngày 25-6-2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ban hành kèm theo Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg ngày 20-12-2001 của Thủ tướng Chính phủ.
- Thông tư số 42/2002/TT-BTC ngày 7-5-2002 của Bộ Tài Chính hướng dẫn một số điểm Quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ban hành kèm theo Quyết định số 193/2001/QĐ-TTg ngày 20-12-2001 của Thủ tướng Chính phủ.
- Thông tư số 09/2000/TT-BYT ngày 28-4-2000 của Bộ Y tế hướng dẫn chăm sóc sức khỏe người lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Quyết định số 12/2003/QĐ-TTg ngày 17-01-2003 của Thủ tướng Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, và thành viên của Hội đồng khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Chỉ thị số 27/2003/CT-TTg ngày 11-12-2003 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Luật Doanh nghiệp, khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Quyết định số 143/2004/QĐ-TTg ngày 10-8-2004 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2004-2008.
- Quyết định số 384/QĐ-TTg ngày 11-5-2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc thay đổi thành viên Hội đồng khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Chỉ thị số 40/2005/CT-TTg ngày 16-12-2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Thông tư số 01/2006/TT-NHNN ngày 20-02-2006 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn một số nội dung về góp vốn thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Thông tư sô 82/2006/TT-BTC ngày 13-9-2006 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính hướng dẫn thực hiện ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Quyết định sô 48/2006/QĐ-BTC ngày 14-9-2006 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính về ban hành chế độ kế toán doanh nghiepẹ nhỏ và vừa.
- Quyết định số 236/2006/QĐ-TTg ngày 23-10-2006 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa 5 năm (2006-2010).
2.3.1 Thực trạng chính sách hỗ trợ tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
2.3.1.1 Vai trò của hỗ trợ tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Một là, tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ hỗ trợ sự ra đời và phát triển của các DNNVV. Trong nền kinh tế thị trường, ai cũng muốn đồng vốn của mình phải sinh lời. Những người có vốn tạm thời nhàn rỗi sẵn sàng cho vay số tiền đó, những nhà doanh nghiệp vì mục đích sinh lời rất cần vay thêm vốn để mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, mua nguyên vật liệu, nhất là đối với các doanh nghiệp thiếu vốn. Để giải quyết mâu thuẫn đó, ngân hàng thông qua quan hệ tín dụng thu hút những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp và của các tầng lớp dân cư khác, mang lại cho nhà doanh nghiệp cần vay vốn. Hoạt động này tạo cơ hội cho các chủ doanh nghiệp muốn thành lập công ty hoặc mở rộng sản xuất – kinh doanh có thể vay vốn để thực hiện.
Hai là, tín dụng tác động vào xu hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất kinh doanh của các DNNVV. Hoạt động tín dụng góp phần đẩy mạnh các hoạt động đầu tư, thúc đẩy quá trình hình thành, phát triển và chuyển dịch cơ cấu của các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ba là, với tư cách cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, tín dụng ngân hàng trở thành động lực kích thích tổ chức kinh tế và dân cư trong các nước thực hiện tiết kiệm, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn. Mặt khác, tín dụng ngân hàng còn thu hút nguồn vốn nước ngoài dưới nhiều hình thức như: trực tiếp vay bằng tiền, bảo lãnh cho các doanh nghiệp mua thiết bị trả châm… Như vậy, nguồn vốn trong nước và nước ngoài đầu tư cho doanh nghiệp nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa chủ yếu được thu hút qua kênh tín dụng ngân hàng.
Bốn là, tín dụng ngân hàng với cơ chế hoạt động cơ bản là “vay để cho vay”; “vay có hoàn trả theo thời hạn quy định cả vốn và lãi”; nếu quá hạn phải chịu lãi suất cao đã thúc đẩy doanh nghiệp, trong đó có DNNVV, nâng cao hiệu quả kinh tế về sử dụng vốn.
Năm là, tín dụng ngân hàng góp phần tích cực hình thành đồng bộ hệ thống thị trường các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” cho các DNNVV. Các DNNVV có vốn lưu động rất ít song nhu cầu cần nhiều. Nguồn vốn để mua vật tư hàng hóa, dự trữ cho sản xuất kinh doanh (kể cả trong nước và nhập khẩu) hiện tại chủ yếu được bù đắp bằng vốn tín dụng. Mặt khác tín dụng ngân hàng cũng tác động mạnh mẽ vào việc tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp thông qua việc mở rộng tín dụng tiêu dùng; cho vay hoặc bảo lãnh để các tổ chức kinh tế, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực lưu thông qua mua bán hàng hóa. Tuy nhiên, ngân hàng chỉ tập trung cho vay những đối tượng hàng hóa có chất lượng cao, có sức cạnh tranh, qua đó thúc đẩy việc xác lập cơ cấu kinh tế mới theo hướng tiến lên hiện đại hóa.
Sáu là, tín dụng ngân hàng với công cụ lãi suất đã góp phần quan trọng thực hiện các quy hoạch, chương trình phát triển kinh tế của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, của từng địa phương, từng vùng, ngành kinh tế. Qua đó, góp phần tác động mạnh khuyến khích sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Hoặc việc xóa bỏ sự phân biệt lãi suất cho vay các doanh nghiệp quốc doanh, ngoài quốc doanh, đã góp phần thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển.
2.3.1.2 Thực trạng tín dụng ngân hàng hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian qua.
Thực hiện mục tiêu về trợ giúp phát triển các DNNVV theo các Nghị quyết của Đảng và chỉ đạo của Chính phủ, trong thời gian qua ngành ngân hàng đã có những chuyển biến tích cực trong việc đổi mới cơ chế chính sách tín dụng để tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, nhất là các DNNVV tiếp cận với vốn tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và khu vực.
Với chính sách mở rộng tín dụng cho khách hàng, dư nợ tín dụng của các ngân hàng tăng qua các năm (Bảng 12).
Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tháng 7/2008, dư nợ cho vay của nền kinh tế tăng 18,36% so với thời điểm cuối năm 2007. Theo báo cáo mới nhất từ 6 ngân hàng thương mại (NHTM)Nhà nước, 31 NHTM cổ phần, 33 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh cho biết, đến nay tổng số doanh nghiệp còn quan hệ tín dụng với ngân hàng là 163.673 doanh nghiệp, chiếm trên 50% tổng số DNNVV với tổng nguồn vốn kinh doanh là 482.092 tỷ đồng.
Trong 7 tháng đầu năm 2008, doanh số cho vay của các NHTM với DNNVV là 289.100 tỷ đồng. Trong đó, khối NHTM Nhà nước là 141.816 tỷ đồng chiếm 47,7% khối NHTM cổ phần là 139.837 tỷ đồng chiếm 47,07%, khối ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài là 7.446 tỷ đồng, chiếm 2,5%.
Bảng 12: Tổng dư nợ tín dụng ngân hàng giai đoạn 2005 – 2008.
Nguồn: Báo cáo Ngân hàng Nhà nước 2008.
