- Đối với nền kinh tế, thanh toán không dùng tiền mặt có ý nghĩa quan trọng đến việc tiết kiệm khối lượng tiền mặt trong lưu thông, từ đó giảm bớt những phí tổn to lớn của xã hội có liên quan đến việc phát hành và lưu thông tiền. Trước hết đó là tiết kiệm chi phí in tiền, sau đó là những chi phí cho việc kiểm đếm, chuyên chở, bảo quản và huỷ bỏ tiền cũ, rách mà vấn đề bức xúc nhất hiện nay đó là việc chuyên chở và bảo quản tiền mặt. Thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta được tổ chức thành một hệ thống thống nhất. Trong hệ thống này ngân hàng là một trung tâm thanh toán, mọi hoạt động trao đổi hàng hoá dịch vụ đều được kết thúc bằng thanh toán cho nên quan hệ thanh toán liên quan tới tất cả mọi hoạt động trong xã hội, trong toàn bộ nền kinh tế. Do đó việc tổ chức tốt công tác thanh toán nói chung và thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng có một ý nghĩa và vai trò lớn trong nền kinh tế. Thanh toán không dùng tiền mặt là hình thức sử dụng công cụ tiền tệ tiến bộ nhất nó tạo ra tiền đề để áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật mang lại những lợi ích kinh tế to lớn. Thanh toán không dùng tiền mặt ra đời và phát triển trên cơ sở của nền kinh tế thị trường. Song chính nó lại trở thành nhân tố thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển, do đó nó vừa được coi là “đứa con” sinh ra của kinh tế thị trường lại được xem như “bà đỡ” của nền kinh tế hàng hoá, nó góp phần đẩy nhanh tốc độ quá trình tái sản xuất xã hội, nó là khâu đầu và cũng là khâu kết thúc của quá trình sản xuất, nó liên quan đến toàn bộ quá trình lưu thông hàng hoá, tiền tệ của các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội.
67 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1228 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hang là mang lại hiệu quả rõ nét nhất. Vì nó vừa có lợi cho khách hàng lại vừa có lợi cho ngân hàng nên NHNo&PTNT Ba Đình chú trọng đến việc hướng dẫn cho khách hàng gửi loại tiết kiệm trên (năm 2002 chưa có). Đến năm 2004 số dư tiền gửi tiết kiệm bậc thang là 14.212 triệu đồng còn loại tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu (trả lãi trước) 3 tháng, 6 tháng tăng 66.564 triệu đồng.
Biểu trên còn cho thấy nguồn tiền gửi không kỳ hạn chiếm tỷ lệ còn quá khiêm tốn, chỉ chiếm 4,48% trên tổng nguồn với lãi suất thấp, chưa đạt được so với kế hoạch đặt ra. Qua số liệu vài năm trở lại đây ta thấy điều vừa nêu là khó khăn truyền thống của NHNo&PTNT Ba Đình. Trong 2 năm qua đã tiếp thị được công ty Điện lực Thanh Xuân nhưng họ chỉ cho thu tiền mặt còn thanh toán chuyển khoản chưa về được. Còn đối với nguồn trên 12 tháng chiếm tỷ trọng cao trên tổng nguồn mang lại sự ổn định tương đối cho nguồn nhưng lại phải trả với lãi suất cao. Đó cũng là điều chưa hợp lý trong kết cấu nguồn tại NHNo&PTNT Ba Đình .
1.4.2. Công tác sử dụng vốn.
Tổng dư nợ đến 30/11/03 là 85.267 triệu đồng, thực hiện đến 31/12/03 đạt 88.884 triệu đồng
* Phân tích theo thời hạn cho vay:
- Dư nợ ngắn hạn đến 30/11/03 là 69.466 triệu đồng chiếm 81,4% trên tổng dư nợ, đến 31/12/03 dư nợ ngắn hạn đạt 72.397 tăng 9.368 triệu đồng đồng so với cùng kỳ năm trước.
- Dư nợ trung dài hạn đến 30/11/03 là 15.801 triệu đồng chiếm 18,6% trên tổng dư nợ, đến 31/12/03 dư nợ trung dài hạn đạt 16.487 tỷ đồng tăng 4.265 triệu đồng so với cùng kỳ năm trước.
* Phân tích theo thành phần kinh tế:
- Dư nợ DNNN: 38.720 triệu đồng chiếm 43,56% trên tổng dư nợ.
+ Ngắn hạn: 36.160 triệu đồng.
+ Trung hạn: 2.560 triệu đồng.
- Dư nợ DNNQD: 26.966 triệu đồng chiếm 30,34% trên tổng dư nợ.
+ Ngắn hạn: 20.562 triệu đồng.
+ Trung hạn: 6.404 triệu đồng.
- Dư nợ HTX, hộ gia đình , cá thể, cầm cố tiêu dùng: 23.198 triệu đồng chiếm 26% trên tổng dư nợ.
*Phân tích theo ngành kinh tế.
Dư nợ của ngành SXKD thương nghiệp dịch vụ: 73.897 triệu đồng chiếm 83,14% trên tổng dư nợ. Dư nợ cho vay đời sống trên 4.711 triệu đồng chiếm 5,3% trên tổng dư nợ. Dư nợ cho vay khác: 10.276 triệu đồng chiếm 11,56% trên tổng dư nợ.
* Nợ quá hạn (Thống kê theo mẫu số 3/KHTH)
Nợ quá hạn đến 30/11/03 là 6.400 triệu đồng chiếm 7,2% trên tổng dư nợ, giảm 51,6 triệu đồng so với năm trước.
Toàn bộ số nợ quá hạn trên đều là dư nợ cho vay đời sống, không phải nợ khó đòi chi nhánh sẽ thu hồi trong thời gian tới.
Trong năm 2003 tổng dư nợ cho vay tăng 13.633 triệu đồng so với năm 2002. Trong đó dư nợ ngắn hạn tăng 9.368 triệu đồng, dư nợ trung dài hạn tăng 4.265 triệu đồng. Năm 2003 NHNo&PTNT Ba Đình đã cố gắng phấn đấu đến cuối năm không để dư nợ quá hạn (kế hoạch năm 2002 đã nêu) và đã thực hiện được mục tiêu đề ra.
Dư nợ bình quân 1 cán bộ là 3.173 triệu đồng.
Ngân hàng đã đôn đốc khách hàng trả nợ gốc và lãi đúng hạn.
Với lãi suất cho vay ngắn hạn là 0,8%, dài hạn là 0,86% nếu NHNo&PTNT Ba Đình cố gắng đẩy mạnh dư nợ lên nữa thì sẽ tăng thêm quỹ thu nhập cho ngân hàng.
Bảng cơ cấu dư nợ các năm 2002, 2003
Biểu 2A Đơn vị: triệu đồng.
STT
Chỉ tiêu
Năm 2003
Năm 2002
So sánh số tuyệt đối
Số tiền
Tỷ trọng
Lãi suất%
Số tiền
Tỷ trọng
Lãi suất%
I
Dư nợ cho vay thông thường
88.884
75.251
13.633
A
Dư nợ cho vay thông thường
88.884
75.251
13.633
1
Dư nợ trong hạn
88.884
100
75.251
100
13.633
1.1
Ngắn hạn
72.397
81,5
0,80
63.029
83,8
0,80
9.368
1.2
Trung dài hạn
16.487
22,8
0,86
12.222
19,4
0,86
4.265
2
Dư nợ quá hạn
0
0
0
2.1
Nợ quá hạn do gốc
0
57
0,076
-57
2.2
Nợ quá hạn do lãi
0
0
0
2.3
Nợ khó đòi
0
0
0
C
Dư nợ bình quân /1 cán bộ
3.173
3,6
3,010
4
164
Tổng cộng
0
II
Nợ khoanh
0
0
0
III
Nợ chờ xử lý
0
0
0
IV
Nợ đã xử lý rủi ro
485
181
304
V
Tổng số nợ đã xử lý rủi ro còn đang theo dõi ngoại bảng
622
632
-10
Nguồn “Báo cáo tài chính các năm 2002, 2003 của NHNo&PTNT Ba Đình“.
