Bổ sung quy định về đồng bảo hộ “nhãn hiệu
cơ sở” với tên thương mại trong trường hợp đã
có các tên thương mại đang được bảo hộ
đồng thời
Cần bổ sung quy định về “nhãn hiệu cơ sở”
và tạo cơ sở pháp lý cho khả năng đồng tồn tại
“nhãn hiệu cơ sở” đăng ký sau với tên thương
mại có trước mà không cần thời hiệu 5 năm hủy
bỏ hiệu lực nhãn hiệu. Trong trường hợp có sự
xung đột giữa “nhãn hiệu cơ sở” và tên thương
mại của hai chủ thể khác nhau, có thể cho phép
hai đối tượng đó đồng tồn tại để cân bằng quyền
lợi giữa các doanh nghiệp trong một số trường
hợp có nhiều tên thương mại đang được bảo hộ
đồng thời từ trước.
“Nhãn hiệu cơ sở” đăng ký sau của một trong
các chủ sở hữu tên thương mại có thể đồng tồn
tại với các tên thương mại đồng bảo hộ từ trước
trên cơ sở phân chia quyền một cách hợp lý,
tương tự như cơ chế nêu tại đề xuất thứ hai trên
đây. Nghĩa là mỗi tên thương mại đều được bảo
tồn quyền trong phạm vi lãnh thổ bảo hộ đã xác
lập, trong đó chủ nhãn hiệu đăng ký sau không
có bất cứ quyền gì (như phân tích tại điểm 4.2
trên đây). Lãnh thổ bảo hộ nhãn hiệu đăng ký sau
không bao gồm các khu vực thuộc phạm vi lãnh
thổ bảo hộ tên thương mại của người khác, tức là
chỉ bao gồm phạm vi lãnh thổ bảo hộ tên thương
mại của chủ sỏ hữu nhãn hiệu cơ sở tương ứng
và những khu vực chưa có chủ (Khu vực chưa có
chủ là khu vực địa lý không thuộc phạm vi bảo
hộ tên thương mại của bất kỳ chủ thể nào). Trong
những khu vực chưa có chủ đó mà chủ sở hữu
mới giành quyền sở hữu nhãn hiệu không có
quyền ngăn cấm việc sử dụng tên thương mại của
những người khác để mở rộng khu vực kinh
doanh.
Khi cho phép đồng tồn tại “nhãn hiệu cơ sở”
đăng ký sau với tên thương mại có trước trên cơ
sở các tên thương mại đang được bảo hộ đồng
thời, ngoài việc phân chia khu vực địa lý và giới
hạn quyền ngăn cấm như nêu trên, nếu cần thiết,
phải đặt ra các điều kiện khác ràng buộc “nhãn
hiệu cơ sở” đăng ký sau để bảo đảm không có
khả năng nhầm lẫn giữa hai đối tượng này, như
phương thức sử dụng nhãn hiệu (sử dụng yếu tố
phân biệt bổ sung); lĩnh vực kinh doanh (phân
chia kênh thương mại (online – offline, nhập
khẩu – nội địa, ); phân chia danh mục hàng
hóa, dịch vụ, ).
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 207 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp khắc phục xung đột trong việc bảo hộ nhãn hiệu và tên thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 69-79
69
Original Article
The Solution to Overcome Conflicts in the Protection
of Trademarks and Trade Names
Dang Thi Thanh, Nguyen Nhat Quang
VNU University of Social Sciences and Humanities, 336 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam
Received 08 July 2020
Revised 01 September 2020 ; Accepted 07 September 2020
Abstract: The objective of this paper is to propose solutions to overcome conflicts between
industrial property rights over trademarks and industrial property rights over trade names. The
research tasks consist of: Identifying the cause and the nature of the conflict, the mechanism to deal
with the conflict under Vietnam current law; Pointing out unresolved issues in that mechanism,
comparing with intellectual property law and practice of other countries to look for proper solutions
for Vietnam.
Keywords: Trademark, trade name, conflict, overlapse, house mark, concurrent use, concurrent
registration.
________
Corresponding author.
Email address: thanhdangthivn@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1116/vnupam.4252
D.T. Thanh, N.N. Quang / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 69-79 70
Giải pháp khắc phục xung đột trong việc bảo hộ nhãn hiệu
và tên thương mại
Đặng Thị Thanh, Nguyễn Nhật Quang
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN,
336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 08 tháng 7 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 01 tháng 9 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 07 tháng 9 năm 2020
Tóm tắt: Mục tiêu nghiên cứu của bài viết này là đề xuất giải pháp khắc phục xung đột giữa quyền
sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu và quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại. Nhiệm
vụ nghiên cứu gồm: xác định bản chất và nguyên nhân xung đột, cơ chế giải quyết xung đột trong
pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam hiện nay; chỉ ra những điểm bất cập trong pháp luật sở hữu trí
tuệ của Việt Nam hiện nay; đối chiếu với thực tiễn và pháp luật của nước ngoài để rút ra bài học áp
dụng cho Việt Nam.
Từ khóa: Nhãn hiệu, tên thương mại, xung đột, chồng lấn, nhãn hiệu cơ sở, đồng sử dụng, đăng ký
đồng tồn tại.
1. Mở đầu
Trong thời đại hội nhập toàn cầu như hiện
nay, Sở hữu trí tuệ (SHTT) trở thành một vấn đề
quan trọng trong quan hệ thương mại quốc tế
song phương và đa phương. Yêu cầu đối với việc
bảo hộ tài sản trí tuệ ngày càng được coi trọng.
Tuy nhiên, trên thực tế, một kết quả sáng tạo
hoặc một sản phẩm trí tuệ có thể được bảo hộ
dưới các hình thức khác nhau của quyền SHTT.
Điều này không chỉ gây nên hiện tượng “chồng
lấn” quyền SHTT mà còn gây nên hiện tượng
"xung đột” quyền SHTT.
Tại Việt Nam, vấn đề xung đột quyền SHTT
diễn ra ngày càng phổ biến và phức tạp. Hiện
tượng “xung đột” quyền SHTT khi các sản phẩm
trí tuệ trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn
được đăng ký bảo hộ dưới các hình thức khác
nhau của quyền SHTT bởi nhiều chủ thể khác
________
Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: thanhdangthivn@gmail.com
https://doi.org/10.25073/2588-1116/vnupam.4252
nhau cho cùng một nhóm sản phẩm/dịch vụ hoặc
nhóm sản phẩm/dịch vụ tương tự nhau. Ví dụ:
Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) Toàn Thắng (có
trụ sở kinh doanh ở tỉnh Bình Định, sau đây gọi
tắt là Toàn Thắng Bình Định) và DNTN Toàn
Thắng (có trụ sở kinh doanh ở tỉnh Khánh Hoà,
sau đây gọi tắt là Toàn Thắng Khánh Hòa) cùng
kinh doanh xăng dầu và đều có tên thương mại
như trên theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh do Sở Kế hoạch và Đầu tư của mỗi tỉnh.