Một số chính sách tín dụng của các ngân hàng dành cho các DNNVV có thể kể tới như sau:
- Đối với ngân hàng Công thương Việt Nam (Vietinbank) bên cạnh các sản phẩm truyền thống, Vietinbank đã có 8 sản phẩm tín dụng dành riêng cho khách hàng DNNVV cùng với hàng loạt các dịch vụ phi tài chính như đào tạo, tư vấn, giới thiệu và hỗ trợ khách hàng tham gia các hoạt động dành cho DNNVV. Hiện tại DNNVV chiếm khoảng 60% tổng số khách hàng của Vietinbank với số dư nợ tín dụng chiếm khoảng 50%. Ngân hàng Công thương Việt Nam là ngân hàng duy nhất được Bộ Tài Chính, Ngân hàng Nhà nước chỉ định tham gia ký Biên bản ghi nhớ (MOU) với các tổ chức tài chính APEC tài trợ DNNVV và được nhiều tổ chức quốc tế lựa chọn là đối tác thực hiện các chương trình dành cho DNNVV.
- Đối với ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (NN &PTNT VN) cũng xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa là nhóm khách hàng quan trọng cần được ưu tiên. Đến 31/08/2007 dư nợ cho vay DNNVV tại ngân hàng tăng gấp 20 lần so với năm 2001, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 100%. Dự kiến, đến năm 2010 tổng dư nơ cho vay đối với các DNNVV vào khoảng 35 %– 40%.
- Ngân hàng Hồng Kông – Thượng Hải (HSBC) với tiêu chí xếp loại doanh nghiệp có doanh thu dưới 10 triệu USD, có vốn từ 2 triệu USD trở xuống thì số lượng doanh nghiệp này chiếm 35 %– 40% trong tổng số khách hàng của HSBC.
- Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) đã công bố chương trình Hỗ trợ tính dụng cho DNNVV góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển bền vững và đảm bảo an sinh xã hội giai đoạn 2008 – 2010 như sau:
+ Về tín dụng, BIDV dành riêng nguồn vốn 33.000 tỷ đồng với lãi suất hợp lý để hỗ trợ cho chương trình tái cấu trúc nợ đối với DNNVV vượt qua khó khăn trong lạm phát cao. Theo lộ trình, năm 2008 là 3.000 tỷ đồng, 2009 là 10.000 tỷ đồng, năm 2010 là 20.000 tỷ đồng, chiếm 50% tổng dư nợ cho vay của BIDV.
+ Về dịch vụ, BIDV cung ứng các dịch vụ như tư vấn hỗ trợ lập dự án và thu xếp vốn, tư vấn phát hành trái phiếu, niêm yết chứng khoán,…, các dịch vụ trọn gói như tiền gửi, dịch vụ tài khoản, dịch vụ trả lương, các sản phẩm phái sinh,…
+ Về cấu trúc tài chính, BIDV tư vấn miễn phí cho các doanh nghiệp nhằm lành mạnh hóa tình hình tài chính, quản lý dòng tiền, tăng khả năng huy động vốn, hoặc giảm chi phí vốn cho doanh nghiệp.
+ Về cơ cấu nợ, bao gồm việc gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn nợ và cơ cấu nợ.
- Ngân hàng Kỹ Thương (Techcombank ) với khoản tài trợ 320 tỷ đồng từ IFC dành riêng cho việc cấp vốn cho các DNNVV Việt Nam, Techcombank đã mở rộng thêm các sản phẩm, dịch vụ mới, nhằm nâng cao hơn nữa khả năng hỗ trợ, cấp vốn cho các DNNVV, các DNNVV sẽ có dịp tiếp cận nguồn tài chính dễ dàng hơn.
- Ngân hàng TMCP Việt Nam (Vietcombank), tháng 9 năm 2008 cũng đã đẩy mạnh Chương trình cho vay DNNVV bằng việc dành thêm 3.000 tỷ đồng trong kế hoạch phát triển tín dụng năm 2008. Hiện tại cho vay đối với DNNVV chiếm 22% tổng danh mục cho vay của Vietcombank.
Tuy nhiên, theo nghiên cứu mới đây của Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam (VCCI) mức độ đáp ứng nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp của ngân hàng chỉ vào khoảng 30% - 40% (Bảng 13).
Bảng 13: Tỷ lệ vốn vay đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp.
Mức độ đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp
Tỷ lệ %
- Đúng nhu cầu
10,5
- Thỏa mãn ¾ nhu cầu
26,1
- Đáp ứng ½ nhu cầu
33,5
- Chỉ vay được ¼ nhu cầu
29,8
Nguồn: VCCI, 2008
Nguyên nhân của tình trạng trên có thể liệt kê là: Lãi suất cao, thiếu tài sản thế chấp, vướng mắc về thủ tục hành chính, khó khăn về lập phương án kinh doanh. Trong số các nguyên nhân kể trên, lãi suất cao chiếm tỷ lệ cao, khoảng 73,8%( Nguồn: VCCI, 2008). Doanh nghiệp phải hoạt động có lãi trên 20% mới đủ trả lãi vay ngân hàng đã là một vấn đề hết sức khó khăn chưa kể đến phần lợi nhuận đủ để trang trải các chi phí khác của doanh nghiệp.
2.3.1.3 Những cản trở trong việc hỗ trợ tín dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Theo cuôc điều tra gần đây của Cục Phát triển doanh nghiệp – Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ có trên 32% DNNVV có khả năng tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng (chủ yếu là NHTM), trong khi đó có hơn 35% số DNNVV khó tiếp cận và trên 32% số doanh nghiệp không có khả năng tiếp cận vốn ngân hàng. Nguyên nhân của tình trạng trên xuất phát từ các ngân hàng và từ chính các DNNVV.
2.3.1.3.1 Từ phía các ngân hàng.
- Trong thời gian trước đây, tỷ lệ lạm phát cao với chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, NHNN giới hạn tăng trưởng tín dụng của NHTM không quá 30% khiến các NHTM hạn chế cho vay hoặc cho vay câm chừng.
- NHNN bắt buộc các NHTM mua trái phiếu của Chính phủ với số tiền lớn khiến các NHTM khan hiếm nguồn tiền, đẩy lãi suất huy động lên cao, điều này dẫn đến lãi suất cho vay cũng tăng lên khiến các DNNVV không thể vay vốn.
- Cơ chế thế chấp, tín chấp áp dụng đối với các DNNVV còn hạn chế khiến các doanh nghiệp thường không đáp ứng được nhu cầu vay vốn.
2.3.1.3.2 Từ phía các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Các doanh nghiệp chưa có một hệ thống sổ sách, báo cáo tài chính rõ ràng, minh bạch khiến cho các ngân hàng có ít thông tin về doanh nghiệp nên rất khó khi cho vay.
- Các doanh nghiệp thường không có tài sản đảm bảo, về hình thức cho vay tín chấp thì hầu như là không thể vì đây là những doanh nghiệp nhỏ chưa tạo được thương hiệu, uy tín trên thị trường, hoạt động kinh doanh chưa ổn định.
- Các DNNVV chưa có kỹ năng lập dự án nên rất khó thuyết phục được ngân hàng.