Lãi suất đầu ra theo cơ cấu dư nợ = (Số tiền * ls từng loại)/ Tổng dư nợ
Lãi suất tính theo tháng ghi trên hợp đồng. Nếu nhiều mức thì tính bình quân cho mỗi loại dư nợ
Bảng tổng kết tài sản các năm 2001, 2002, 2003
Đơn vị: triệu đồng. Biểu 2B
Các chỉ tiêu
2001
2002
2003
Dư cuối kỳ
%
Dư cuối kỳ
%
Dư cuối kỳ
%
1. TM và tiền gửi tại NHNN
2. Cho vay trong nước
57.987
16,80
75.251
20.88
88.884
24
- Cho vay đối với TCTD
57.987
75.251
88.884
- Cho vay đối với các TCKT, cá nhân
+ Cho vay thông thường
- Trong hạn
- Quá hạn
57.860
57.501
359
75.251
75.195
57
88.750
88.750
+ Chiết khấu, cầm cố TP, giấy tờ có giá
127
+ Tín dụng khác
134
3.Tiền lãi CD dự thu
89
0,03
21
0.01
360
0.09
4. Tài sản có khác
287.122
83,17
285.178
79.11
281.140
75.91
Tổng tài sản
345.198
100
360.451
100
370.308
100
Nguồn “Báo cáo tài chính các năm 2001,2002, 2003 của NHNo&PTNT Ba Đình”.
2. Thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt tại NHNo&PTNT Ba Đình.
2.1. Tình hình tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt nói chung tại NHNo&PTNT Ba Đình.
NHNo&PTNT Ba Đình hoạt động tại địa bàn tập trung đông dân cư và có nhiều các tổ chức kinh tế. Thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt qua NHNo&PTNT Ba Đình đối với các chủ thể kinh tế như sau:
* Đối với các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác:
Việc mở tài khoản là yêu cầu bắt buộc đối với các tổ chức kinh tế có đăng ký kinh doanh. Trong tổng số dư của các tài khoản tiền gửi không kỳ hạn tại NHNo&PTNT Ba Đình thì tiền gửi của các tổ chức kinh tế là chủ yếu chiếm trên 90%. Hiện nay nhu cầu gửi tiền vào tài khoản và thực hiện thanh toán qua NHNo&PTNT Ba Đình của các tổ chức kinh tế trên địa bàn chưa cao, trong đó có việc thanh toán không dùng tiền mặt, đây là vấn đề chung của tất cả các NHTM chứ không chỉ riêng NHNo&PTNT Ba Đình, chủ yếu do hạn chế của hệ thống ngân hàng đặc biệt là hệ thống thanh toán liên ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước. Có rất nhiều giao dịch thanh toán giữa các doanh nghiệp không thông qua ngân hàng.
Nhu cầu mở và sử dụng tài khoản trước hết phụ thuộc vào việc ngân hàng có cung cấp được cho khách hàng các hình thức thanh toán và dịch vụ thanh toán thuận lợi, nhanh chóng, an toàn và kinh tế hay không. Đây là yếu tố cơ bản, lâu dài đối với hệ thống NHTM nói chung và NHNo&PTNT Ba Đình nói riêng trong việc thu hút các tổ chức kinh tế mở tài khoản tiền gửi và thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Đặc biệt đối với tình hình thực tế ở nước ta, việc mở và sử dụng tài khoản đối với đại bộ phận người dân còn xa lạ, ngại và chưa quen với giao dịch qua ngân hàng. Nếu việc sử dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt buộc khách hàng phải đi lại nhiều lần hoặc phải hoàn tất các thủ tục nặng nề, phức tạp, rườm rà. Thì khách hàng sẽ không tự nguyện thực hiện các dịch vụ đó.
* Đối với dân cư.
Tại địa bàn quận Ba Đình và rộng hơn là Thủ đô Hà Nội vốn bằng tiền có ở dân cư là rất lớn. Tuy nhiên, việc mở tài khoản và sử dụng tài khoản với đối tượng khách hàng là dân cư ở đây không cao, tiền gửi không kỳ hạn của dân cư mới chỉ chiếm 10% trong tổng số dư của các tài khoản tiền gửi không kỳ hạn tại NHNo&PTNT Ba Đình.
NHNo&PTNT Ba Đình chỉ thực hiện thanh toán trong phạm vi nội địa và thanh toán không dùng tiền mặt được thực hiện gián tiếp thông qua NHNo&PTNT Hà Nội.
Phí thanh toán chuyển khoản mà NHNo&PTNT Ba Đình đang áp dụng như sau:
+ 0,1% đối với khách hàng vãng lai(không mở tài khoản tại NHNo&PTNT Ba Đình) tính trên số tiền thực tế thanh toán qua ngân hàng.
+ Với khách hàng mở tài khoản tại NHNo&PTNT Ba Đình: 3000đ/món nếu thanh toán trong nội tỉnh; 0,06% nếu thanh toán ngoại tỉnh.
Số cán bộ phụ trách công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại NHNo&PTNT Ba Đình là 1 người.
Hình thức thanh toán UNT chỉ áp dụng hạn chế trong việc thu tiền điện, tiền nước,tiền điện thoại,...
Mới sử dụng hình thức thanh toán thẻ ngân hàng.
Thu nhập từ hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt tăng theo năm nhưng rất nhỏ so với tổng thu nhập của ngân hàng.Năm 2001, thu nhập từ dịch vụ thanh toán là 44.635.822đ, trong khi tổng thu nhập của Ngân hàng là 4.383.825.348đ, chiếm1% tổng thu nhập. Năm 2002, thu nhập từ dịch vụ thanh toán là 128.562.878đ, còn tổng thu nhập của Ngân hàng là 7.321.401.458đ, chiếm1,75% tổng thu nhập, đứng áp chót chỉ hơn thu nhập từ kinh doanh ngoại hối. Đến năm 2003, thu nhập từ dịch vụ thanh toán là 200.504.536đ, tổng thu nhập của Ngân hàng là 8.787.943.669đ, chiếm2,28%% tổng thu nhập.
Doanh số thanh toán qua Ngân hàng trong những năm gần đây biến động lên xuống, có năm cao có năm thấp, nhưng khách hàng đang ngày càng để tiền lại trong ngân hàng nhiều hơn.
Hiện nay, thanh toán không dùng tiền mặt ở NHNo&PTNT Ba Đình mới được áp dụng trong nước, còn với quốc tế thì chưa được áp dụng.
Số máy ATM của ngân hàng là 1 chiếc, đặt tại trụ sở chính, chỉ thực sự hoạt động từ 7h sáng tới 7h tối.
Chủ yếu thực hiện thanh toán bù trừ qua NHNN Việt Nam và thanh toán nội bộ hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam.
Các hình thức thanh toán được sử dụng chủ yếu là séc và UNC.
Tóm lại:
NHNo&PTNT Ba Đình đã ý thức được rằng mọi khách hàng khi thực hiện thanh toán qua ngân hàng đều mong muốn ngân hàng phục vụ mình nhanh chóng, chính xác, bảo đảm an toàn với chi phí thấp nhất. Do đó, ngân hàng luôn quan tâm đến công tác này và đã đạt được những kết quả nhất định dù ngân hàng còn có nhiều hạn chế.
2.2 Thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt tại NHNo&PTNT Ba Đình.
Bảng phân tích các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt tại NHNo&PTNT Ba Đình năm 2002.
Đơn vị : triệu đồng
Stt
Các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt
Năm 2002
Số món
Số tiền
Tỷ trọng(%)
I
Séc
356
78.065
23,39
1
+ Séc chuyển khoản
302
68.000
20,37
2
+ Séc bảo chi
54
10.065
3.02
II
ủy nhiệm chi
531
165.000
49,43
III
ủy nhiệm thu
54
39.693,76
11,89
IV
Thư tín dụng
V
Loại khác
319
51.064,24
15,29
Tổng số
1562
333.823
100
Nguồn : “Báo cáo quyết toán năm 2002 của NHNo&PTNT Ba Đình“.
Bảng so sánh các hình thức thanh toán không dung tiền mặt các năm 2001,2002,2003.