Cục SHTT đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký
nhãn hiệu hàng hoá số 56273 bảo hộ nhãn hiệu
TOÀN THẮNG cho dịch vụ kinh doanh xăng
dầu do Toàn Thắng Bình Định là chủ sở hữu.
Toàn Thắng Bình Định sử dụng nhãn hiệu
TOÀN THẮNG để kinh doanh xăng dầu, Toàn
Thắng Khánh Hòa sử dụng tên thương mại
TOÀN THẮNG để kinh doanh xăng dầu. Điều
này đã dẫn đến hiện tượng “xung đột” quyền
D.T. Thanh, N.N. Quang / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 69-79 71
SHTT khi cả hai doanh nghiệp đều trưng chữ
“Toàn Thắng” trên các biển hiệu kinh doanh dọc
quốc lộ 1A. Trong bài viết này, tác giả xin được
tập trung phân tích những “xung đột” quyền
SHTT trong việc bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp (SHCN) đối với nhãn hiệu và quyền
SHCN đối với tên thương mại, từ đó tác giả sẽ
đề xuất một số giải pháp về hoàn thiện pháp luật
ở Việt Nam để có thể hạn chế “xung đột” và giải
quyết được hiện tượng “xung đột” quyền giữa
hai đối tượng của quyền SHTT này.
Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề vừa
nêu, trong bài viết này tác giả đặt mục tiêu tập
trung vào việc phân tích xung đột giữa quyền
SHCN đối với nhãn hiệu và quyền SHCN đối với
tên thương mại và đề xuất giải pháp giải quyết
xung đột này.
2. Thực tiễn pháp luật về sở hữu trí tuệ
của Việt Nam và những điểm bất cập
2.1. Nguyên nhân và nội dung xung đột giữa
quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu và
quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại
Yếu tố gây xung đột về quyền SHCN giữa
nhãn hiệu và tên thương mại là sự chồng lấn do
giao thoa giữa hai loại quyền:
Đối tượng bảo hộ của tên thương mại là tên
gọi, cũng có thể được bảo hộ dưới danh nghĩa
nhãn hiệu.
Chức năng phân biệt của nhãn hiệu và tên
thương mại khác nhau về khách thể phân biệt.
Nhãn hiệu phân biệt giữa hàng hóa và dịch vụ
của các doanh nghiệp khác nhau, còn tên thương
mại phân biệt các doanh nghiệp khác nhau hoạt
động trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh.
Tên thương mại đóng vai trò của nhãn hiệu khi
gắn tên thương mại đó lên hàng hóa và dịch vụ
để bán ra thị trường. Ví dụ: DNTN Toàn Thắng
Khánh Hòa đã gắn tên thương mại Toàn Thắng
lên dịch vụ kinh doanh xăng dầu để bán xăng dầu
________
1 Theo điều 123, Luật SHTT năm 2013.
ra thị trường; Tên thương mại “Hải Hà -
Kotobuki” dùng trong chuỗi cửa hàng bánh kẹo
giúp người tiêu dùng phân biệt hàng hóa của
doanh nghiệp Công ty TNHH Hải Hà - Kotobuki
với hàng hóa của các doanh nghiệp khác. Trong
hai trường hợp trên, tên thương mại đã đóng vai
trò của nhãn hiệu.
Nội dung quyền SHCN đối với nhãn hiệu bao
gồm quyền sử dụng, cho phép người khác sử
dụng nhãn hiệu; quyền ngăn cấm người khác sử
dụng nhãn hiệu; quyền định đoạt đối với nhãn
hiệu (chuyển nhượng quyền sở hữu và chuyển
quyền sử dụng nhãn hiệu)1. Nội dung quyền
SHCN đối với tên thương mại bao gồm quyền sử
dụng tên thương mại; quyền ngăn cấm người
khác sử dụng tên thương mại; quyền định đoạt
đối với tên thương mại (quyền đối với tên thương
mại chỉ được chuyển nhượng cùng với việc
chuyển nhượng toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt
động kinh doanh dưới tên thương mại đó; quyền
sử dụng tên thương mại không được chuyển
giao2). Sử dụng tên thương mại có phần đồng
nhất với sử dụng nhãn hiệu, đó là gắn tên thương
mại/nhãn hiệu lên hàng hóa, phương tiện kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ, biển hiệu, giấy tờ giao
dịch, mặc dù việc sử dụng đó khác nhau ở mức
độ cụ thể về nguồn gốc thương mại được chỉ dẫn.
Phạm vi lãnh thổ bảo hộ của tên thương mại
giới hạn ở khu vực kinh doanh, tức là khu vực
địa lý nơi doanh nghiệp có bạn hàng, khách hàng
hoặc danh tiếng (Khoản 21 Điều 4 Luật SHTT).
Phạm vi bảo hộ nhãn hiệu là toàn bộ lãnh
thổ Việt Nam, do đó phạm vi bảo hộ của nhãn
hiệu luôn bao trùm phạm vi bảo hộ của tên
thương mại.
Do vậy, cùng một đối tượng được bảo hộ
bằng cả hai loại quyền thì có sự chồng lấn về nội
dung và phạm vi quyền. Xung đột xảy ra khi
quyền chồng lấn thuộc về hai chủ thể khác nhau,
bởi vì việc thực hiện quyền của người này thuộc
phạm vi quyền của người kia. Đó là sự xung đột
giữa hai loại quyền [1].
2 Theo khoản 3 điều 139, khoản 1 điều 142, Luật SHTT
năm 2013.
D.T. Thanh, N.N. Quang / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 69-79 72
2.2. Cơ chế hạn chế xung đột quyền của Luật sở
hữu trí tuệ Việt Nam hiện nay.
Nguyên tắc ưu tiên bảo hộ quyền có trước,
tức là chỉ bảo hộ nhãn hiệu đăng ký trước hoặc
tên thương mại sử dụng trước, được quy định
trong luật SHTT nhằm tránh xác lập quyền đối
với nhãn hiệu và tên thương mại xung đột với
nhau. Đó là quy định về điều kiện bảo hộ, xuất
phát từ chức năng phân biệt của nhãn hiệu và tên
thương mại. Nhãn hiệu bị coi là không có khả
năng phân biệt nếu trùng hoặc tương tự với tên
thương mại đang được sử dụng của người khác
đến mức có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu
dùng về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ (điểm k
khoản 2 Điều 74 Luật SHTT). Tên thương mại
không được trùng hoặc tương tự đến mức gây
nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác đã được
bảo hộ trước ngày tên thương mại đó được sử
dụng (khoản 3 Điều 78, Luật SHTT). Như vậy,
giữa nhãn hiệu và tên thương mại, quyền SHCN
chỉ thuộc về đối tượng nào được bảo hộ trước.