2.3.1.4 Thực trạng về Quỹ bảo lãnh tín dụng.
Nghị định 90 và một số văn bản của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài Chính, Ngân hàng Nhà nước quy định việc thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng, nhưng đến nay chỉ có 9 tỉnh đang thí điểm hoạt động của các Quỹ Bảo lãnh tín dụng. Việc thành lập các Quỹ Bảo lãnh tín dụng còn một số bất cập trong quy định về góp vốn điều lệ, mức phí,… Hơn nữa các quỹ hoạt động không hiệu quả, nhiều địa phương còn sử dụng sai mục đích của Quỹ.
2.3.2 Thực trạng chính sách đất đai và mặt bằng sản xuất đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Đất đai là một vấn đề lớn và khó giải quyết đối với các cấp chính quyền, doanh nghiệp và toàn xã hội và là một trong những cản trở lớn nhất đối với đầu tư sản xuất – kinh doanh. Đât đai là nguồn tài nguyên quan trọng, có thể sử dụng làm tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng. Do đó, nếu không có khả năng tiếp cận đất đai với chi phí và thủ tục hợp lý, quyền sử dụng và quyền chuyển giao không được đảm bảo thì các DNNVV sẽ không thể tiếp cận được nguồn vốn vay ngân hàng phục vụ sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh.
Một thực trạng đang xảy ra ỏ Việt Nam là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đựoc giao đất và sử dụng không hiệu quả thì các DNNVV lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm mặt bằng kinh doanh bởi chi phí rất lớn. Ngay cả khi doanh nghiệp đã có mặt bằng sản xuất thì việc lo đủ các thủ tục cần thiết để được cấp giấy chứng quyền sử dụng đất để có thể thế chấp, cầm cố cũng đòi hỏi phải tốn nhiều công sức và tiền bạc. Theo khảo sát của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế trung ương và Tổ chức trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa CHLB Đức (GTZ), một doanh nghiệp Việt Nam phải mất trung bình 230 ngày và 7 thủ tục để có được giấy chứng quyền sử dụng đất. Doanh nghiệp thường sử dụng đất để sản xuất kinh doanh trong khi không có giấy chứng quyền sử dụng đất.
Tuy Chính phủ có quy định địa phương phải lập và công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, nhưng hiện nay các thông tin này thường không được công khai minh bạch, làm ảnh hưởng tới tâm lý ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, những thủ tục liên quan đến đất đai ở các địa phương còn rườm rà và chưa minh bạch, đặc biệt mỗi địa phương khác nhau lại có những quy định khác nhau, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc thuê đất để sản xuất kinh doanh.
Trên 53% DNNVV nước ta chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ và thương mại và hầu hết phải sử dụng diện tích nhà ở của mình, hoặc đi thuê lại các diện tích nhỏ lẻ để làm trụ sở, cơ sở kinh doanh. Các doanh nghiệp sản xuất phần lớn cũng trong tình cảnh tương tự. Cách này thường được các DNNVV sử dụng bởi vì thủ tục thuê đất trực tiếp của Nhà nước thường quá phức tạp và mất thời gian, mặc dù giá thuê thường là khá cao. Bên cạnh đó, cũng có không ít các DNNVV phải đi thuê lại mặt bằng của các DNNN, các tổ chức, các cơ quan nhà nước với giá cao nhưng lại không thể đầu tư dài hạn để sản xuất vì thiếu đảm bảo pháp lý.
Thời gian gần đây, nhiều địa phương đã tiến hành quy hoạch và xây dựng nhiều khu công nghiệp cụm công nghiệp nhỏ và vừa nhằm mục đích quy tụ các DNNVV vào sản xuất kinh doanh. Một số địa phương như Hà Nội, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Hải Dương, Nam Định, Thái Bình, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Dương, Đồng Nai và Thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng nhiều khu, cụm công nghiệp tạo thuận lợi cho các DNNVV có mặt bằng sản xuất và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thời gian qua, nhất là sau khi Luật Đất đai 2003 có hiệu lực, với các cơ chế chính sách mới được ban hành, các doanh nghiệp đã tạo được nhiều điều kiện hơn để tiếp cận đất đai, mặt bằng.
Theo khảo sát của Viện Nghiên cứu và Quản lý Kinh tế trung ương phối hợp với Cơ quan phát triển và trợ giúp quốc tế Đan Mạch (DANIDA) đối với các DNNVV (bao gồm cả hộ kinh doanh cá thể, các hợp tác xã) ở 10 tỉnh thành phố (Hà Nội, Phú Thọ, Hà Tây, Hải Phòng, Nghệ An, Quảng Nam, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Thành phố Hồ Chí Minh và Long An) tiến hành năm 2007 cho thấy, chỉ có khoảng 10% DNNVV trả lời còn gặp khó khăn về đất đai, mặt bằng sản xuất. Điều này cho thấy các chính sách về đất đai ở các địa phương đã được cải thiện đáng kể.
2.3.3 Thực trạng chính sách lao động và đào tạo lao động kỹ thuật cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Theo báo cáo Môi trường kinh doanh 2007, Việt Nam là một trong những nước có cải cách về chính sách lao động, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận được nguồn lao động và có chính sách hợp lý với người lao động. Điều này khiến cho các doanh nghiệp hoạt động tốt, thúc đẩy sản xuất.
Công tác giáo dục, đào tạo đã đạt được một số kết quả nhất định: Hệ thống các trường, cơ sở đào tạo đã được hình thành và phát triển không ngừng về số lượng và chất lượng; quy mô và số lượng học sinh được đào tạo ngày một tăng, tổ chức; chất lượng đào tạo đã từng bước được nâng lên, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tuy nhiên, chúng ta còn thiếu đội ngũ chuyên gia, giảng viên có kinh nghiệm về đào tạo doanh nghiệp, chương trình, phương pháp giảng dạy chậm được đổi mới, chủ yếu nặng về lý thuyết; máy móc thiết bị đào tạo cho trường dạy nghề còn thiếu và chậm đổi mới, chưa đáp ứng được nhu cầu. Sự liên kết giữa các doanh nghiệp và cơ sở đào tạo còn lỏng lẻo.
Mặc dù chất lượng đào tạo đã từng bước được nâng lên xong nhìn chung còn chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp. Nhu cầu về lao động có tay nghề và kỹ thuật cao của doanh nghiệp là rất lớn xong vẫn chưa thể đáp ứng. Nhiều doanh nghiệp đã phải giành thời gian và kinh phí để đào tạo lại lao động trước khi đưa vào sử dụng.
Mặc dù Nhà nước ngày càng quan tâm hơn đến các chương trình đào tạo ngồn nhân lực cho DNNVV nhưng do kinh phí thực hiện các chương trình này còn hạn chế, chất lượng và nội dung đào tạo chưa thật sự đáp ứng được nhu cầu; và bản thân DNNVV cũng chưa thật sự quan tâm và nhận thức đầy đủ của tầm quan trọng của việc đào tạo nâng cao năng lực quản trị cho doanh nghiệp, do đó chất lượng nguồn nhân lực của DNNVV còn bộc lộ nhiều hạn chế.