Đơn vị triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Số món
Số tiền
Số món
Số tiền
Số món
Số tiền
Séc
165
35.532
356
78.065
402
125.203
Uỷ nhiệm chi
489
110.085
531
165.000
562
195.378
Uỷ nhiệm thu
42
26.764
54
39.693,76
63
41.339
Loại khác
278
63.425
319
51.064,24
321
33.166
Tổng số
974
235.806
1260
333.823
1348
395.086
Nguồn: “Báo cáo quyết toán các năm 2001, 2002, 2003 của NHNo&PTNT Ba Đình“
Qua bảng phân tích các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt các năm chúng ta có thể thấy, trong các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, thì có 2 loại thể thức được dùng nhiều hơn qua Ngân hàng đó là: ủy nhiệm chi, séc thức thư tín dụng được dùng nhiều trong thanh toán quốc tế, thông dụng đối với trường hợp khách hàng khác quốc gia, chưa hiểu rõ về nhau. Thẻ thanh toán tuy xuất hiện trong quy chế thanh toán không dùng tiền mặt nhưng sử dụng được thẻ đòi hỏi phải có kỹ thuật điện tử tin học hiện đại và trình độ dân trí cao nên hình thức này tại ngân hàng chưa phát triển. Trong các hình thức được áp dụng nhiều nhất qua NHNo&PTNT Ba Đình thì chúng ta thấy mỗi hình thức chiếm tỷ trọng khác nhau trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt. Trong đó, ủy nhiệm chi là hình thức chiếm tỷ trọng lớn nhất, 49,4%trong doanh số thanh toán không dùng tiền mặt năm 2002. Bên cạnh đó, lại có hình thức thanh toán chiếm tỷ trọng nhỏ như séc bảo chi, ủy nhiệm thu. Sở dĩ có tình hình như vậy là do các quy định cụ thể của mỗi hình thức thanh toán, mức độ tín nhiệm khác nhau của mỗi hình thức, mức độ tín nhiệm của khách hàng, trình độ trang bị kỹ thuật của Ngân hàng và thói quen sử dụng các hình thức mang tính truyền thống của khách hàng.
Có thể thấy, thanh toán nói chung và thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng của Ngân hàng ngày một tăng và phát triển. Đây chính là một trong những bằng chứng chứng tỏ Ngân hàng dần trở thành trung tâm thanh toán có uy tín trên địa bàn và khu vực. Trên cơ sở đó kiểm soát chặt chẽ tình hình biến động vốn và sử dụng vốn của các doanh nghiệp, các tổ chức đơn vị kinh tế có quan hệ tín dụng với Ngân hàng, làm nền tảng cho việc thực hiện chức năng tạo tiền của Ngân hàng. Bản thân Ngân hàng đã góp phần làm giảm bớt khối lượng tiền mặt trong lưu thông, thực hiện công tác kế hoạch hoá và điều hoà lưu thông tiền tệ, ổn định giá cả trên địa bàn, tránh tình trạng nơi thừa vốn, nơi thiếu vốn trong nền kinh tế. Để thấy được mặt ưu và tồn tại qua đó tìm giải pháp khắc phục, ta đi sâu và phân tích từng hình thức.
Hình thức thanh toán bằng séc.
Trong tất cả các hình thức thanh toán của Ngân hàng thì thể thức nào cũng có mặt ưu điểm và không tránh khỏi những mặt hạn chế của nó. Hình thức thanh toán bằng séc cũng vậy, ưu điểm của hình thức thanh toán này là: thanh toán trực tiếp giữa hai đơn vị mua và bán được sử dụng một cách linh hoạt, thanh toán nhanh gọn, chính xác. Nhưng trong hai loại séc đang sử dụng là séc chuyển khoản và séc bảo chi thì tại Ngân hàng khách hàng sử dụng séc chuyển khoản nhiều hơn nhiều so với séc bảo chi. Sau đây là bảng phân tích tình hình sử dụng hai loại séc này tại NHNo&PTNT Ba Đình.
Bảng phân tích tình hình sử dụng séc năm 2001,2002
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Số món
Tỷ
trọng (%)
Số tiền
Tỷ
trọng (%)
Số món
Tỷ trọng (%)
Số tiền
Tỷ trọng (%)
Séc chyểnkhoản
Séc bảo chi
Tổng cộng
121
44
165
73,34
26,66
100
29.120
6.412
35.532
81,96
18,04
100
302
54
356
84,83
15,16
100
68.000
10.065
78.065
87,10
12,90
100
Nguồn: “Báo cáo quyết toán các năm 2001,2002“
Thanh toán séc là hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trực tiếp giữa người mua và người bán (Sau khi nhận hàng người phát hành séc sẽ giao séc trực tiếp cho người thụ hưởng), như vậy là hình thức thanh toán này gắn liền với sự vận động của hàng hoá. Nhìn vào bảng trên ta thấy hình thức thanh toán bằng séc so với các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt khác đứng thứ hai về doanh số thanh toán, chỉ sau ủy nhiệm chi. Như vậy, hình thức thanh toán séc đang dần được khách hàng sử dụng khá nhiều trong thanh toán hàng hoá, dịch vụ. Với việc lấy Nghị định 30/CP của Chính phủ và Thông tư hướng dẫn 07/TT - NH1 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam làm cơ sở cho việc phát hành và thanh toán séc, NHNo&PTNT Ba đình đã cố gắng mở rộng quy mô sử dụng séc trong khách hàng. Thực tế, trong các năm 2001và 2002, khối lượng thanh toán séc chưa cao song năm 2003 lại tăng mạnh, đặc biệt là séc chuyển khoản.
*Thanh toán bằng séc chuyển khoản:
Séc chuyển khoản do chủ tài khoản phát hành để trả trực tiếp cho người thụ hưởng. Séc chuyển khoản chỉ được áp dụng thanh toán trong phạm vi giữa các khách hàng có tài khoản ở cùng một chi nhánh ngân hàng, Kho bạc nhà nước hoặc khác chi nhánh ngân hàng, Kho bạc Nhà nước nhưng các chi nhánh này có tham gia thanh toán bù trừ trên địa bàn tỉnh, thành phố. Trong Bảng số liệu trên tình hình thanh toán bằng séc chuyển khoản trong năm 2001 đạt 121 món chiếm 73,34% tổng số món thanh toán séc, với số tiền 29.120 triệu đồng chiếm 81,96% tổng giá trị thanh toán séc của Ngân hàng . Sang đến năm 2002, số món thanh toán séc chuyển khoản tăng so với năm 2001 là 181 món với số tiền đạt 68.000 triệu đồng chiếm 87,1 % tổng giá trị thanh toán bằng séc. Số liệu cho thấy, so với tổng giá trị thanh toán không dùng tiền mặt thì thanh toán bằng séc chiếm một tỷ lệ khiêm tốn (năm 2002 séc chuyển khoản chiếm 20,37% tổng giá trị thanh toán không dùng tiền mặt, nhưng với tốc độ phát triển cao như vậy hình thức thanh toán séc chuyển khoản sẽ còn phát triển mạnh trong tương lai. Thực tế, năm 2003, thanh toán bằng séc chuyển khoản đã chiếm tới 28,47% tổng giá trị thanh toán không dùng tiền mặt.
* Thanh toán bằng séc bảo chi:
Tại Ngân hàng năm 2001, số món thanh toán bằng séc bảo chi đạt 44 món với số tiền đạt được là 6.412 triệu đồng chiếm 26,66% tổng số món séc. Năm 2002, số món thanh toán bằng séc bảo chi có nhiều hơn so với năm 2001 thể hiện số món thanh toán séc bảo chi đạt 54 món, với số tiền đạt 10.065 triệu đồng, cao hơn so với năm 2001 là 3.653 triệu đồng. Qua đó cho thấy séc bảo chi được sử dụng ít hơn séc chuyển khoản, nhưng đối với người thụ hưởng, thì séc bảo chi chắc chắn về khả năng thanh toán nên nó vẫn được một số người ưa thích.
Thanh toán bằng séc bảo chi người thụ hưởng không bị ứ đọng vốn. Đối với những người thanh toán cùng mở tài khoản tại một ngân hàng hoặc khác ngân hàng cùng hệ thống, người thụ hưởng được ghi Có ngay trong ngày nộp séc bảo chi.