Nguyên tắc ưu tiên bảo hộ quyền đối với tên
thương mại có trước được thực hiện thông qua
các quy định về nhãn hiệu: (i) Từ chối đăng ký
nhãn hiệu xung đột với tên thương mại có trước;
(ii) Khiếu nại quyết định cấp và hủy bỏ hiệu lực
Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu cấp sai, gây
xung đột; (iii) Hạn chế việc chuyển giao quyền
đối với nhãn hiệu và tên thương mại nhằm bảo
đảm chức năng phân biệt của hai đối tượng này,
tránh tình trạng đồng tồn tại các quyền xung đột
với nhau. [2]
Mặc dù đã có nguyên tắc ưu tiên bảo hộ
quyền có trước, vẫn có tình huống luật định dẫn
đến sự đồng tồn tại cặp quyền xung đột giữa
nhãn hiệu có sau và tên thương mại có trước. Đó
là, khi hết thời hiệu 5 năm của quyền yêu cầu hủy
bỏ hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu
(khoản 3 Điều 96 Luật SHTT), những nhãn hiệu
dù bị cấp sai vẫn được tiếp tục tồn tại. Ví dụ:
Khách sạn Thắng Lợi ở Hà Nội là khách sạn lớn
đầu tiên trên bờ Hồ Tây, do Nhà nước Cuba xây
________
3 Nghị định số 103/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu
công nghiệp, được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số
tặng Nhà nước Việt Nam từ năm 1975. Một
doanh nghiệp khác là Nhà khách Thắng Lợi -
Công ty 489 Bộ Quốc phòng ở Thành phố Hồ
Chí Minh được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
nhãn hiệu số 4-0032704-000 đối với logo chứa
các từ Thắng Lợi và Victory từ ngày 25/11/1999.
Kể từ ngày 26/11/2004, Khách sạn Thắng Lợi ở
Hà Nội đã không còn quyền yêu cầu hủy bỏ hiệu
lực Văn bằng bảo hộ nêu trên để bảo vệ tên
thương mại được sử dụng trước của mình.
Nhằm hạn chế xung đột giữa các quyền đồng
tồn tại như vậy, Luật SHTT đặt ra nguyên tắc tôn
trọng quyền đồng tồn tại, đặc biệt là quyền có
trước: Việc thực hiện quyền SHTT không được
xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác (khoản 2 Điều 7, Luật SHTT); Quyền
SHCN có thể bị hủy bỏ hiệu lực hoặc bị cấm sử
dụng nếu xung đột với quyền SHTT của người
khác được xác lập trước (khoản 1 Điều 17 Nghị
định 103/2006/NĐ-CP 3).
2.3. Những điểm bất cập của pháp luật hiện hành
Phạm vi lãnh thổ bảo hộ tên thương mại
không được quy định rõ ràng, dễ gây hiểu sai.
Phạm vi lãnh thổ bảo hộ tên thương mại được
hiểu thông qua định nghĩa tên thương mại (khoản
21 Điều 4 Luật SHTT) và điều kiện bảo hộ tên
thương mại (khoản Điều 76 và khoản 2 Điều 78,
Luật SHTT), đó là khu vực kinh doanh của
doanh nghiệp. Theo quy định này, nhiều tên
thương mại trùng hoặc tương tự nhau trong cùng
lĩnh vực kinh doanh tại các khu vực kinh doanh
khác nhau phải được bảo hộ đồng thời. Tuy
nhiên trên thực tế, phạm vi lãnh thổ bảo hộ tên
thương mại lại bị hiểu sai thành toàn lãnh thổ
Việt Nam, giống như các đối tượng SHCN khác.
Với cách hiểu này, chỉ có tên thương mại đầu
tiên được bảo hộ, kéo theo bất hợp lý trong việc
giải quyết xung đột về xác lập quyền SHCN giữa
tên thương mại và nhãn hiệu: Chỉ có nhãn hiệu
tương ứng với tên thương mại đầu tiên của cùng
một chủ thể mới được đăng ký. Do đó, tên
thương mại có sau không được bảo hộ, bất kể
122/2010/ NĐ-CP, Văn bản hợp nhất số 02/VBHN-BKHCN
ngày31/12/2014, Bộ Khoa học và Công nghệ
D.T. Thanh, N.N. Quang / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 69-79 73
trường hợp nó đã từng tồn tại không xung đột với
tên thương mại có trước trong khu vực kinh
doanh tách biệt và được mở rộng sử dụng trước
sang khu vực tranh chấp.
Trong vụ tranh chấp giữa hai DNTN xăng
dầu cùng mang tên thương mại Toàn Thắng ở hai
tỉnh Bình Định và Khánh Hòa. DNTN Toàn
Thắng Bình Định đăng ký nhãn hiệu Toàn Thắng
và cáo buộc rằng DNTN Toàn Thắng Khánh Hòa
sử dụng tên thương mại xâm phạm quyền đối với
nhãn hiệu, các cơ quan quản lý SHCN yêu cầu
DNTN Toàn Thắng Khánh Hòa buộc phải đổi
tên doanh nghiệp [3]. Giả định rằng DNTN Toàn
Thắng Bình Định sử dụng tên thương mại Toàn
Thắng trước tiên tại Bình Định; DNTN Toàn
Thắng Khánh Hòa sử dụng tên thương mại sau
tại Khánh Hòa; sau đó DNTN Toàn Thắng
Khánh Hòa mở rộng kinh doanh sang Phú Yên
trước, DNTN Toàn Thắng Bình Định mở rộng
kinh doanh sang Phú Yên sau và cáo buộc
DNTN Toàn Thắng Khánh Hòa xâm phạm
quyền đối với nhãn hiệu Toàn Thắng. Trong tình
huống giả định này, yêu cầu đổi tên doanh
nghiệp thực sự không thỏa đáng đối với DNTN
Toàn Thắng Khánh Hòa.
Tranh chấp thường phát sinh khi khu vực
kinh doanh của hai tên thương mại giao nhau.
Trong thực tiễn, việc xác định khu vực kinh
doanh của tên thương mại không tính đến quá
trình mở rộng lãnh thổ kinh doanh. Nếu nhìn
nhận khu vực địa lý của hai tên thương mại gồm
hai phần - phần tách biệt và phần giao nhau, thì
quyền đối với hai tên thương mại đều được bảo
hộ trong phần tách biệt và tên thương mại nào
được sử dụng trước trong phần giao thoa sẽ được
bảo hộ ở phần giao thoa đó. Cách nhìn nhận này
công bằng hơn, phù hợp với pháp luật hơn và
như vậy, tranh chấp có thể được giải quyết bằng
việc xác định ranh giới địa bàn hoạt động giữa
hai bên theo nguyên tắc quyền đối với tên thương
mại ở khu vực nào thuộc về doanh nghiệp đầu
tiên sử dụng tên thương mại ở khu vực đó. Vì
vậy, tranh chấp không thể được giải quyết một
________
4 https://hbcg.vn/
5 https://doanhnghiepmoi.vn/thong-tin/Cong-Ty-TNHH-
Xay-Dung-Hoa-Binh-59df3.html
cách công bằng do việc xác định ranh giới địa
bàn hoạt động giữa hai bên không theo nguyên
tắc quyền đối với tên thương mại ở khu vực nào
thuộc về doanh nghiệp đầu tiên sử dụng tên
thương mại ở khu vực đó. Ví dụ: Trong lĩnh vực
xây dựng có hai doanh nghiệp mang tên riêng
“Hòa Bình”: (i) Công ty CP Tập đoàn Xây dựng
Hòa Bình (ở thành phố Hồ Chí Minh) thành lập
năm 1987, đã xây dựng rất nhiều công trình lớn
tại khắp ba miền trong cả nước4; và (ii) Công ty
TNHH Xây dựng Hòa Bình (HOA BINH CO.,
LTD) (ở Bình Thuận) thành lập năm 1999, hoạt
động chủ yếu ở địa phương và các tỉnh Bình
Phước, Đồng Tháp, Cần Thơ5. Có thể nói, miền
Bắc và miền Trung là khu vực kinh doanh tách
biệt của Công ty CP Tập đoàn Xây đựng Hòa
Bình. Ở miền Nam, có sự giao nhau về khu vực
kinh doanh của hai công ty. Ví dụ tại Cần Thơ,
Công ty TNHH Xây dựng Hòa Bình mở Văn
phòng đại diện năm 2009, trong khi Công ty CP
Tập đoàn Xây đựng Hòa Bình bắt đầu hoạt động
năm 2011 với công trình Bệnh viện Đa khoa
Hoàn Mỹ Cần Thơ. Nếu có tranh chấp giữa hai
doanh nghiệp về quyền đối với tên thương mại
tại khu vực Cần Thơ thì quyền phải thuộc về
Công ty TNHH Xây dựng Hòa Bình - là bên sử
dụng tên thương mại này trước tại Cần Thơ.