2.3.4 Thực trạng chính sách thuế đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
2.3.4.1 Những thuận lợi trong chính sách thuế đối với doanh nghiệp.
Trong những năm qua thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, chính sách thuế luôn là một trong những vấn đề trọng tâm. Một trong những đạo luật đầu tiên được ban hành và áp dụng khi chuyển xang cơ chế thị trường là các luật thuế. Hệ thống thuế có sự cải cách cơ bản, chuyển từ ba hệ thống cũ xang một hệ thống mới thống nhất cho tất cả các thành phần kinh tế.
Đến nay, chính sách thuế và hệ thống thuế đã được điều chỉnh sửa đổi, bổ sung nhiều lần cho phù hợp với sự thay đổi của nền kinh tế. Hệ thống thuế hiện hành gồm 9 sắc thuế cơ bản là:
- Thuế giá trị gia tăng.
- Thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp.
- Thuế tài nguyên.
- Thuế thu nhập.
- Thuế nhà đất.
- Thuế chuyển quyền sử dụng đất.
Bên cạnh đó còn có một số loại thuế mang tính lệ phí như: Lệ phí trước bạ, lệ phí giao thông, lệ phí sân bay, lệ phí chứng thư và các loại phí như: phí qua cầu, phí qua phà. Đồng thời, thuế cũng được sử dụng trong các luật khác như Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam làm công cụ khuyến khích một số đối tượng trong một số ngành nghề và ở một số địa bàn, vùng lãnh thổ.
Sự đầy đủ và hoàn chỉnh của hệ thống thuế có tác động rất lớn đến các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các DNNVV. Hệ thống thuế hoàn chỉnh tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc thực hiện các nghĩa vụ của mình; tạo sự an tâm cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
2.3.4.2 Những hạn chế của chính sách thuế đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Nhìn chung, hệ thống thuế và chính sách thuế mặc dù có nhiều cải cách nhằm hỗ trợ tốt hơn cho các DNNVV xong vẫn còn nhiều hạn chế như:
- Hệ thống chính sách thuế còn phức tạp do mỗi loại thuế còn nhiều mức thuế suất; nhiều trường hợp ưu đãi miễn giảm thuế cà thậm chí có một số loại thuế có cách tính thuế phức tạp. Tính phức tạp của hệ thống thuế còn biểu hiện ở chỗ có nhiều loại văn bản về một sắc thuế do nhiều cấp, ngành quy định, hướng dẫn nhiều khi gây lúng túng trong việc thực hiện thậm chí còn có những điểm gây mâu thuẫn, trái ngược gây tâm lý không tin tưởng đối với người nộp thuế. Sự phức tạp của chính sách thuế khiến cho các doanh nghiệp thường trốn thuế. Thủ tục xin miễn, giảm thuế và việc thẩm định rất phức tạp nên các doanh nghiệp thuộc diên được miễn giảm không mấy mặn mà cho lắm.
- Chính sách thuế chưa ổn định, thường xuyên thay đổi trong thời gian ngắn; lộ trình sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các chính sách thuế và thực hiện các cam kết quốc tế còn diễn ra chậm, khiến các doanh nghiệp chưa thực sự chủ động trong việc định hướng đầu tư kinh doanh.
- Chưa thực sự đảm bảo công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ thuế, biểu hiện là: mỗi sắc thuế vẫn còn nhiều mức thuế suất, điều kiện ưu đãi, miễn giảm thuế giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, giữa các DNNVV với các DNNN.
- Cơ chế thu thuế còn thiếu khoa học, không chặt chẽ, chưa đảm bảo đúng sự độc lập giữa người định thuế, người thu và người kiểm tra thuế, nên vẫn mang tính áp đặt thuế từ cơ quan nhà nước, khó kiểm tra lẫn nhau thiếu cơ chế kiểm soát việc tính thuế dẫn tới việc định thuế còn tùy tiện. Bộ máy quản lý thuế còn kém hiệu quả, một số cán bộ còn non kém về trình độ, nghiệp vụ khiến một phần thuế bị thất thoát.
2.3.5 Thực trạng chính sách thương mại hỗ trợ phát triển doanh nghiêp nhỏ và vừa.
2.3.5.1 Chính sách hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu.
Trong thời gian qua với nền kinh tế mở, thương mại của Việt Nam đã có sự thay đổi như đa dạng hóa sản phẩm và mặt hàng xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng tỷ lệ hàng xuất khẩu chế biến sâu, giảm tỷ lệ hàng xuất khẩu thô, khai thác tiềm năng sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng truyền thống và nỗ lực tìm kiếm những mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao. Tuy nhiên sản phẩm xuất khẩu của các DNNVV Việt Nam vẫn còn gặp nhiều hạn chế như sau:
- Sản phẩm của Việt Nam còn đơn điệu về mẫu mã và chủng loại. Nguyên nhân là do thiếu chính sách khuyến khích và chưa thực sự quan tâm đúng mức tới nghiên cứu cải tiến mẫu mã, thiết kế, chế tạo mẫu mới phù hợp thị hiếu, nhu cầu khách hàng. Hoạt động thiết kế mẫu mã đã có trong một số ngành như dệt may, gia dầy, thủ công mỹ nghệ, cơ khí xuất khẩu nhưng còn nhiều hạn chế. Nhiều DNNVV còn phải dựa vào mẫu do khách hàng gửi đến.
- Sản phẩm xuất khẩu dưới dạng thô và sơ chế vẫn chiếm tỷ lệ cao trong tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu trong khi lao động ở các DNNVV nhìn chung đang dư thừa nhiều. Xuất khẩu dạng thô không những có giá trị sản phẩm thấp mà còn làm nhanh chóng cạn kiệt nguồn tài nguyên.
- Trong mấy năm gần đây, tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa, việc đầu tư cho công nghiệp chế biến chưa tương xứng với tốc độ phát triển của những ngành sản xuất nguyên liệu, nhất là nguyên liệu chế biến hàng xuất khẩu. Thực tê cho thấy, xuất khẩu hàng thô và sơ chế thì vốn ít, dễ tìm thị trường, nhưng giá trị xuất khẩu thấp, còn xuất khẩu hàng đã qua chế biến thì giá trị cao nhưng lại khó kiếm thị trường.
- Chất lượng sản phẩm hàng hóa của DNNVV còn kém, lại không ổn định, rất khó cạnh tranh với hàng nước ngoài ngay cả trên thị trường trong nước chứ chưa nói đến thị trường nước ngoài.
Nhìn chung, các DNNVV Việt Nam vẫn còn ở trong tình trạng sản xuất manh mún, các sản phẩm chỉ dừng lại ở một vài loại, không có nhiều sản phẩm “độc đáo”. Nguyên nhân là do bản thân các DNNVV còn yếu kém trong năng lực sản xuất và Nhà nước thiếu hệ thống chính sách hỗ trợ nói chung và hỗ trợ thương mại nói riêng đối với doanh nghiệp này trong nền kinh tế.