Muốn sử dụng séc bảo chi khách hàng chỉ cần làm hai thủ tục là: làm 2 liên giấy yêu cầu bảo chi séc và cắt séc gửi đến ngân hàng, sẽ được ngân hàng bảo chi cho sau khi ngân hàng đã kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của tờ séc, mẫu dấu của tờ séc, số dư trên tài khoản tiền gửi. Nếu đủ điều kiện ngân hàng sẽ làm thủ tục bảo chi séc, ghi ngày tháng bảo chi séc, ký tên đóng dấu ngân hàng mình và đóng dấu ”đã bảo chi” vào mặt trước của tờ séc sau đó giao cho khách hàng. Quá trình hạch toán séc bảo chi tiến hành như đã trình bày ở chương I.
Một số hạn chế của séc bảo chi ngoài những thuận tiện kể trên thì séc bảo chi chưa được thanh toán với khách hàng khác địa phương, khác hệ thống mà khách hàng phải thông qua séc chuyển tiền từ đó nhận séc bảo chi để thanh toán cho người bán. Điều này gây khó khăn cho người mua để thanh toán cho người bán, do đó thể thức thanh toán này không được phổ biến trong việc chi trả thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ.
2.2.2. Hình thức thanh toán ủy nhiệm chi.
* Uỷ nhiệm chi:
Khảo sát số liệu ta thấy ủy nhiệm chi là hình thức thanh toán chiếm tỷ trọng lớn nhất và có xu thế ngày càng tăng. Cụ thể, năm 2001, doanh số thanh toán bằng ủy nhiệm chi chiếm tỷ trọng 38,7% tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt, năm 2002 hình thức này chiếm tới 49,43% tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt . Nguyên nhân dẫn đến thanh toán bằng ủy nhiệm chi đạt được doanh số như trên là do có những ưu điểm hơn các hình thức thanh toán khác như: Phạm vi thanh toán rộng, được dùng để trả tiền hàng hoá, dịch vụ và thanh toán khác, chuyển vốn trong cùng hệ thống hoặc khác hệ thống, khác ngân hàng trên cùng địa bàn tham gia thanh toán bù trừ, thủ tục thanh toán khá là đơn giản, dễ sử dụng, người mua chỉ cần viết giấy ủy nhiệm chi gửi đến ngân hàng phục vụ mình để thanh toán cho người được hưởng. Việc thanh toán chi trả cũng rất nhanh chóng và thuận tiện.
Tại NHNo&PTNT Ba Đình thực hiện thanh toán khi: Khách hàng trả tiền nộp ủy nhiệm chi và sau khi kiểm soát xong.
+ Nếu hai bên mua, bán có tài khoản tại Ngân hàng thì được chi trả ngay lập tức.
+ Nếu khách hàng được hưởng mở tài khoản tại ngân hàng khác, khác địa phương nhưng cùng hệ thống cũng được chuyển trả kịp thời trong ngày. Thậm chí chỉ trong vài giờ đồng hồ. Vì hiện nay hệ thống ngân hàng đã thực hiện việc chuyển trả tiền qua hệ thống mạng máy tính rất kịp thời, chính xác và an toàn.
Ngoài ra thanh toán bằng ủy nhiệm chi hơn séc ở chỗ: với ủy nhiệm chi người mua lấy hàng rồi mới gửi ủy nhiệm chi tới ngân hàng phục vụ mình, nếu tài khoản không đủ dư tiền gửi để thanh toán, thì ngân hàng chỉ trả lại cho khách hàng mà không có xử lý gì.
Thanh toán bằng ủy nhiệm chi đảm bảo quyền lợi cho cả bên mua và bên bán có thể kiểm soát hàng hoá về số lượng cũng như về chất lượng cung ứng trước khi trả tiền. Do hình thức này thường được áp dụng chủ yếu khi bên bán tin tưởng vào khả năng thanh toán của bên mua nên hàng được giao trước.
Tuy nhiên, thể thức ủy nhiệm chi cũng có những tồn tại bởi vì: Thể thức này chỉ áp dụng giữa hai đơn vị tín nhiệm lẫn nhau và dùng để thanh toán hàng hóa hay dịch vụ đã hoàn thành. Vì thế bản thân nó chứa đựng chiếm dụng vốn lẫn nhau dẫn đến hiện tượng tín dụng thương mại gây rủi ro, thiệt thòi cho khách hàng bán. Mặc dù có những mặt hạn chế nhưng thể thức thanh toán này luôn đứng đầu về doanh số cũng như về số món thanh toán trong suốt thời gian qua và sẽ còn phát triển nhiều hơn nữa trong năm 2004 và trong tương lai.
2.2.3. Hình thức thanh toán ủy nhiệm thu hoặc nhờ thu.
Có thể thấy ngay tình hình thanh toán bằng ủy nhiệm thu qua các năm của Ngân hàng chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thanh toán không dùng tiền mặt.
Thực tế cho thấy, tại Ngân hàng, hình thức thanh toán này chỉ áp dụng đối với khoản chi phí dịch vụ có tính chất định kỳ thường xuyên như: tiền điện, tiền thuê nhà, nước, của các tổ chức kinh tế trên cùng địa bàn tỉnh, thành phố hoặc các khoản tiền thu bán hàng do người bán và người mua thỏa thuận trước, khi đã có sự tin cậy lẫn nhau, cho nên nó ít được sử dụng.
Thanh toán bằng ủy nhiệm thu chứng từ luân chuyển qua nhiều khâu và thực hiện bằng hình thức ghi Nợ trướcvà ghi Có sau. Nếu ủy nhiệm thu thanh toán tiền hàng với khách hàng có tài khoản ở cùng ngân hàng với đơn vị bán thì quá trình đơn giản, nhanh chóng hơn, khách hàng chỉ cần nộp ủy nhiệm thu theo mẫu in sẵn của Ngân hàng Nhà nước kèm hoá đơn thanh toán, sau khi nhân viên kế toán giao dịch kiểm tra tính hợp lệ của chứng từ ủy nhiệm thu và tài khoản bên mua đủ tiền thì tiến hành ghi Nợ vào tài khoản bên mua và ghi Có vào tài khảo đơn vị bán. Nhưng trong trường hợp hai bên mở tài khoản ở hai ngân hàng khác nhau, ủy nhiệm thu sẽ được gửi sang ngân hàng bên mua bằng phương thức thanh toán điện tử hay bằng phương thức thanh toán bù trừ. Sau khi ngân hàng bên mua ghi Nợ vào tài khoản bên mua, chứng từ ủy nhiệm thu quay về ngân hàng bên bán mới ghi Có vào tài khoản bên bán.
Do sự phức tạp về quy trình thanh toán nên ủy nhiệm thu ít được các tổ chức kinh tế, các cá nhân sử dụng một cách rộng rãi. Chính vì vậy khối lượng thanh toán ủy nhiệm thu qua Ngân hàng như sau: năm 2001 số món thanh toán ủy nhiệm thu đạt 42 món với số tiền 26.764 triệu đồng chiếm 11,35% tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt, năm 2002 là 39.693,76 triệu đồng với 54 món chiếm 11,89% tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt.
2.3 Đánh giá về thanh toán không dùng tiền mặt tại NHNo&PTNT Ba Đình
2.3.1. Thuận lợi.
Về mặt kỹ thuật, đến nay NHNo&PTNT Ba Đình đã được trang bị hệ thống mạng máy vi tính nối mạng với NHNo&PTNT Hà Nội tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và công tác thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng. Nhiều ứng dụng công nghệ tin học đã được áp dụng trong các nghiệp vụ ngân hàng, thanh toán bù trừ, thanh toán nội bộ giữa các ngân hàng, thông tin báo cáo phục vụ cho công tác quản lý và các nghiệp vụ khác. công nghệ tin học cũng đã được áp dụng rộng rãi trong chuyển tiền điện tử, thông tin phòng ngừa rủi ro, thanh toán giám sát từ xa vì thế tốc độ chu chuyển rất nhanh giảm thời gian đọng vốn trong thanh toán, rút ngắn đáng kể thời gian chờ đợi của khách hàng, đảm bảo bí mật, an toàn và chính xác.