Nguyên tắc tôn trọng quyền đồng tồn tại
không cụ thể cho nên khó hiểu và khó thực hiện.
“Không được xâm phạm quyền” của người khác
được hiểu thế nào khi hai bên cùng có quyền sử
dụng và ngăn cấm người khác sử dụng cùng một
tên gọi. Việc thực hiện quyền của người này
đương nhiên xâm phạm quyền của người khác.
Quyền có sau “có thể bị cấm” thực hiện nếu
xung đột với quyền có trước của người khác
được hiểu thế nào, trường hợp nào bị cấm, cấm
như thế nào? Những câu hỏi này chưa được trả
lởi. Vì vậy, trong thực tế xảy ra hiện tượng
“mạnh ai người ấy khai thác thị trường”, cho nên
chủ sở hữu quyền có trước không những bị chia
sẻ thị trường mà còn có nguy cơ bị mất cơ hội
phát triển thị trường, bị cạnh tranh áp đảo và
dai-dien-cong-ty-tnhh-xay-dung-hoa-binh.html
D.T. Thanh, N.N. Quang / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 69-79 74
thậm chí là chủ thể quyền có trước bị mất một
phần quyền ngăn cấm. Vấn đề đặt ra là để phân
chia thị trường một cách công bằng, trong đó
quyền có trước phải được bảo vệ thỏa đáng thì
cần phải giới hạn quyền của các bên như thế nào:
Phân chia quyền theo lãnh thổ? Phân chia quyền
theo lĩnh vực kinh doanh? Đặt ra điều kiện sử
dụng nhãn hiệu để bảo đảm phân biệt với tên
thương mại?...
Nguyên tắc ưu tiên bảo hộ quyền có trước
làm hạn chế phát triển nhãn hiệu. Vì sao cơ chế
ưu tiên bảo hộ quyền có trước không triệt tiêu
quyền xung đột mà vẫn để khoảng trống về thời
hiệu hủy bỏ hiệu lực, cho phép tồn tại nhãn hiệu
đăng ký sau? Chính sách này có thể được lý giải
một phần bằng nhu cầu đăng ký một loại nhãn
hiệu đặc biệt, đó là nhãn hiệu trùng với tên
thương mại của cùng một doanh nghiệp. Tên
thương mại thường được dùng làm nhãn hiệu
dùng cho mọi hàng hóa, dịch vụ, hoặc dùng cho
cả một dòng hàng hóa, dịch vụ của một doanh
nghiệp, để chỉ dẫn hàng hóa, dịch vụ có cùng một
nguồn gốc thương mại. Loại nhãn hiệu này gọi
là “nhãn hiệu cơ sở” 6. Nhu cầu bảo hộ “nhãn
hiệu cơ sở” là nhu cầu thiết thực, vì mỗi doanh
nghiệp trước hết đều đầu tư xây dựng danh tiếng
của mình thông qua tên thương mại. Mặt khác,
tên thương mại chỉ được bảo hộ trong khu vực
kinh doanh của doanh nghiệp, vì vậy, trên cả
nước cùng lúc có thể có nhiều doanh nghiệp sử
dụng tên thương mại trùng hoặc tương tự với
nhau ở các khu vực kinh doanh khác nhau. Do
đó, nhu cầu đăng ký các “nhãn hiệu cơ sở” tương
ứng với các tên thương mại đồng tồn tại từ trước
gây xung đột với nhau.
Điểm bất cập nằm ở chỗ việc áp dụng triệt
để nguyên tắc ưu tiên bảo hộ quyền có trước
dường như không hợp lý: (i) Nhiều cơ sở kinh
________
6 “Nhãn hiệu cơ sở” được định nghĩa trong
Dictionary.com là nhãn hiệu gắn trên và xác định mọi sản
phẩm của một doanh nghiệp (“House mark”: “a trademark
that appears on and identifies all of a company's products)
https://www.dictionary.com/e/epidemic-vs-
pandemic/?itm_source=parsely-api
Nhãn hiệu cơ sở thường trùng với phần tên riêng trong
tên thương mại của cùng một chủ, tiếng Anh là “house
mark”) doanh nghiệp.
doanh nhỏ hoạt động trong một khu vực địa lý
rất hạn hẹp, chỉ dùng tên thương mại và không
có nhu cầu cấm người khác sử dụng nhãn hiệu
ngoài khu vực đó và ngược lại (ii) Nhiều doanh
nghiệp có nhu cầu phát triển thị trường hàng hóa,
dịch vụ ra phạm vi toàn quốc, nhưng không đăng
ký được “nhãn hiệu cơ sở” chỉ vì trùng tên
thương mại với các cơ sở kinh doanh nhỏ ở địa
phương khác. Vấn đề đặt ra là liệu có thể cho
phép đăng ký các “nhãn hiệu cơ sở” tương ứng
với các tên thương mại đồng tồn tại hay không?
Có thể dựa trên nguyên tắc giới hạn lãnh thổ bảo
hộ của tên thương mại để đồng bảo hộ các “nhãn
hiệu cơ sở” tương ứng hay không? Pháp luật hiện
hành của Việt Nam hoàn toàn không đề cập đến
tình huống này.