2.3.5.2 Chính sách thị trường hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Trong mấy năm qua, chính sách thương mại của Việt Nam đã có nhiều tác động mạnh mẽ tới việc mở rộng thị trường nước ngoài, khai thông thị trường nội địa. Tuy nhiên, chính sách phát triển thị trường trong thời gian qua còn một số hạn chế gây không ít khó khăn trở ngại cho các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp có quy mô nhỏ.
2.3.5.2.1 Đối với thị trường nội địa.
Việc xác định hệ thống các kênh lưu thông từ sản xuất đến tiêu thị chưa thực hiện hiệu quả. Trong thời gian qua, khâu này yếu vẫn do tư thương làm nhiều mà doanh nghiệp thương mại tư nhân vẫn là loại hình quy mô nhỏ buôn bán kiểu “phi vụ” qua nhiều khâu trung gian. Điều đó dẫn đến tình trạng ép giá đầu vào, nâng giá đầu ra. Phần lớn các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh còn mang tính tự phát. Chưa có tổ chức, biện pháp hỗ trợ DNNVV trong nền kinh tế. Việc quản lý thị trường còn nhiều sơ hở, dẫn tới tình trạng hàng lậu tràn lan, hàng giả gia tăng, gây thiệt hại cho người tiêu dùng và người sản xuất.
2.3.5.2.2 Đối với thị trường nước ngoài.
Cac DNNVV rất thiếu thông tin về thị trường, khách hàng công nghệ, đối thủ cạnh tranh,… Một số doanh nghiệp chỉ có thông tin chắp vá, không có điều kiện kiểm tra. Vì vậy, các DNNVV thường chịu nhiều thua thiệt.
Nhà nước đã cố gắng thay nhiều biện pháp phi thuế quan bằng các chinh sách thuế quan hiệu quả hơn. Song việc sử dụng hạn ngạch nhập khẩu và giấy phép nhập khẩu còn được áp dụng tương đối nhều trong việc bảo hộ một số mặt hàng. Việc bảo hộ bằng hạn ngạch nhập khẩu có rất nhiều tác hại mà một trong những tác hại lớn do việc bảo hộ bằng hạn ngạch nhập khẩu gây ra tình trạng độc quyền khá nhiều dưới các hình thức khác nhau.
2.4 Đánh giá những tiến bộ đạt được trong việc phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam.
2.4.1 Những kết quả đạt được.
Thứ nhất, Khung pháp lý liên quan đến khâu đăng ký kinh doanh (ĐKKD) và gia nhập thị trường của DNNVV đã được rút ngắn. Hiện tại các DNNVV khởi sự kinh doanh dễ dàng hơn nhiều so với một vài năm trước đây. Thủ tục, thời gian và chi phí liên quan đến việc thành lập doanh nghiệp đã thật sự được cắt giảm. Kết quả dễ nhận thấy nhất đó là số lượng các doanh nghiệp thành lập mới trong những năm qua tăng mạnh mẽ (năm 2001 chỉ có 19.800 doanh nghiệp thành lập mới thì đến năm 2007 có 51.000 doanh nghiệp thành lập mới).
Kinh nghiệm quốc tế chỉ ra rằng số lượng DNNVV (tính trên 10.000 người dân) tỷ lệ nghịch với thời gian cần thiết để thành lập doanh nghiệp. Nếu thời gian để tiến hành ĐKKD giảm thì số lượng DNNVV sẽ tăng lên. Và một khu vực DNNVV lớn mạnh là điều kiện của một nền kinh tế hùng mạnh. Dựa vào những con số này, có thể thấy, việc ĐKKD dễ dàng hơn cũng là một nhân tố đảm bảo các DNNVV sẽ không tồn tại một cách phi chính thức hay trốn tránh các quy định cần thiết của pháp luật để đảm bảo hoạt động kinh doanh an toàn, và vì vậy đảm bảo việc các doanh nghiệp sẽ thực hiện nghĩa vụ thuế.
Thứ hai, Các DNNVV tiếp cận vốn dễ dàng hơn. Các ngân hàng hiện nay đã sẵn sàng hơn trong việc cho các DNNVV vay và tăng trưởng tín dụng ngân hàng đã tăng lên đáng kể. Các sản phẩm và dịch vụ tài chính cho DNNVV cũng tăng lên bao gồm hoạt động cho thuê tài chính và một vài hoạt động bao thanh toán bắt đầu được triển khai. Tiếp cận vốn là một nhân tố đầu vào quan trọng đối với hầu hết các doanh nghiệp, bao gồm cả DNNVV, và là một nhân tố chính yếu quyết định sự phát triển mạnh mẽ và bền vững của doanh nghiệp. Điều này không có nghĩa là việc tiếp cận tài chính hiện nay đối với các DNNVV đã trở nên phong phú vì thực tế hiếm có quốc gia nào trên thế giới đạt được điều này. Trong tương lai, các DNNVV sẽ cần tiếp cận nhiều hơn tới các cách thức huy động vốn dài hạn – ví dụ: huy động vốn cổ phần, hoặc các khoản vay dài hạn hơn – nhằm tạo nguồn ngân sách để đầu tư vào công nghệ mới, để các DNNVV Việt Nam tiến xa hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Thứ 3, Năng lực cạnh tranh của các DNNVV đã dần được cải thiện đáng kể. Năng lực cạnh tranh của các DNNVV ở Việt Nam vốn được coi là yếu, nhất là so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chương trình trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho các DNNVV giai đoạn 2004 – 2008 thực hiện theo Quyết định số 143/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ là một trong những chương trình mang lại hiệu quả tích cực cho DNNVV. Chính phủ đã giành 119 tỷ đồng từ ngân sách Trung ương cho Chương trình này để trợ giúp đào tạo về khởi sự doanh nghiệp, quản trị doanh nghiệp và đào tạo nâng cao năng lực của giảng viên. Vài năm gần đây, ngân sách Trung ương của Chương trình tập trung bố trí cho 20 tỉnh miền núi, Tây Nguyên có khó khăn nhằm gia tăng số lượng, chất lượng của khu vực DNNVV ở các vùng khó khăn, đồng bào dân tộc. Nhận thức được vai trò ngày càng quan trọng của DNNVV, hầu hết các địa phương đều bố trí một phần ngần sách để trợ giúp các DNNVV trên địa bàn. Một số tổ chức quốc tế, các dự án trong và ngoài nước triển khai thực hiện tại các địa phương cũng giành một phần kinh phí để đào tạo nâng cao năng lực cạnh tranh cho DNNVV.
Thứ tư, Việc tạo dựng văn hóa kinh doanh cũng đã đạt được một số thành tựu mặc dù để thay đổi quan niệm về văn hóa và xã hội trong ngắn hạn là rất khó. Các doanh nhân hiên nay đã được xã hội coi trọng hơn, và đề tài doanh nghiệp đã và đang được giới thiệu ở nhiều chương trình phù hợp.
Thứ năm, Gánh nặng trong thanh tra và kiểm tra tại các DNNVV đã được giảm nhẹ tại các DNNVV. Các chi phí nhằm tuân thủ các quy định là rất lớn ở các DNNVV khi các nhà quản lý phải dành một phần đáng kể thời gian của họ cho các đợt thanh tra, kiểm tra khác nhau, đặc biệt nếu các đợt thanh tra này không thực hiên với tần suất hợp lý, hay nói cách khác là không cần thiết.