Hệ thống ngân hàng cấp trên cũng đã xây dựng mới và sửa đổi các văn bản quy tắc nghiệp vụ phù hợp với điều kiện ứng dụng kỹ thuật mới, phù hợp với thông lệ quốc tế nhưng vẫn đảm bảo được tính chặt chẽ và thông thoáng.
Nhận thức được tầm quan trọng của yếu tố con người quyết định mọi hoạt động của ngân hàng, NHNo&PTNT Ba Đình đã đặc biệt coi trọng việc tạo nguồn nhân lực để đảm bảo vận hành có hiệu quả hoạt động của ngân hàng trong giai đoạn hiện nay và đáp ứng nhu cầu phát triển trong tương lai. Trên cơ sở tổ chức biên chế sẵn có NHNo&PTNT Ba Đình đã đào tạo lại và phân công công tác hợp lý nên đã đáp ứng được các nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
Hệ thống thanh toán trong nội bộ ngân hàng hiện nay tương đối phát triển so với trước đây. Thanh toán qua hệ thống máy vi tính khá hoàn chỉnh và thực hiện quyết toán ngay trong ngày đối với các khoản chuyển tiền trong nội bộ hệ thống.
Ngân hàng NHNo&PTNT Ba Đình hoạt động trên địa bàn quận Ba Đình và rộng hơn là trên phạm vi Thủ đô Hà Nội. Đây là khu vực có trình độ dân trí cao nên người dân dễ tiếp thu những tiến bộ mới nhất của xã hội, mà một trong những tiến bộ đó là sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Đồng thời, người dân ở đây có mức thu nhập cao nên việc đến với thanh toán không dùng tiền mặt tương đối dễ dàng hơn.
Hoạt động thương mại phát triển tạo môi trường thuận lợi cho công tác thanh toán không dùng tiền mặt phát triển. Thủ đô Hà Nội là một thành phố có hơn 4 triệu dân nên sức tiêu thụ rất lớn, lại là nơi tập trung rất nhiều các khu công nghiệp, các công ty, nên hoạt động thương mại diễn ra rất sôi động, do đó, lưu lượng thanh toán là rất lớn. Đây là điều kiện thuận lợi để ngân hàng NHNo&PTNT Ba Đình phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.
2.3.2. Kết quả đạt được.
Qua việc phân tích, đánh giá thực trạng thanh toán nói chung và thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng của NHNo&PTNT Ba Đình những năm gần đây ta có thể thấy rằng : mặc dù phải đối mặt với nền kinh tế sôi động, chịu sự cạnh tranh gay gắt của các tổ chức khác trên địa bàn nhưng NHNo&PTNT Ba Đình đã và đang từng bước khẳng định vị trí, vai trò của mình trong nền kinh tế. Với sự quyết tâm của ban Giám đốc cùng tập thể cán bộ công nhân viên nên Ngân hàng đã dần vượt qua được những khó khăn trở ngại của buổi đầu hoạt động, giành thế chủ động hoà nhập với nền kinh tế thị trường, hoàn thành tốt nhiệm vụ đặt ra, góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của thanh toán không dùng tiền mặt NHNo&PTNT Ba Đình đã chủ động đề nghị NHNo&PTNT Hà Nội đầu tư hiện đại hoá trang thiết bị, đưa công nghệ thông tin vào phục vụ công tác thanh toán tại Ngân hàng. Đồng thời, tích cực ứng dụng tin học vào hoạt động của Ngân hàng , từng bước xây dựng Ngân hàng theo hướng hội nhập và hiện đại hóa như tham gia thanh toán điện tử liên ngân hàng, đưa hệ thống máy ATM vào hoạt động và cải tiến báo Có qua mạng SWIFT. Do vậy, đã căn bản thực hiện chuyển đổi công tác thanh toán từ phương pháp thủ công sang phương pháp tin học, hiện đại. Chuyển hẳn từ thanh toán bằng thư qua bưu điện hoặc điện thoại sang phương thức thanh toán qua mạng vi tính, đảm bảo an toàn, chính xác, thuận lợi...
Song song với việc hiện đại hoá về mặt vật chất, NHNo&PTNT Ba Đình không ngừng nâng cao trình độ cán bộ nghiệp vụ thanh toán, trình độ khoa học để làm chủ công nghệ mới và phong cách làm việc theo hướng cải cách hành chính cho phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của cơ chế thị trường.
Hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt thực hiện có hiệu quả tại chi nhánh NHNo&PTNT quận Ba đình đã góp phần vào kết quả hoạt động chung của toàn bộ hệ thống NHNo&PTNT VN.
Hoạt động thanh toán của Chi nhánh ngày càng thu hút nhiều khách hàng đến mở tài khoản và giao dịch tại chi nhánh. Những nghiệp vụ phát sinh được hạch toán kịp thời, chính xác. Thực hiện nghiêm túc các quy chế về chứng từ, quỹ đảm bảo thanh toán, quỹ tiền mặt và khả năng thanh toán, chính vì vậy luôn được khách hàng tín nhiệm.
Đơn vị: triệu đồng
Doanh số thanh toán không dùng tiền mặt qua các năm không ngừng tăng lên. Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng phát huy được ưu thế.
Thanh toán không dùng tiền mặt trong năm vừa qua đã đạt những kết quả đáng khích lệ thanh toán không dùng tiền mặt chiếm trên 85%/ tổng thanh toán. Năm 2003, doanh số thanh toán không dùng tiền mặt là 2.798.722 triệuVND chiếm 86,13%tổng doanh số thanh toán.
2.3.3. Hạn chế và nguyên nhân dẫn đến hạn chế.
* Hạn chế:
- Chi nhánh không được trực tiếp thanh toán bù trừ với các ngân hàng khác mà phải thông qua NHNo&PTNT Hà Nội mà nguyên nhân là do NHNo&PTNT Ba Đình là một đơn vị hạch toán phụ thuộc NHNo&PTNT Hà Nội và điều kiện về quản lý và kỹ thuật chưa cho phép.
- Chưa nối mạng giữa Ngân hàng với các khách hàng lớn và truyền thống mà nguyên nhân chủ yếu là chưa có điều kiện thuận lợi cả về vốn lẫn cộng nghệ. Khách hàng có tài khoản tại ngân hàng khi muốn biết những thông tin về tài khoản của mình thì phải gọi điện thoại tới ngân hàng để nhờ các nhân viên ngân hàng cung cấp các thông tin này chứ chưa thể theo dõi trực tiếp thông qua hệ thống mạng vi tính. Đây là một hạn chế mà ngân hàng NHNo&PTNT Ba Đình cần kiến nghị với ngân hàng NHNo&PTNT Hà Nội và NHNo&PTNT Việt Nam để khắc phục trong thời gian sớm nhất bởi vì trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt giữa các ngân hàng hiện nay, một số ngân hàng như VIETCOMBANK đã đi trước trong vấn đề này.
- Chưa nối mạng trực tiếp giữa các hệ thống ngân hàng với nhau. Đây còn là hạn chế chung của tất cả các ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
- Các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt hiện tại ở Việt Nam còn nhiều bất cập, trong quá trình thực hiện còn cần nhiều chứng từ và thủ tục không cần thiết gây chậm trễ cho quá trình thanh toán.
- Các văn bản pháp lý về thanh toán không dùng tiền mặt vẫn còn thiếu và chưa phù hợp nên chưa tạo môi trường và hành lang vững chắc cho hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt.
- Công nghệ thanh toán của Ngân hàng chưa hiện đại so với một vài ngân hàng khác hoạt động trên cùng địa bàn.
- Vì là một đơn vị hạch toán phụ thuộc NNNo&PTNT Hà Nội nên NNNo&PTNT Ba Đình chưa chủ động trong việc thực hiện các giải pháp để mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt của mình.