3. Pháp luật và thực tiễn của nước ngoài
3.1. Nguyên tắc ưu tiên bảo hộ quyền có trước
Quyền đối với nhãn hiệu thuộc về người nộp
đơn đăng ký đầu tiên hoặc sử dụng đầu tiên. Đại
đa số các nước trên thế giới (ví dụ: Trung Quốc7,
Việt Nam,..) bảo hộ nhãn hiệu theo nguyên tắc
đăng ký xác lập quyền và“nộp đơn đầu tiên”/
“first to file”, tức là dành quyền cho người nộp
đơn đăng ký đầu tiên. Cũng có những nước bảo
hộ nhãn hiệu không đăng ký theo nguyên tắc xác
lập quyền trên cơ sở sử dụng và “sử dụng đầu
tiên”/ “first to use”, tức là dành quyền cho người
sử dụng đầu tiên mà không cần đăng ký. Tuy
nhiên, những nước này cũng có hệ thống đăng ký
nhãn hiệu và quyền đăng ký nhãn hiệu thuộc về
người sử dụng đầu tiên [4]. Đa số các nước này
là các quốc gia có thể chế Liên bang, điển hình
là Hoa Kỳ, Canada8 và Australia. Nhãn hiệu
7 Trung quốc, Trademark Law of the People's Republic
of China, as amended 2013, Article 31 “Where two or more
applicants apply to register identical or similar trademarks
for use on the same kind of goods or similar goods, the
trademark office shall first conduct examination of, give
approval to and announce the trademark whose
registration is applied for earlier than the rest...”
8 Canada, Trademark Act (R.S.C., 1985, c. T-13),
Section 16 (1)
“Entitlement to registration
D.T. Thanh, N.N. Quang / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 69-79 75
không đăng ký được bảo hộ theo địa bàn kinh
doanh là lãnh thổ bang. Các “nhãn hiệu cơ sở”
cũng được bảo hộ theo cơ chế bảo hộ nhãn hiệu
không đăng ký. Vì vậy, những nhãn hiệu này
đồng tồn tại ở các Bang khác nhau.
Quyền đối với tên thương mại thuộc về người
sử dụng đầu tiên. Đa số các nước trên thế giới
(Ví dụ: Trung Quốc – Điều 5(2) Luật Chống
cạnh tranh không lành mạnh9, Việt Nam ) bảo
hộ tên thương mại theo nguyên tắc xác lập quyền
trên cơ sở sử dụng và dành quyền cho người sử
dụng đầu tiên. Tuy nhiên, tùy thuộc pháp luật
quốc gia, phạm vi lãnh thổ bảo hộ tên thương mại
là khu vực kinh doanh, được xác lập theo thực
tiễn hoạt động kinh doanh dưới tên thương mại
đó, hoặc là toàn bộ lãnh thổ quốc gia [5].
Giữa nhãn hiệu và tên thương mại, quyền có
trước được tồn tại. Nguyên tắc ưu tiên bảo hộ
quyền có trước được áp dụng trong xác lập quyền
cũng như trong thực thi quyền [5]. Cụ thể là
quyền có trước là căn cứ để phủ nhận quyền có
sau, dưới hình thức điều kiện bảo hộ, căn cứ phản
đối hoặc hủy bỏ hiệu lực đăng ký.
Ví dụ điển hình là luật pháp Hoa Kỳ (Luật
Nhãn hiệu Liên bang - Đạo luật Lanham, §2 (15
U.S.C. §1052(d))10), Trung Quốc (Điều 32 Luật
Nhãn hiệu của Trung Quốc, sửa đổi năm 2013)11,
nhiều nước thuộc Khối Thịnh vượng chung, như
________
16 (1) Any applicant who has filed an application in
accordance with subsection 30(2) for the registration of a
registrable trademark is entitled, subject to section 38, to
secure its registration in respect of the goods or services
specified in the application, unless at the filing date of the
application or the date of first use of the trademark in
Canada, whichever is earlier, it was confusing with
(a) a trademark that had been previously used in Canada
or made known in Canada by any other person;
(b) a trademark in respect of which an application for
registration had been previously filed in Canada by any
other person; or
(c) a trade name that had been previously used in Canada
by any other person.”
https://laws-lois.justice.gc.ca/eng/acts/T-13/page-
7.html#h-450650
9 Trung quốc, Anti-unfair Competition Law of the
People's Republic of China (Dịch: Luật Chống cạnh tranh
không lành mạnh của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa).
“5. An operator shall not adopt the following unfair means
to carry on transactions in the market and cause damage to
competitors:
Anh quốc (khoản (4) mục 5 Đạo luật Nhãn
hiệu)12, Singapore (khoản (7) Mục 8 Đạo luật
Nhãn hiệu)13, nhiều nước thành viên EU, như
Đức [6], Áo [7].
3.2. Sự đồng tồn tại quyền khi hết thời hiệu hủy
bỏ đăng ký nhãn hiệu
Quyền yêu cầu hủy bỏ hiệu lực đăng ký các
nhãn hiệu là quy định cho phép chủ sở hữu các
quyền có trước được bảo vệ quyền của mình
thông qua thủ tục yêu cầu hủy bỏ nhãn hiệu được
đăng ký sau, mà trái quy định về điều kiện bảo
hộ. Tuy nhiên, quyền này chỉ có thời hiệu luật
định là 5 năm kể từ ngày đăng ký nhãn hiệu. Nếu
chủ sở hữu quyền có trước không thực hiện
quyền trong thời hiệu đó thì sẽ phải chia sẻ độc
quyền này với chủ nhãn hiệu đăng ký sau. Hai
quyền sẽ tiếp tục tồn tại đồng thời một cách hợp
pháp. Đây là chính sách cân bằng lợi ích giữa hai
chủ thể. Sau thời hiệu 5 năm đó nhãn hiệu đã qua
thời gian sử dụng, với sự đầu tư đáng kể và đủ
đạt được khả năng phân biệt với tên thương mại.
Để tránh xung đột giữa quyền có trước và
quyền có sau, pháp luật các nước có một số biện
pháp khả dĩ:
Thứ nhất là quy định giới hạn các quyền đó
sao cho trong phạm vi chồng lấn chúng không
...(3) using, without authorization, the business name or
personal name of the other person on his own goods,
leading people to mistake them for the goods of the other
person;...”
10 Hoa Kỳ, US Trademark Law 1946 (Dịch: Luật Nhãn
hiệu của Hoa Kỳ)
https://www.uspto.gov/sites/default/files/trademarks/la
w/Trademark_Statutes.pdf
11 Trung quốc, Trademark Law of the People's Republic
of China, as amended 2013 (Dịch: Luật Nhãn hiệu của
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, sửa đổi 2013)
https://www.wipo.int/edocs/lexdocs/laws/en/cn/cn195
en.pdf
12 Anh Quốc, Trademark Act 1994 (Dịch: Đạo luật Nhãn
hiệu 1994)
5?view=plain
13 Singapore, Trade Marks Act, 1998 (Dịch: Đạo luật
Nhãn hiệu 1998) https://sso.agc.gov.sg/Act/TMA1998
D.T. Thanh, N.N. Quang / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 69-79 76
đối kháng lẫn nhau. Cụ thể là việc sử dụng nhãn
hiệu bởi chủ sở hữu sẽ không thuộc quyền ngăn
cấm của chủ sở hữu tên thương mại và ngược lại
việc sử dụng tên thương mại bởi chủ sở hữu cũng
không thuộc quyền ngăn cấm của chủ sở hữu
nhãn hiệu.