2.4.2 Những vấn đề tồn tại.
Mặc dù Luật phá sản năm 2004 đã được ban hành, song còn nhiều tồn tại liện quan đến việc đóng cửa và phá sản doanh nghiệp. Một thực tế là có rất nhiều doanh nghiệp đăng ký thành lập nhưng cuối cùng không thể tồn tại và đóng cửa vì nhiều lý do khác nhau. Điều này là một phần vòng đời tự nhiên của doanh nghiệp. Khi các doanh nghiệp đóng cửa một cách chính thức, điều quan trọng là tài sản của các doanh nghiệp phải được tái sử dụng một cách có hiệu quả, để các doanh nghiệp khác có thể khai thác một cách triệt để. Tuy nhiên, ở Việt Nam các doanh nghiệp đóng cửa một cách chính thức tương đối hiếm. Thay vào đó, phần lớn các DNNVV đi vào trạng thái tạm ngừng hoạt động thay vì thực hiện các thủ tục cần thiết để giải thể doanh nghiệp. Mặt khác, các Sở Kế hoạch và Đầu tư của các tỉnh chỉ có số liệu về các doanh nghiệp đăng ký thành lập mới chứ chưa có số liệu về các doanh nghiệp ngừng hoạt động.
Các chính sách thuế đối với các DNNVV còn phức tạp, thời gian để tuân thủ các quy định về thuế vẫn còn khá nhiều so với các tiêu chuẩn trong khu vực.
Các DNNVV vẫn còn khó khăn trong việc tiếp cận đất đai, bởi nguồn lực khan hiếm trong điều kiện quốc gia đông dân số như Việt Nam. Các thủ tục về quyền sử dụng đất vẫn là một vướng mắc của doanh nghiệp, điều này gây cản trở doanh nghiệp trong việc tiếp cận nguồn vốn vay từ các ngân hàng.
Phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng nghề nghiệp đối với các DNNVV là một mục tiêu dài hạn phải có thời gian để đạt được quy mô đề ra. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhận thấy rằng chất lượng đào tạo nghề đã dần tăng lên.
Tiêu chí xác định DNNVV chưa rõ ràng. Tiêu chí xác định DNNVV trong Nghị định 90 có ưu điểm là đơn giản, dễ sử dụng song lại bộc lộ những hạn chế là: Vốn đăng ký (vốn điều lệ) chỉ là căn cứ ban đầu để xác định trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp, các nhà đầu tư với nhau và với bên thứ ba. Còn quy mô của doanh nghiệp được xác định thông qua chỉ tiêu vốn đầu tư thực hiện (bao gồm vốn cố định, vốn lưu động). Hơn nữa, trong quá trình hoạt động, vốn của doanh nghiệp, nhất là vốn lưu động thường xuyên thay đổi tùy theo yêu cầu sản xuất - kinh doanh, nên tiêu chí vốn đăng ký (vốn điều lệ) không phản ánh thực chất quy mô doanh nghiệp. Tiêu chí về vốn cũng không phân biệt các ngành nghề mặc dù giữa các ngành có sự khác nhau.
2.4.3 Nguyên nhân của những yếu kém trên.
2.4.3.1 Từ phía cơ quan quản lý nhà nước.
- Về mặt nhận thức: mặc dù Đảng và Nhà nước đã khẳng định chính sách nhất quán phát triển kinh tế nhiều thành phần, nhưng trong quá trình thực hiện vẫn còn một số phân biệt giữa các DNNVV với các DNNN.
- Về thể chế chính sách: Hệ thống pháp luật và môi trường kinh doanh đang được xây dựng để phù hợp với hòan cảnh mới, phù hợp với xu thế hội nhập quốc tế và khu vực. Tuy nhiên, các chính sách còn chưa ổn định, chồng chéo, thiếu rõ ràng, tính hiệu lực chưa cao làm cho các DNNVV gặp nhiều khó khăn khi tìm hiểu, vận dụng và chấp hành. Cải cách hành chính diễn ra chậm khiến doanh nghiệp mất rất nhiều thời gian và tiền bạc.
- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp chính quyền từ Trung ương tới địa phương đối với việc khuyến khích và tạo điều kiện để phát triển DNNVV còn nhiều hạn chế. Đội ngũ cán bộ công chức thực hiện nhiêm vụ còn thiếu và yếu, nhất là đối với các cơ quan cấp huyện, xã, một số cán bộ còn sách nhiễu, gây phiền hà cho doanh nghiệp. Ở một số khâu, bộ máy còn xảy ra tình trạng thiếu các phương tiện làm việc, dẫn đến sự quá tải, chậm chễ trong việc giải quyết những vướng mắc của doanh nghiệp.
- Nhà nước vẫn dồn một số lượng lớn vốn đầu tư vào các DNNV trong khi các DNNVV được rất hạn chế. Quỹ bảo lãnh tín dụng được vận hành kém, không hiệu quả.
- Công tác quản lý doanh nghiệp sau khi đăng ký kinh doanh còn nhiều hạn chế, thường xuyên không thống kê được tình hình hoạt động của doanh nghiệp, số các doanh nghiệp ngưng hoạt đông và giải thể.
2.4.3.2 Từ phía các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Phần lớn các DNNVV chưa chủ động xây dựng chiến lược phát triển lâu dài và còn thiếu kế hoạch kinh doanh, đào tạo, quản lý cụ thể.
- Các DNNVV còn lúng túng trong viêc liên kết, nhất là liên kết trong cùng một ngành nghề để cùng nhau phát triển. Hoạt động của một số các Hiệp hội DNNVV còn thiếu hiệu quả, chưa đáp ứng được nhu cầu.
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ CÁC GIẢI PHÁP HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2015
3.1 Định hướng và mục tiêu phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
3.1.1 Những yếu tố tác động tới sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, cơ hội và thách thức.
3.1.1.1 Tình hình quốc tế.
Kinh tế thế giới trong hai năm trở lại đây đang ở trong tình hình khủng hoảng nặng nề. Tất cả các nước đang gặp phải rất nhiều khó khăn trong việc thoát ra khỏi khủng hoảng. Viễn cảnh nền kinh tế thế giới còn ảm đạm trong thời gian tới. Tuy nhiên, theo đánh giá chung thì nền kinh tế thế giới sẽ dần được phục hồi và phát triển, sẽ mang lại những cơ hội và thách thức mới.
Quá trình hội nhập toàn cầu và khu vực nhất là sau khi Việt Nam đã gia nhập WTO dẫn đến việc xuất hiện nhanh chóng các cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu cũng như các thách thức trong cạnh tranh quốc tế đối với sự phát triển của công đồng doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các DNNVV nói riêng.
Các thành tựu khoa học và công nghệ thế giới không ngừng được phát minh và đưa vào thực tế sản xuất tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đẩy mạnh cải tiến công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh.