*Nguyên nhân:
- Nền kinh tế của Việt Nam chưa phát triển dẫn đến thu nhập của dân cư nhìn chung còn thấp(GDP bình quân đầu người chỉ gần 400 USD/năm) vì thế việc mở tài khoản tiền gửi cá nhân phần lớn hiện nay chỉ là hình thức. Các NHTM nói chung và NHNN&PTNT Ba Đình nói riêng đã vận động các cán bộ, nhân viên của mình mở tài khoản - đây là những người hiểu biết rõ lợi ích của việc làm này nên cán bộ - công nhân viên đã hưởng ứng 100% song do tiền lương chỉ đủ chi tiêu cho nhu cầu tối thiểu hàng ngày nên sau khi nhập lương vào tài khoản là các “chủ tài khoản” lập tức rút tiền mặt do đó không đem lại hiệu quả cho thanh toán không dùng tiền mặt.
- Do một thời gian dài sống trong nền sản xuất nhỏ tạo cho các tầng lớp dân cư tâm lý ưa thích tiền mặt, khi giao dịch muốn sở hữu ngay, cầm chắc trong tay số tiền thanh toán. Thói quen sử dụng tiền mặt là một thói quen lâu đời của người Việt Nam do đó khó có thể thay đổi trong “một sớm, một chiều” được.
- Trình độ người dân nhìn chung còn chưa cao, không biết hoặc biết rất ít về các hoạt động của ngân hàng.
- Hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt mới chỉ được sử dụng phần nhiều ở các doanh nghiệp quốc doanh, công ty cổ phần, các doanh nghiệp tư nhân lớn và các cơ quan nhà nước. Khu vực tư nhân gần như nằm ngoài quá trình thanh toán không dùng tiền mặt, mà đây là một thị trường nhiều tiềm năng và rộng lớn, chiếm 70% thu nhập quốc dân.
- NHNo&PTNT Ba Đình mới được thành lập và đi vào hoạt động nên vẫn còn đang trong quá trình hoàn thiện cơ cấu tổ chức, chương trình hoạt động, khai thác và tìm kiếm thị trường. Do đó, phần nào cũng ảnh hưởng đến công tác thanh toán nói chung và thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng của Ngân hàng.
- Nhà nước chưa có các chính sách phối kết hợp các ngành có liên quan trong quá trình thanh toán để đưa thanh toán không dùng tiền mặt trở thành hình thức thanh toán có tính “xã hội hoá” cao. (Hiện nay, các cơ quan, doanh nghiệp mới chỉ coi tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt là trách nhiệm riêng của ngân hàng).
- Mặc dù, trong những năm qua, Chính phủ cũng như NHNo&PTNT Việt Nam đã ban hành nhiều nghị định, nghị quyết về công tác tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt nhưng vẫn chưa đạt đến sự thống nhất, hoàn thiện, còn gây nhiều bất cập trong thanh toán. Bản thân các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt cũng chưa thật sự thuận tiện để người dân có thể dễ dàng sử dụng.
- Công tác tuyên truyền, quảng cáo của Ngân hàng còn hình thức, chưa hiệu quả, còn ở trong tình trạng “đợi khách” chứ chưa thực sự tiếp cận, lôi cuốn khách hàng bằng phương pháp Marketing thiết thực, đó cũng là nguyên nhân làm hạn chế sự hiểu biết của dân chúng về Ngân hàng.Từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của thanh toán không dùng tiền mặt.
- Bên cạnh đó, việc tổ chức phục vụ thanh toán không dùng tiền mặt của hệ thống ngân hàng ở nước ta còn lạc hậu... Các ngân hàng hầu như chỉ bó hẹp sự giao dịch trong hệ thống của mình, việc hợp tác giữa các ngân hàng thiếu đồng bộ... Từ đó dẫn đến tốc độ thanh toán chậm, thủ tục thanh toán rườm rà.
Hệ thống cơ sở hạ tầng liên quan đến các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt chưa phát triển tương xứng cũng ảnh hưởng đến kết quả thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng, đặc biệt là đối với công tác thanh toán bằng thẻ.
- Thiếu vốn, công nghệ lạc hậu và trình độ quản lý của người Việt Nam nhìn chung là còn kém.
- Thị trường chứng khoán ở Việt Nam chưa phát triển. Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán. Khối lượng giao dịch trên thị trường này là rất lớn và chủ yếu thực hiện thanh toán qua chuyển khoản do đó sẽ thúc đẩy rất lớn tới thanh toán không dùng tiền mặt của các ngân hàng. Thị trường chứng khoán phát triển cũng sẽ đẩy mọi người gần gũi hơn với các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, nó có tác dụng tuyên truyền sâu rộng thanh toán không dùng tiền mặt cho mọi người. Khi thị trường chứng khoán phát triển, các doanh nghiệp phải công khai tình hình tài chính của mình cho các cổ đông và phải tạo niềm tin cho các nhà đầu tư với hi vọng tăng giá trị của doanh nghiệp trên thị trường mà việc đầu tiên nên làm mà ai cũng biết đó là thực hiện giao dịch qua hệ thống tài khoản trong ngân hàng.
Chương 3: Giải pháp nhằm mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt tại Nhno&ptnt ba đình.
1. Định hướng của Ngân hàng trong thời gian tới về công tác thanh toán không dùng tiền mặt.
- Hạn chế cho vay bằng tiền mặt, tăng cường cho vay bằng chuyển khoản.
- Mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ chuyển tiền nhanh WU.
- Khuyến khích sử dụng tài khoản cá nhân.
- Tham gia hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng.
- Nối mạng với các khách hàng lớn hoặc khách hàng truyền thống để thực hiện các giao dịch qua mạng.
- Mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt ở các phòng giao dịch.
- Nâng cao trình độ nghiệp vụ và chuyên môn của các cán bộ phụ trách phần thanh toán không dùng tiền mặt.
2. Giải pháp mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt tại NHNo&PTNT Ba Đình.
- Giải pháp về lãi xuất.Có mức lãi suất linh hoạt để kích thích người dân sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và sử dụng các tại khoản cá nhân.
Giải pháp về sản phẩm.
+ Công bố, đa dạng hóa và phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Đối với mỗi hình thức thì có một mức phí phù hợp để khuyến khích người dân sử dụng.
+ Cung cấp thêm các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt mở rộng.
+ Nâng cao chất lượng phục vụ của các phòng giao dịch, cho phép các phòng giao dịch thực hiện tất cả các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.
- Giải pháp phát triển thị trường.
+ Kết hợp với các siêu thị, trung tâm thương mại. Các siêu thị hiện nay còn ít và hàng hoá bán ra lại chủ yếu thu bằng tiền mặt, nhưng trong tương lai gần khi nền kinh tế phát triển đến một mức độ nhất định thì các siêu thị sẽ xuất hiện ngày một nhiều và sẽ chiếm ưu thế tại các đô thị lớn. Đây là thời cơ để các ngân hàng thương mại có điều kiện mở rộng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt đối với khách hàng. Khi phần lớn hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt được chấp nhận rộng rãi thì việc đầu tư trang thiết bị phục vụ cho công việc thanh toán sẽ trở nên rất có lợi, do đó các siêu thị, trung tâm thương mại sẽ rất sẵn sàng hợp tác với các ngân hàng thương mại trong việc thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt.
+ Tiếp cận các trường đại học, các khu công nghiệp trên địa bàn mà ngân hàng hoạt động. Các trường đại học và các khu công nghiệp là những nơi tập trung nhiều người từ nhiều vùng khác nhau đến học tập và làm việc. Nhu cầu về chuyển tiền giữa họ và gia đình là rất lớn và thường xuyên. Nếu khai thác được nhu cầu của các đối tượng này thì ngân hàng có thể có được một khoản thu nhập đáng kể thông qua việc thu phí chuyển tiền. NHNo&PTNT Ba Đình nằm trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam, nên có thể tận dụng mạng lưới các chi nhánh rộng khắp trên toàn quốc của NHNo&PTNT Việt Nam.
+ Tăng cường làm đại lý thanh toán cho các ngân hàng khác.