Thứ hai là quy định cho phép chủ sở hữu
quyền có trước được yêu cầu chủ sở hữu nhãn
hiệu có sau phải bổ sung các yếu tố vào nhãn
hiệu để phân biệt nhãn hiệu đó với tên thương
mại có trước.
Cơ chế đồng tồn tại sau thời hiệu 5 năm phổ
biến trong luật nhãn hiệu của các quốc gia. Ví
dụ, Trung quốc (Điều 45, Điều 59 Luật Nhãn
hiệu của Trung Quốc, sửa đổi năm 201314, Hoa
Kỳ (Section 15 Trademark Act, 15 U.S.C.
§106515 [8]).
3.3. Sự đồng tồn tại quyền trên cơ sở “sử dụng
đồng thời một cách trung thực”
Rất nhiều quốc gia trên thế giới cho phép
đồng tồn tại quyền trên cơ sở “sử dụng đồng thời
một cách trung thực”, theo đó các nhãn hiệu
trùng hoặc tương tự với nhau, dùng cho hàng
hóa, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự với nhau có
thể được đăng ký bởi các chủ thể khác nhau với
các yêu cầu sau đây:
Thứ nhất, những nhãn hiệu này đã được sử
dụng đồng thời một cách trung thực từ trước.
Việc đánh giá tình trạng “sử dụng đồng thời một
cách trung thực” dựa vào năm yếu tố: (i) Tính
trung thực của việc sử dụng đồng thời; (ii) Mức
độ sử dụng nhãn hiệu đồng thời xét về thời gian,
không gian, khối lượng của hoạt động thương
________
14 Trung quốc, Trademark Law of the People's Republic
of China, as amended 2013 (Dịch: Luật Nhãn hiệu của
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, sửa đổi 2013)
Article 59. ...”Where, before a trademark registrant applies
for registration of a trademark, another party has used a
trademark that is of certain influence and is identical with
or similar to the registered trademark on the same kind of
goods or similar goods, the holder of the exclusive right to
use the registered trademark shall have no right to prohibit
the said party from continued use of the trademark within the
original scope of use, however, the holder may require the
latter to add a proper mark for distinguishment.”
https://www.wipo.int/edocs/lexdocs/laws/en/cn/cn195en.pdf
mại và về hàng hóa, dịch vụ liên quan; (iii) Khả
năng gây nhầm lẫn do tính tương tự giữa các
nhãn hiệu; (iv) Các tình huống nhầm lẫn thực tế;
(v) Sự bất tiện gây ra cho các bên liên quan. [9].
Trong 5 yếu tố nêu trên, yếu tố số (ii) mang tính
định lượng. Cần hiểu rằng pháp luật không đặt ra
chỉ tiêu định lượng, mà chỉ quy định rằng các đại
lượng đó là tiêu chí để xem xét tính đồng thời
của việc sử dụng tên thương mại /nhãn hiệu do
các doanh nghiệp khác nhau thực hiện. Ví dụ về
mặt thời gian, bất luận thời lượng sử dụng, chỉ
cần xem xét xem thời gian hai bên sử dung các
nhãn hiệu có khoảng trùng nhau hay không; về
mặt không gian, cần xem xét đến tính khác biệt
về khu vực kinh doanh hoặc kênh thương mại để
khằng định có sự tách biệt về người tiêu dùng
hay không.
Thứ hai, việc cho phép các đăng ký đồng tồn
tại bị ràng buộc bởi những giới hạn và điều kiện
thích hợp để bảo đảm khả năng phân biệt về
nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ gắn các nhãn hiệu
đó. Những giới hạn và điều kiện này có thể thuộc
về các phương diện khác nhau: (i) phương thức
sử dụng nhãn hiệu (sử dụng yếu tố phân biệt bổ
sung); (ii) địa bàn sử dụng nhãn hiệu (phân chia
khu vực địa lý); (iii) lĩnh vực kinh doanh (phân
chia kênh thương mại (online – offline, nhập
khẩu – nội địa); phân chia danh mục hàng hóa,
dịch vụ); (iv) giới hạn nội dung quyền (quyền
ngăn cấm lẫn nhau).
Cơ chế này phổ biến ở các nước có Luật án
lệ, điển hình là Khối Thịnh vượng chung như
Anh Quốc (điểm b khoản (1) và khoản (2) mục
7 Đạo Luật Nhãn hiệu 199416), Singapore (điểm
b khoản (1) mục 9 Đạo luật Nhãn hiệu17),
15 Hoa Kỳ, US Trademark Law 1946 (Dịch: Luật Nhãn
hiệu của Hoa Kỳ)
https://www.uspto.gov/sites/default/files/trademarks/law/T
rademark_Statutes.pdf
16 Anh Quốc, Trademark Act 1994 (Dịch: Đạo luật Nhãn
hiệu 1994)
5?view=plain
17 Singapore, Trade Marks Act, 1998 (Dịch: Đạo
luật Nhãn hiệu 1998)
https://sso.agc.gov.sg/Act/TMA1998
D.T. Thanh, N.N. Quang / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 69-79 77
Malaysia (khoản (1) mục 20, điểm f khoản (1)
Mục 40 Đạo luật Nhãn hiệu 1976 [10]), Ấn Độ
(mục 12 Đạo luật Nhãn hiệu [9]; Hoa Kỳ (mục
§2 (15 U.S.C. §1052(d) [4]). Đặc biệt có Thái
Lan, là nước ngoài hệ thống Luật án lệ cũng theo
mô hình này (Điều 27 Đạo luật Nhãn hiệu).18
Quy định chi tiết và toàn diện nhất là pháp
luật của Hoa Kỳ: “Khi có xung đột về quyền giữa
nhãn hiệu với tên thương mại, quyền đối với
nhãn hiệu có trước sẽ ưu thắng nhưng quyền đối
với nhãn hiệu có sau có thể đồng tồn tại với nhãn
hiệu có trước”. Pháp luật của Hoa Kỳ còn quy
định rằng trong tình huống có nhiều người đã
cùng sử dụng hợp pháp trong thương mại các
nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với nhau trước
ngày bất kỳ người nào trong số họ nộp đơn đăng
ký nhãn hiệu, nếu họ tiếp tục cùng sử dụng
những nhãn hiệu đó dưới những điều kiện và hạn
chế về phương thức sử dụng, về nơi sử dụng, về
hàng hóa, dịch vụ, mà không có khả năng gây
nhầm lẫn, hiểu sai hoặc lừa dối, thì họ có thể
được cấp đăng ký nhãn hiệu (đăng ký đồng tồn