3.1.1.2 Tình hình trong nước.
Nước ta được thế giới đánh giá cao về sự ổn định cao về kinh tế - xã hội; nền kinh tế thị trường bước đầu được hình thành và vận hành có hiệu quả.
Chủ trương nhất quán của Đảng và Chính phủ trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng được phát triển bình đẳng, cam kết tạo điều kiện mạnh phát triển khu vực kinh tế tư nhân.
Năng lực và trình độ sản xuất của nhiều ngành kinh tế đã tăng lên đáng kể; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực; chất lượng tăng trưởng trong nhiều ngành, lĩnh vực đã có những cải thiện; các doanh nghiệp và toàn nền kinh tế đã bắt đầu thích nghi với hội nhập.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài liên tục tăng trong các năm qua, một số tập đoàn xuyên quốc gia đã có mặt tại Việt Nam, đây là một trong những yếu tố kích thích phát triển doanh nghiệp trong nước thông qua tiếp quản kinh nghiệm quản lý, chuyển giao công nghệ,…
3.1.1.3 Những thách thức đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian tới.
Tuy đã đạt được một số thành tựu trong việc phát triển kinh tế xong thực tế xuất phát điểm của Việt Nam còn thấp, hệ thống kết cấu hạ tâng (đường xá, thông tin liên lạc, điện nước..) còn thiếu và yếu; mặt bằng sản xuất kinh doanh còn nhỏ bé lại xen lẫn các khu dân cư dẫn đến khó cung cấp các tiện ích công cộng và cải thiện môi trường, cải thiện điều kiện sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm.
Khung pháp lý hỗ trợ đối với các DNNVV đã có xong vẫn chưa hoàn thiện, chưa được xây dựng một cách đẩy đủ. Các văn bản còn nhiều mâu thuẫn nhau, có khi mâu thuẫn giữa luật và các văn bản dưới luật.
Thị trường nội địa kém phát triển và chưa hoàn chỉnh, tuy nhu cầu của dân cư là rất lớn, nhưng thu nhập hiện nay lại chưa cao nên các doanh nghiệp có ít cơ hội để đầu tư phát triển.
Thiếu sân chơi bình đẳng cho các DNNVV phát triển, điều này thể hiện ở điểm Nhà nước vẫn giành nhiều ưu đãi hơn đối với các DNNN, gây tâm lý đối với các chủ doanh nghiệp.
Hội nhập quốc tế khiến các doanh nghiệp phải chịu nhiều cạnh tranh hơn. Nhưng so sánh với các doanh nghiệp quốc tế thì DNNVV của Việt Nam thua thiệt về mọi mặt, khiến cho họ khó lòng cạnh tranh nếu như không có một cơ chế hỗ trợ kịp thời.
Cải cách hành chính nhà nước diễn ra chậm, thiếu kiên quyết, bộ máy hành chính nặng nề hoạt động kém hiệu quả khiến các doanh nghiệp gặp nhiêu khó khăn khi giải quyết các vấn đề liên quan.
3.1.2 Định hướng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhà nước.
Theo Quyết định số 236/2006/QĐ-TTg ngày 23/10/2006 phê duyệt kế hoạch phát triển DNNVV 5 năm 2006 – 2010, quan điểm của Nhà nước ta về phát triển DNNVV như sau:
- Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
- Nhà nước tạo môi trường về pháp luật và các cơ chế, chính sách thuận lợi cho DNNVV thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh nhằm huy động mọi nguồn lực trong nước kết hợp với nguồn lực từ bên ngoài cho đầu tư phát triển.
- Phát triển DNNVV theo phương châm tích cực, vững chắc, nâng cao chất lượng, phát triển về số lượng, đạt hiệu quả kinh tế, góp phần tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Phát triển DNNVV gắn với các mục tiêu quốc gia, các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với điều kiện từng vùng, từng địa phương, khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn, làng nghề truyền thống. Chú trọng phát triển DNNVV ở cá c vùng xâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, ưu tiên phát triển các DNNVV do đồng bào dân tộc, phụ nữ, người tàn tật, … làm chủ doanh nghiệp. Chú trọng phát triển DNNVV đầu tư sản xuất một số lĩnh vực có khả năng cạnh tranh cao.
- Hoạt động hỗ trợ của Nhà nước chuyển dần từ hỗ trợ trực tiếp xang hỗ trợ gián tiếp để nâng cao năng lực cho các DNNVV.
- Gắn hoạt động kinh doanh với bảo vệ môi trường, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội.
- Tăng cường nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền về vị trí, vai trò của DNNVV trong phát triển kinh tế - xã hội.
3.1.3 Mục tiệu phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
- Số doanh nghiệp thành lập mới khoảng 320.000 (hàng năm tăng khoảng 20%).
- Tỷ lệ doanh nghiệp mới thành lập tại các tỉnh khó khăn là 15% đến năm 2010.
- Tỷ lệ trực tiếp tham gia xuất khẩu đạt từ 3% - 6% trong tổng số các DNNVV.
- Tạo thêm 2,7 triệu chỗ làm mới trong giai đoạn 2006 – 2010.
- Có thêm 165.000 lao động kỹ thuật làm việc tại các DNNVV.
3.2 Các nhóm giải pháp hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
3.2.1 Tăng cường quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Từ nhận thức, quản lý của Nhà nước là sự tác động của Nhà nước vào toàn bộ hoạt động của nền kinh tế quốc dân nói chung, doanh nghiệp nói riêng, bằng hệ thống luật pháp, chính sách tổ chức, các chế tài về kinh tế - tài chính và các công cụ quản lý để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với nền kinh tê nhằm thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, ổn định kinh tế - chính trị - xã hội đất nước. Ở mỗi quốc gia nền kinh tế thị trường có sự giông nhau là đều chịu sự tác động và chi phối của các quy luật kinh tế và các quy luật đặc thù của xã hội đó. Nhà nước nhận thức, vận dụng các quy luật đố vào quản lý điều hành nền kinh tế bằng hệ thống pháp luật, chính sách, cơ chế tổ chức thực hiện. Tùy bản chất kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và trình độ khác nhau về sự nhận thức, vận dụng các quy luật kinh tế của Nhà nước mà nền kinh tế của nước đó phát huy hiệu lực và hiệu quả khác nhau. Song cũng có sự khác nhau cơ bản xuất phát từ bản chất của mỗi quốc gia.
Như vậy, việc vận hành cơ chế quản lý nhà nước ở nước ta đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và DNNVV nói riêng, không nằm ngoài những chính sách và cơ chế quản lý phải:
- Một là, khuyến khích được những nhân tố tích cực trong đội ngũ doanh nhân nước ta – lực lượng chủ yếu làm giàu cho dân, cho nước.
- Hai là, phát hiện, hạn chế những mặt sai trái của cơ chế thị trường, kịp thời phát hiện và sử lý những hành vi, vi phạm pháp luật, gây nên những tiêu cực tổn hại cho nền kinh tế.