+ Tăng cường tuyên truyền và quảng cáo. Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng hiện nay thì tuyên truyền và quảng cáo ngày càng quan trọng, được rất nhiều ngân hàng ưa chuộng và sử dụng để đánh bóng hình ảnh của mình. NHNo&PTNT Ba Đình nên chú trọng tới vấn đề này để có sự đầu tư thích đáng. Để thực hiện giải pháp này ngân hàng có thể sử dụng các hình thức như phát tờ rơi, thông báo trên hệ thống loa phát thanh, các nhân viên giao dịch có thể đồng thời đóng vai trò của các nhân viên tiếp thị giải thích và hướng dẫn cho khách hàng về các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp trong khi giao dịch với khách hàng
- Giải pháp về con người. Cho các cán bộ nhân viên phụ trách mảng thanh toán không dùng tiền mặt đi tập huấn về các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt mới ở ngân hàng cấp trên như dịch vụ chuyển tiền nhanh WU.
3. Kiến nghị.
2.1. Đối với Chính phủ.
- Trả lương cho cán bộ công nhân viên thông qua hệ thống tài khoản. việc làm này có tác dụng hướng người dân bước đầu làm quen với việc sử dụng hệ thống tài khoản của ngân hàng từ đó tạo ra thói quen sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.
- Có các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp giao dịch thông qua hệ thống tài khoản tại ngân hàng. Đưa ra giới hạn về quỹ tiền mặt mà các doanh nghiệp được phép duy trì tùy theo quy mô của các doanh nghiệp và lĩnh vực mà doanh nghiệp hoạt động. Phần tiền còn lại phải đưa vào các tài khoản ở trong các ngân hàng. Trước đây, ta cũng đã thực hiện việc làm này nhưng do có một thời kì tiền mặt khan hiếm , hệ thống thanh toán của các ngân hàng yếu kém nên việc rút tiền mặt từ ngân hàng khó khăn làm cho các tổ chức kinh tế luôn thiếu tiền mặt để chớp các cơ hội đầu tư nên Chính phủ đã bỏ lỏng hình thức này nhằm tạo sự linh hoạt cho các doanh nghiệp. Hiện nay, tình hình đã thay đổi, các doanh nghiệp có thể rút tiền ra khỏi hệ thống ngân hàng bất cứ lúc nào hoặc có thể thanh toán chuyển khoản dễ dàng, do đó giải pháp này đã có tính khả thi.
- Xây dựng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý hoàn chỉnh cho thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam. Hiện nay, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam còn chưa hoàn chỉnh và có nhiều bất cập gây khó khăn cho việc thanh toán không dùng tiền mặt của các ngân hàng.
- Trả tiền điện, nước, nhà, thuế thông qua hệ thống tài khoản của ngân hàng. Tại nước ta trước đây đã có một thời, ở một số nơi, việc thanh toán tiền điện, nước đã được thực hiện qua ngân hàng nhưng sau này do nhu cầu tiền mặt tăng lên trong khi đó tiền mặt lại khan hiếm, khó rút ra tại ngân hàng nên việc thanh toán tiền điện, nước qua ngân hàng bị giảm sút đây là một thực tế mà chúng ta cần rút kinh nghiệm. Việc tổ chức thu tiền điện, nước, nhà, thuế thông qua hệ thống ngân hàng bằng cách Chính phủ yêu cầu các cơ quan đó phải thu tiền qua ngân hàng và yêu cầu người, đơn vị thanh toán nộp tiền thanh toán vào một ngân hàng thuận tiện nhất. Điều này vừa tạo điều kiện cho người nộp tiền không phải đến cơ quan thu tiền của các tổ chức nói trên để nộp tiền hay phải trực tại nhà để trả tiền mặt trực tiếp qua người đi thu. Cơ quan thụ hưởng cũng tiết kiệm được chi phí phí đi thu tiền đến từng hộ gia đình, từng cơ quan. Các ngân hàng quản lý các tài khoản của các cơ quan nói trên có thể sử dụng được số tiền gửi của các cá nhân, cơ quan này để tài trợ các khoản tín dụng ngắn hạn cho nền kinh tế mà khối lượng tiền mặt thanh toán cũng ít đi giảm được chi phí in ấn, vận chuyển, kiểm đếm cho các ngân hàng nói chung và cho Ngân hàng Nhà nước nói riêng.
Hiện nay các ngân hàng đã có dịch vụ thu tiền tại nhà vì thế có thể thực hiện giải pháp này nhằm giảm bớt chi phí về thời gian và tiền bạc của khách hàng. Do đó, khuyến khích người dân sử dụng hệ thống tài khoản của ngân hàng nói chung và hình thức thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng. Đồng thời tạo ra sự quản lý tập trung và tạo ra mối liên hệ mật thiết giữa ngành ngân hàng với ngành thuế.
- Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp đồng thời có các biện pháp để thúc đẩy sự hoạt động của thị trường chứng khoán trong đó có các văn bản hướng dẫn thi hành cụ thể. Các giao dịch trên thị trường chứng khoán thường có giá trị lớn và giao dịch chủ yếu thông qua việc trích chuyển khoản giữa các tài khoản nên một thị trường chứng khoán sôi động là điều kiện tốt để mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt.
2.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
- Hợp tác nghiên cứu và tiếp thu công nghệ của nước ngoài để có thể liên kết các máy ATM của hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam với các máy ATM của hệ thống ngân hàng khác. Đây là giải pháp đôi bên cùng có lợi, vừa có lợi cho chính hệ thống ngân hàng NHNo&PTNT Việt Nam vừa mang lại hiệu quả cao cho cả hệ thống ngân hàng ở Việt Nam bởi vì sẽ tiết kiệm được chi phí trang bị, lắp đặt sửa chữa hệ thống và mở rộng được phạm vi hoạt động của mỗi ngân hàng mà không cần tăng thêm số lượng máy của mình.Có những nơi các máy ATM của hai hệ thống ngân hàng đặt rất gần nhau gây lãng phí nhưng cũng có những nơi, người có nhu cầu sử dụng máy lại phải đi rất xa mới có thể tìm được đúng máy của ngân hàng mình. Đồng thời, việc làm trên mang lại tính đồng bộ trong hệ thống ngân hàng ở Việt Nam tạo thuận lợi cho công việc quản lý, thống kê và bảo mật.
- Tăng cường hợp tác với WB và các tổ chức tín dụng quốc tế khác để tiếp thu các công nghệ mới và phương pháp mới trong quản lý ngân hàng. Ngành ngân hàng ở nước ta đang trong quá trình hiện đại hóa. Tuy đã đạt được một số thành tựu quan trọng song so với công nghệ ngân hàng của thế giới thì công nghệ ngân hàng ở nước ta còn tương đối lạc hậu, khoảng cách so với công nghệ ngân hàng của nước ta so với các nước phát triển lạc hậu tới vài chục năm. Do đó, việc tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng để tiếp thu công nghệ mới là một việc làm vô cùng cần thiết. Nếu làm tốt vấn đề này, nền công nghệ ngân hàng nước ta có thể rút ngắn rất nhiều so với trình độ chung của thế giới, tạo tiền đề để nước ta có một nền công nghệ ngân hàng phát triển ngang bằng với sự phát triển của công nghệ ngân hàng của các nước tiên tiến nhất.
- Sửa đổi hệ thống chứng từ giao dịch để cho phù hợp với dịch vụ chuyển tiền nhanh WU. Hiện nay, WB đã tài trợ hàng trăm triệu đô la giúp Việt Nam hiện đại hóa hệ thống ngân hàng, trong đó tiêu biểu là giúp các ngân hàng ở Việt Nam triển khai cung cấp dịch vụ chuyển tiền nhanh WU. Tuy nhiên, những công nghệ này đang gặp một số vấn đề mà chủ yếu là do chưa tương thích với hệ thống chứng từ kế toán đang được sử dụng ở Việt Nam. Do vậy trong tương lai, ngành ngân hàng nên nghiên cứu để sửa đổi lại hệ thống chứng từ kế toán sao cho vừa đáp ứng được đòi hỏi của các công nghệ mới vừa phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam mà trước tiên là hệ thống chứng từ thanh toán để phù hợp với công nghệ của dịch vụ chuyển tiền nhanh WU.