tại trên cơ sở đồng sử dụng). Tuy nhiên, mỗi
quyền đồng tồn tại đều bị hạn chế về (i) phương
thức sử dụng; (ii) lãnh địa sử dụng; hoặc (iii)
hàng hóa, dịch vụ. Những hạn chế này bảo đảm
rằng sự đồng tồn tại các quyền đối với nhãn hiệu
không gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa. [4]
Tên thương mại có trước khi được sử dụng
với vai trò của nhãn hiệu cũng được bảo hộ dưới
danh nghĩa nhãn hiệu. Như vậy “nhãn hiệu cơ
sở” có thể được đồng bảo hộ theo đăng ký liên
bang, theo đó nhãn hiệu có hiệu lực trên lãnh thổ
Liên Bang, trừ lãnh thổ Bang nơi “nhãn hiệu cơ
sở” và tên thương mại được bảo hộ. Nhãn hiệu
cơ sở được đăng ký dưới danh nghĩa một loại
nhãn hiệu đặc biệt, được quy định rất chi tiết
trong Hướng dẫn thẩm định nhãn hiệu của Hoa
Kỳ19 . Tòa án Hoa Kỳ cho phép các doanh nghiệp
đồng sử dụng nhãn hiệu trùng hoặc tương tự tại
các khu vực địa lý khác nhau vì không có khả
________
18 Thái Lan, Trademark Act B.E. 2534, amended by
Trademark Act (No.2) B.E. 2543 and Trademark Act (No.3)
B.E. 2559 (Dịch: Đạo luật Nhãn hiệu B.E. 2534, được sửa
đổi theo Đạo luật Nhãn hiệu (No.2) B.E. 2543 và Đạo luật
Nhãn hiệu (No.3) B.E. 2559),
https://wipolex.wipo.int/en/text/444230
năng gây nhầm lẫn. Ví dụ, trong vụ Weiner King,
Inc. kiện Wiener King Corp, Tòa liên bang cho
phép đồng sử dụng nhãn hiệu "Weiner King" cho
nhà hàng bán xúc xích ở New Jersey và nhãn
hiệu "Wiener King" cho nhà hàng ở North
Carolina. Tương tự, trong vụ Pinocchio’s Pizza
Inc kiện Sandra Inc, tòa cho phép sử dụng nhãn
hiệu “PINOCCHIO’S” cho nhà hàng ở Maryland
và nhãn hiệu “PINOCCHIOS” cho nhà hàng ở
bất kỳ nơi nào khác trong cả nước [11]. Hội đồng
giải quyết tranh chấp và khiếu nại về nhãn hiệu
của Cơ quan Patent và Nhãn hiệu Hoa Kỳ
(USPTO) cũng có thẩm quyền quyết định công
nhận quyền đồng sử dụng một nhãn hiệu.
USPTO cấp đồng đăng ký đối với nhãn hiệu trên
cơ sở quyền đồng sử dụng hợp pháp đã được Tòa
án hoặc Hội đồng giải quyết tranh chấp và khiếu
nại về nhãn hiệu công nhận. Đăng ký trên cơ sở
đồng sử dụng phải nêu rõ điều kiện và giới hạn
về phương thức sử dụng, về lãnh địa sử dụng, về
hàng hóa, dịch vụ (§2 (15 U.S.C. §1052(d)). Ví dụ
Đăng ký bị giới hạn lãnh thổ, gồm toàn bộ Hoa Kỳ
trừ Bang New York theo Sử dụng đồng thời số
94002928. Đăng ký đồng thời với John Richard
Grigonis (Đăng ký đồng thời số 4776479).
4. Giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm hạn
chế xung đột
4.1. Làm rõ quy định về phạm vi lãnh thổ bảo hộ
tên thương mại
Cần bổ sung quy định về phạm vi lãnh thổ
bảo hộ tên thương , trong đó khằng định phạm vi
bảo hộ chỉ giới hạn ở khu vực kinh doanh theo
định nghĩa tại khoản 21 Điều 4 Luật SHTT
(không phải mặc nhiên là toàn bộ lãnh thổ Việt
Nam). Đồng thời, cần bổ sung quy định làm rõ
rằng các tên thương mại trùng hoặc tương tự với
nhau, sử dụng trong cùng lĩnh vực kinh doanh
19 USPTO (2018), 1402.03(b) House Marks, TMEP -
Trademark Manual of Examining Procudure, October 2018
(Dịch: 1402.03(b) Nhãn hiệu cơ sở, TMEP – Hướng dẫn
Thẩm định Nhãn hiệu)
https://tmep.uspto.gov/RDMS/TMEP/Jan2017#/Jan2017/T
MEP-1400d1e2146.html, truy cập 15/3/2020
D.T. Thanh, N.N. Quang / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 69-79 78
nhưng khác khu vực kinh doanh được phép tồn
tại và bảo hộ đồng thời.
Cần bổ sung quy định làm rõ nguyên tắc
quyền thuộc về người sử dụng trước khi xác định
phạm vi lãnh thổ bảo hộ tên thương mại. Trong
trường hợp giữa hai tên thương mại có sự giao
thoa về khu vực địa lý, tức là khu vực kinh doanh
có phần chung (khu vực giao thoa) và các phần
tách biệt (khu vực tách biệt) thì quyền SHCN đối
với tên thương mại trong khu vực giao thoa thuộc
về bên sử dụng trước tên thương mại trong khu
vực đó. Tuy nhiên quyền trong khu vực giao thoa
không làm triệt tiêu sự bảo hộ đối với tên thương
mại của bên kia trong khu vực tách biệt. Nói cách
khác quyền SHCN đối với tên thương mại có thể
đồng tồn tại trên cơ sở phân định lãnh thổ theo
nguyên tắc ai sử dụng ở lãnh thổ nào trước sẽ
xác lập quyền của mình ở lãnh thổ đó.
4.2. Cụ thể hóa nguyên tắc tôn trọng quyền đồng
tồn tại
Luật SHTT Việt Nam cần làm rõ nguyên tắc
tôn trọng quyền được xác lập trước bằng một cơ
chế phân chia quyền hợp lý. Cơ chế phân chia
quyền khả dĩ có thể là: (i) Bảo tồn nguyên vẹn
quyền của tên thương mại trong phạm vi lãnh thổ
bảo hộ đã xác lập; thu hẹp quyền đối với nhãn
hiệu đăng ký sau bằng toàn bộ quyền đối với tên
thương mại đó (Tức là trong phạm vi lãnh thổ
bảo hộ tên thương mại, chủ sở hữu tên thương
mại có quyền ngăn cấm việc sử dụng nhãn hiệu
đăng ký sau; chủ sở hữu nhãn hiệu đăng ký sau
không có bất cứ quyền gì đối với nhãn hiệu. Nói
cách khác, đây là nguyên tắc phân chia lãnh thổ
trong đó lãnh thổ bảo hộ nhãn hiệu có sau không
bao gồm lãnh thổ bảo hộ tên thương mại có trước);
(ii) bảo tồn khả năng mở rộng khu vực kinh doanh
cho chủ tên thương mại có trước (được quyền sử
dụng tên thương mại trên toàn quốc mà không phải
xin phép chủ nhãn hiệu có sau. Giải pháp này có
tính mềm dẻo, dung hòa lợi ích các bên.