Căn cứ vào thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay, yêu cầu đặt ra trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với DNNVV là:
- Thứ nhất, tập trung sức để phát triển mạnh và xã hội hóa lực lượng sản xuất, từng bước chuyển nền kinh tế nước ta từ kém hiệu quả phát triển lên phát triển ổn định vững chắc theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Thứ hai, tập trung xây dựng nội lực trong xu hướng hội nhập. Đây là tiền đề và là điều kiện để quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chu nghĩa.
Nội dụng tăng cường quản lý nhà nước.
Xây dựng chiến lược phát triển các DNNVV ở Việt Nam trong từng thời kỳ, gắn chặt với các quy hoạch tổng thể và quy hoạch cụ thể về phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung, từng ngành, từng địa phương, từng lĩnh vực nói riêng.
Tiếp tục xây dựng và ban hành các chính sách hỗ trợ DNNVV phù hợp với tình hình kinh tế mới và định hướng mục tiêu phát triển.
Hòan thiện một số chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn hiện nay cho DNNVV : vốn, mặt bằng kinh doanh, thuế.
Xây dựng, ban hành, hướng dẫn và thực hiện các quy chế liên kết giữa DNNVV và các doanh nghiệp lớn, giữa các DNNVV với nhau để nâng cao tính cộng đồng, bảo vệ lợi ích quốc gia và lợi ích của chính các doanh nghiệp.
Xây dựng cơ chế chính sách để theo dõi, nắm bắt tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để kịp thời chỉ đạo hướng dẫn các doanh nghiệp trong lúc khó khăn.
3.2.2 Tăng cường khả năng tiếp cận vốn vay cho các doanh doanh nghiệp nhỏ và vừa.
3.2.2.1 Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Các DNNVV phải xây dựng phương án sản xuât kinh doanh mang tính khả thi cao làm cơ sở vay vồn, nội dung của phương án tập trung vào các vấn đề:
Mục tiêu cần đạt được.
Dự tính được kết quả kinh doanh.
Khả năng tiếp cận vốn.
Khả năng hòan trả vốn.
Phan tích tài chính kinh tế (dự toán tổng kinh phí đầu tư, chí phí tài sản cố định, vốn lưu động).
Tổ chức quản lý sản xuất, lao động, đào tạo.
Dự trù cần đối thu chi và kế hoạch vay trả ngân hàng.
3.2.2.2 Đối với các ngân hàng
Cơ chế thế chấp, tín chấp cần có sự đổi mới, chỉnh sửa pháp lệnh về đăng ký giao dịch đảm bảo. Ngân hàng có thể áp dụng hình thức đảm bảo bằng các khoản phải thu của doanh nghiệp chỉ cần doanh nghiệp cam kết thu tiền hàng qua hình thức chuyển khoản vào tài khoản của doanh nghiệp mở tại ngân hàng. Ngân hàng có thể thu nợ bằng cách trích trừ vào tại khoản của doanh nghiệp.
Một số doanh nghiệp do thiếu thông tin nên chưa am hiểu các điều kiện và thủ tục vay của ngân hàng. Vì vậy, các ngân hàng phải mở rộng thông tin, hướng dẫn thủ tục cho doanh nghiệp trên các phương tiện truyền thông hoặc qua các cuộc hội thảo,…
Trợ giúp các doanh nghiệp trong khâu lập dự án kinh doanh.
Nghiên cứu, tạo ra các sản phẩm dịch vụ cho vay ưu đãi hơn đối với các DNNVV.
3.2.3 Đổi mới các chính sách về đất đai và mặt bằng kinh doanh cho doanh nghiệp.
Yêu cầu đổi mới chính sách đất đai đối với DNNVV nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, đồng thời phải thúc đẩy quá trình vận động và sinh lời của đất đai, mặt khác phải đảm bảo giữ gìn kỷ cương, pháp luật. Để hỗ trợ các DNNVV, việc hoàn thiện chính sách đất đai phải thực hiện một số vấn đề sau:
- Nhà nước đứng ra thiết lập một thị trường bất động sản (trong đó có chuyển nhượng quyền sử dụng đất đai). Cho phép các đối tượng sử dụng đất đai được chủ động sử dụng theo cơ chế thị trường và pháp luật quy định. Thiết lập một khung giá đất chung phù hợp với cơ chế thị trường.
- Ban hành các văn bản dưới luật không được gây sự khó hiểu, không chồng chéo và mâu thuẫn nhau.
- Thúc đẩy cải cách thủ tục, rút ngắn thời gian cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài cho doanh nghiệp.
- Xúc tiến xây dựng các quy hoạch tổng thể phát triển từng địa phương để từ đó có căn cứ cho các DNNVV đầu tư phát triển.
3.2.4 Cải cách hệ thống thuế hỗ trợ các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh.
Xây dựng hệ thống thuế hòan chỉnh phù hợp với các cam kết hội nhập trong khu vực và trên thế giới.
Đảm bảo việc xây dựng các chính sách thuế phải thực tiễn, đảm bảo tính khả thi, đặc biệt phải phù hợp với đối tượng nộp thuế.
Thuế phải đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thi hành. Cần giảm thiểu tính phức tạp của hệ thống chính sách thuế, đảm bảo cho người thu thuế và người nộp thuế đều hiểu các quy định một cách cụ thể, chính xác, thống nhất.
Đảm bảo công bằng trong nghĩa vụ nộp thuế. Tính công bằng thể hiện ở mức huy động thuế phải phù hợp với khả năng đóng góp của đối tượng nộp thuế. Không phân biệt đối xử, nhưng không có nghĩa là mọi doanh nghiệp đều phải ngang nhau mà phải có phương thức hợp lý, để các doanh nghiệp tự nguyện nộp thuế.
Giảm bớt số lượng các loại thuế không phù hợp gây khó dễ cho doanh nghiệp.
Xây dựng một chính sách thuế ưu đãi hơn đối với các DNNVV, và phải đặt trong hệ thống chính sách hỗ trợ các DNNVV.
3.2.5 Xúc tiến thương mại hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Tổ chức giới thiệu sản phẩm hàng hóa của DNNVV thông qua triển lãm trong và ngoài nước, nhất là các thị trường còn tiềm ẩn, chưa có cơ hội làm ăn. Hỗ trợ tư vấn thông tin về các thị trường nước ngoài cho các DNNVV. Tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi kinh nghiệm giữa các doanh nghiệp với nhau trong việc tìm kiếm và tiếp cận các thị trường khác nhau.
Đào tạo bồi dưỡng kỹ năng hội nhập thị trường trong và ngoài nước để các doanh nghiệp nhanh chóng thích ứng với điều kiện hội nhập.
Cung cấp các ấn phẩm cần thiết về thị trường và hội nhập cho lãnh đạo các doanh nghiệp.
3.2.6 Hỗ trợ các doanh nghiệp đào tạo lao động kỹ thuật, lãnh đạo.
Nhà nước cân tăng cường hơn nữa nguồn vốn đầu tư cho việc đào tạo lao động cho doanh nghiệp, nhất là lao động kỹ thuật. Mở các lớp nâng cao kỹ năng quản lý cho chủ doanh nghiệp.
Xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa các trường dạy nghề, các trường đại học với doanh nghiệp.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A6163.DOC