- Hiện đại hóa công nghệ thanh toán của ngân hàng. Đầu tư để mua mới các thiết bị hiện đại và các công nghệ thanh toán tiên tiến trên thế giới cho toàn bộ hệ thống ngân hàng, trong đó ưu tiên cho các hệ thống ngân hàng lớn trước. Thuê các chuyên gia ngân hàng có uy tín sang Việt Nam làm việc đồng thời tổ chức cho các cán bộ ngân hàng đi học ở nước ngoài. Đây là một giải pháp có tính lâu dài và cần có các kế hoạch cụ thể để thực hiện từng bước một.
2.3. Đối với NHNo&PTNT Việt Nam.
- Mở thêm nhiều địa điểm đặt máy ATM. Giải pháp này tuy cần một lượng đầu tư ban đầu lớn song tác dụng và hiệu quả của nó sẽ được phát huy trong thời gian dài, đặc biệt sẽ rất mạnh khi uy tín của ngân hàng lên cao. Đồng thời nó cũng làm tăng thêm uy tín của ngân hàng nói chung và trong thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng khi ngân hàng thỏa mãn được nhu cầu rút tiền của khách hàng. Mặt khác, việc làm này còn tạo thói quen và ý thức cho người dân trong việc sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Song song với việc mở thêm nhiều điểm đặt máy ATM là việc làm sao để các máy ATM có thể phục vụ khách hàng 24/24 giờ trong ngày từ đó nâng cao khả năng phục vụ khách hàng.
- Cho phép các ngân hàng chi nhánh mở thêm các phòng giao dịch. Mở thêm các phòng giao dịch tuy làm tăng chi phí nhưng nó có tác dụng tạo ra hình ảnh của một ngân hàng có quy mô lớn từ đó tạo niềm tin cho khách hàng trong việc sử dụng ngân hàng như là một người trung gian trong thanh toán. Đồng thời, việc tăng số lượng các phòng giao dịch sẽ làm cho ngân hàng đến gần hơn với những người có tiềm năng về nhu cầu thanh toán, giúp họ hiểu và nhận thấy lợi ích của việc thanh toán không dùng tiền mặt, mặt khác, tạo ra sự nhanh chóng và linh hoạt cho khách hàng khi sử dụng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng. Song song với việc cho phép chi nhánh mở thêm các phòng giao dịch là việc mở rộng các chức năng của các phòng giao dịch và nâng cao chất lượng phục vụ của các phòng giao dịch này, ví dụ như cho phép các phòng giao dịch có thể tham gia thanh toán chuyển khoản với các tài khoản của các tổ chức.
- Tổ chức thêm các lớp tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên của chi nhánh để đáp ứng yêu cầu của các công nghệ mới trong thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng và của ngành ngân hàng nói chung (Các mặt hoạt động của ngân hàng luôn có mối quan hệ tương hỗ). Sự ứng dụng các thành tựu khoa học kĩ thuật trong lĩnh vực ngân hàng cao hơn ở bất cứ lĩnh vực nào trong nền kinh tế và chỉ chịu đứng vị trí thứ hai sau lĩnh vực quân sự nếu xét trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người. Tuy nhiên, để các ứng dụng này phát huy hết hiệu quả thì cần có sự kết hợp của yếu tố con người. Các cán bộ nhân viên ngân hàng phải làm chủ được các thiết bị hiện đại và ngày càng hiện đại để bắt chúng phục vụ tốt nhất cho công việc của mình. Các thiết bị máy móc càng hiện đại thì những hậu quả từ những sai sót trong việc sử dụng nó là rất lớn.
- Có chính sách tăng cường cho vay tiêu dùng. Tăng cường cho vay tiêu dùng là một biện pháp tốt để mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt của các ngân hàng, đặc biệt là một ngân hàng có mạng lưới chi nhánh rộng khắp như ngân hàng NHNo&PTNT Việt Nam. Ngoài cách truyền thống thường làm ngân hàng có thể kí kết các hợp đồng với các công ty trong đó có các điều khoản thỏa thuận về việc các công ty này sẽ bán hàng hóa trả góp cho khách hàng của mình, các khách hàng sẽ phải mở tài khoản cá nhân của mình tại ngân hàng và định kỳ trả nợ qua việc nộp tiền vào tài khoản của mình tại ngân hàng, còn ngân hàng sẽ tiến hành trích chuyển khoản từ tài khoản của người mua trả góp sang tài khoản của các công ty bán hàng.
- Có chính sách khuyến khích mở tài khoản cá nhân và sử dụng thanh toán qua ngân hàng đối với dân cư.
Kết luận
Thanh toán không dùng tiền mặt có vai trò hết sức quan trọng, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Sự ra đời của nó là bước phát triển tất yếu của quá trình thanh toán, đánh dấu một bước tiến mới của nền văn minh nhân loại.
Trong thời gian qua, thanh toán không dùng tiền mặt của Việt Nam nói chung và của NHNo&PTNT Ba Đình nói riêng đã gặt hái được nhiều thành công tốt đẹp. Doanh số cũng như tỷ trọng của thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng tăng, khắc phục được những hạn chế của thanh toán bằng tiền mặt, góp phần đẩy nhanh tốc độ thanh toán, đảm bảo sự an toàn, tiện lợi cho các bên tham gia. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì tỷ lệ này vẫn còn rất thấp xuất phát từ nhiều nguyên nhân, có những nguyên nhân từ phía Nhà nước, những nguyên nhân từ phía Ngân hàng và từ phía khách hàng. Nhận biết được các nguyên nhân này từ đó đưa ra hướng giải quyết là nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của mọi cấp, mọi ngành đặc biệt là của ngành Ngân hàng.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thanh toán không dùng tiền mặt cần phải đổi mới, hoàn thiện và mở rộng hơn nữa, phấn đấu đưa thanh toán không dùng tiền mặt của Việt Nam sánh kịp các nước trong khu vực và trên thế giới, đó là nhiệm vụ chung của ngành Ngân hàng, trong đó có NHNo&PTNT Ba Đình.
Sau một thời gian học tập tại trường ĐH Kinh tế Quốc dân và qua thực tế tại NHNo&PTNT Ba Đình, với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào việc mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt của NHNo&PTNT Ba Đình em đã đưa ra một số giải pháp, tuy nhiên, với thời gian có hạn, trình độ và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế, bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vì vậy, em kính mong được sự góp ý, bổ sung của các thầy cô giáo, các cán bộ trong NHNo&PTNT Ba Đình và toàn thể các bạn để em có thể hoàn thiện hơn kiến thức của mình.
Qua đây, em cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo đã tham gia giảng dạy tại trường ĐH Kinh tế Quốc dân những người đã tận tình truyền đạt cho em những kiến thức quý báu trong suốt khoá học vừa qua, em cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới PGS.TS Nguyễn thị Thu Thảo, cùng toàn thể các cán bộ NHNo&PTNT Ba Đình - những người đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn !
Danh mục các tài liệu tham khảo.
- Báo cáo quyết toán của NHNo&TPNT Ba Đình các năm 2001, 2002, 2003.
- Báo cáo TTKDTM tại NHNo&PTNT Ba Đình năm 2001, 2002, 2003.
- Giáo trình Lý thuyết Tài chính Tiền tệ – khoa Ngân hàng tài chính ĐH KTQD – nhà xuất bản thống kê - 2002
- Ngân hàng thương mại: quản trị và nghiệp vụ – TS. Nguyễn Thị Thu Thảo, TS. Phan Thị Thu Hà - Nhà xuất bản Thống kê - 2002
- Nghị định 30/CO ngày 2/5/1996 của Chính phủ ban hành quy chế phát hành và sử dụng séc.
- Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20/9/2001 của Chính phủ về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
- Quyết định 22/QĐ-NH1 ngày 20/2/1994 của Thống đốc NHNN Việt Nam về thể lệ TTKDTM
- Quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN1 ngày 19/10/1999 về việc ban hành quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ Ngân hàng.
- Thông tư 07/TT-NH1 ngày 27/12/1996 về hướng dẫn thực hiện nghị định 30/CP.
- Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính – Frederic S.Mishkin – 2001
- Từ điển Kinh tế học – Nguyễn Văn Ngọc - Nhà xuất bản Thống kê - 2001
- Từ điển Thống kê - Nhiều tác giả - Nhà xuất bản Thống kê - 1977
Mục lục
Nhận xét của cơ quan thực tập
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3802.doc