4.3. Bổ sung quy định về đồng bảo hộ “nhãn hiệu
cơ sở” với tên thương mại trong trường hợp đã
có các tên thương mại đang được bảo hộ
đồng thời
Cần bổ sung quy định về “nhãn hiệu cơ sở”
và tạo cơ sở pháp lý cho khả năng đồng tồn tại
“nhãn hiệu cơ sở” đăng ký sau với tên thương
mại có trước mà không cần thời hiệu 5 năm hủy
bỏ hiệu lực nhãn hiệu. Trong trường hợp có sự
xung đột giữa “nhãn hiệu cơ sở” và tên thương
mại của hai chủ thể khác nhau, có thể cho phép
hai đối tượng đó đồng tồn tại để cân bằng quyền
lợi giữa các doanh nghiệp trong một số trường
hợp có nhiều tên thương mại đang được bảo hộ
đồng thời từ trước.
“Nhãn hiệu cơ sở” đăng ký sau của một trong
các chủ sở hữu tên thương mại có thể đồng tồn
tại với các tên thương mại đồng bảo hộ từ trước
trên cơ sở phân chia quyền một cách hợp lý,
tương tự như cơ chế nêu tại đề xuất thứ hai trên
đây. Nghĩa là mỗi tên thương mại đều được bảo
tồn quyền trong phạm vi lãnh thổ bảo hộ đã xác
lập, trong đó chủ nhãn hiệu đăng ký sau không
có bất cứ quyền gì (như phân tích tại điểm 4.2
trên đây). Lãnh thổ bảo hộ nhãn hiệu đăng ký sau
không bao gồm các khu vực thuộc phạm vi lãnh
thổ bảo hộ tên thương mại của người khác, tức là
chỉ bao gồm phạm vi lãnh thổ bảo hộ tên thương
mại của chủ sỏ hữu nhãn hiệu cơ sở tương ứng
và những khu vực chưa có chủ (Khu vực chưa có
chủ là khu vực địa lý không thuộc phạm vi bảo
hộ tên thương mại của bất kỳ chủ thể nào). Trong
những khu vực chưa có chủ đó mà chủ sở hữu
mới giành quyền sở hữu nhãn hiệu không có
quyền ngăn cấm việc sử dụng tên thương mại của
những người khác để mở rộng khu vực kinh
doanh.
Khi cho phép đồng tồn tại “nhãn hiệu cơ sở”
đăng ký sau với tên thương mại có trước trên cơ
sở các tên thương mại đang được bảo hộ đồng
thời, ngoài việc phân chia khu vực địa lý và giới
hạn quyền ngăn cấm như nêu trên, nếu cần thiết,
phải đặt ra các điều kiện khác ràng buộc “nhãn
hiệu cơ sở” đăng ký sau để bảo đảm không có
khả năng nhầm lẫn giữa hai đối tượng này, như
phương thức sử dụng nhãn hiệu (sử dụng yếu tố
phân biệt bổ sung); lĩnh vực kinh doanh (phân
chia kênh thương mại (online – offline, nhập
khẩu – nội địa,); phân chia danh mục hàng
hóa, dịch vụ,).
D.T. Thanh, N.N. Quang / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 36, No. 3 (2020) 69-79 79
Ý nghĩa của giải pháp
Các giải pháp hoàn thiện chính sách pháp
luật nêu trên sẽ góp phần giảm thiểu một loại
xung đột đặc biệt, phát sinh từ sự chồng lấn, giao
thoa giữa cặp quyền SHCN đối với nhãn hiệu và
tên thương mại, hướng đến sự minh bạch và công
bằng trong việc cân bằng lợi ích giữa các doanh
nghiệp. Bên cạnh nguyên tắc dành quyền cho
chủ thể đăng ký trước hoặc sử dụng trước, còn
có nguyên tắc phân chia giữa các quyền đồng
tồn tại.
5. Kết luận
Hiện tượng “xung đột” quyền trong bảo hộ
các đối tượng của quyền SHTT là không thể
tránh khỏi đặc biệt đối với nhãn hiệu và tên
thương mại. Do vậy, việc đề ra các giải pháp để
giải quyết các “xung đột” không chỉ có ý nghĩa
về mặt khoa học, mà còn có ý nghĩa kinh tế - xã
hội.
Để giải quyết được các xung đột giữa các đối
tượng của quyền SHTT của Việt Nam, rất
cần nghiên cứu kinh nghiệm, tham khảo pháp
luật của một số quốc gia trong lĩnh vực liên quan
để bổ sung, chỉnh sửa các quy định hiện hành của
pháp luật SHTT.
Tài liệu tham khảo
[1] Le Thi Nam Giang, Conflict between the protection
of trademark and trade name (in Vietnamese),
Journal of Legal Sciences 03 (76) (2013) 58-59.
[2] Nguyen Thi Thu, Conflict between trademark and
trade name in the protection of trademark (in
Vietnamese), Faculty of Law - Hanoi National
University, Ha Noi, 2015.
[3] Nguyen Van Bay, Handling conflict between
trademark and trade name in the enforcement of
intellectual property rights (in Vietnamese),
International seminar “The enforcement of
intellectual property rights in Vietnam after
accession to The World Trade Organization WTO”
organized by University of Social Science and
Humanity and KAZ Institute (GE), Feb.2011.
[4] Trademark Angel, Trademarks: First-to-use and
First-to-file Countries,
https://trademarkangel.com/trademarks-first-to-
use-and-first-to-file-countries, 2020 (accessed 25
March 2020).
[5] Nguyễn Thị Quế Anh, Several issues regarding the
protection of industrial rights of trade names
around the world (in Vietnamese), The Journal of
Sciences of Hanoi National University, Economy –
Law, T. XVII, 2 (2002), 31- 35.
[6] INTA Bulletin, Back to the Roots: Conflicts
Between Trademarks and Company Names in
Germany Before and After Céline,
https://www.inta.org/INTABulletin/Pages/Backtot
heRootsConflictsBetweenTrademarksandCompan
yNamesinGermanyBeforeandAfterC%C3%A9line
.aspx#, 2020 (accessed 25 January 2020).
[7] Kluwer Trademark Blog, Priority conflicts
between trade names and trademarks in Austria:
Defence of prior trade name in trademark
cancellation action,
/priority-conflicts-between-trade-names-and-
trademarks-in-austria-defence-of-prior-trade-
name-in-trademark-cancellation-
actions/?doing_wp_cron=1594188717.421016931
5338134765625, 2020 (accessed 27 January 2020).
[8] ipwatchdog.com, Incontestable Status: What it is
and why trademark owners want it,
https://www.ipwatchdog.com/2018/01/31/incontes
table-status-federally-registered-
trademark/id=93071, 2020 (accessed 25 March
2020).
[9] Legal Services India.com, Honest and Concurrent
Use of Trademark,
onest-And-Concurrent-Use-of-Trademark.html,
2020 (accessed 10 April 2020).
[10] Hafiz Zubir Co, Trademark: concurrent
registration, https://hzac.com.my/trademark-
concurrent-registration/, 2020 (accessed 15 April
2020).
[11] Lombard & Geliebter Trademark Attorneys, The
Concurrent Use of Trademarks in Different
Geographical Locations,
extclient/media/Concurrent_Use_of_Trademarks_
in_Different_Geographical_Locations.pdf, 2020
(accessed 18 April 2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giai_phap_khac_phuc_xung_dot_trong_viec_bao_ho_nhan_hieu_va.pdf