Tăng cường công tác kiểm sát, giám sát
hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân các cấp
Viện kiểm sát nhân dân các cấp cần
thực hiện tốt công tác kiểm sát hoạt động
tư pháp, nhất là kiểm sát xét xử của Tòa án,
kịp thời phát hiện các vi phạm pháp luật,
sai lầm trong việc chấp hành pháp luật nói
chung và áp dụng các tình tiết tăng nặng nói
riêng để kháng nghị, kiến nghị Tòa án khắc
phục, sữa chữa.
các cơ quan đại diện (Quốc hội, Hội
đồng nhân dân các cấp) cần thực hiện tốt
việc giám sát hoạt động xét xử, xử lý đúng
pháp luật các kiến nghị của cử tri về xét xử
vụ án hình sự để Viện kiểm sát nhân dân,
Toà án nhân dân các cấp nhận thức và áp
dụng đúng đắn, thống nhất, có hiệu quả các
quy định của pháp luật, trong đó có các tình
tiết tăng nặng TnHS. Trong trường hợp cần
thiết, nếu việc hướng dẫn của cơ quan có
thẩm quyền có khó khăn vì thiếu nhận thức
thống nhất, uỷ ban thường vụ Quốc hội cần
thực hiện việc giải thích pháp luật theo thẩm
quyền (khoản 2 Điều 74 Hiến pháp).
Tòa án nhân dân cấp trên cần tăng cường
công tác giám đốc xét xử đối với các Tòa án
nhân dân cấp dưới để kịp thời khắc phục
các sai sót, hướng dẫn áp dụng thống nhất
pháp luật về các tình tiết tăng nặng trong xét
xử của các Tòa án.
ngoài ra, việc giám sát của nhân dân, tác
động của dư luận xã hội cũng là một yếu tố
quan trọng để bảo đảm việc áp dụng đúng đắn,
thống nhất pháp luật, nâng cao chất lượng giải
quyết vụ án hình sự. Do vậy, cần tuyên truyền,
vận động nhân dân, các cơ quan báo, đài, các tổ
chức xã hội tích cực tham gia vào việc giám sát
hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng,
đặc biệt vào việc xét xử của Tòa án
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 225 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong bộ luật hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
12
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ÁP DỤNG CÁC TÌNH TIẾT...
Khoa học kiểm sát Số 01 - 2019
các tình tiết tăng nặng TnHS là một trong những căn cứ quan trọng khi quyết định hình phạt của Tòa án
trong giải quyết vụ án hình sự, được quy
định tại Điều 52 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ
sung năm 2017. Theo đó, các tình tiết tăng
nặng TnHS gồm: a) Phạm tội có tổ chức; b)
Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; c) Lợi
dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; d)
Phạm tội có tính chất côn đồ; đ) Phạm tội
vì động cơ đê hèn; e) cố tình thực hiện tội
phạm đến cùng; g) Phạm tội 02 lần trở lên;
h) Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm; i)
Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ
có thai, người đủ 70 tuổi trở lên; k) Phạm tội
đối với người ở trong tình trạng không thể
tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khu-
yết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả
năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình
về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các
mặt khác; l) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tra-
nh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh
hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã
hội để phạm tội; m) Dùng thủ đoạn tinh vi,
xảo quyệt, tàn ác để phạm tội; n) Dùng thủ
đoạn, phương tiện có khả năng gây nguy
hại cho nhiều người để phạm tội; o) Xúi giục
người dưới 18 tuổi phạm tội; p) có hành
động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn
tránh hoặc che giấu tội phạm.
ngoài ra, Điều 52 BLHS còn quy định,
chỉ các tình tiết nêu trên mới là tình tiết tăng
nặng TnHS, không được coi các tình tiết
khác là tình tiết tăng nặng để vận dụng áp
dụng khi xét xử. Đồng thời, các tình tiết đã
được BLHS quy định là dấu hiệu định tội
hoặc định khung hình phạt thì không được
coi là tình tiết tăng nặng TnHS.
Trong thực tiễn xét xử, Tòa án về cơ bản
đã áp dụng chính xác các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ TnHS, đảm bảo xét xử đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên,
bên cạnh những mặt đạt được, thực tiễn xét
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ÁP DỤNG CÁC TÌNH TIẾT
TĂNG NẶNG TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ
MAI Đắc BIên* - PHAn THị THU lê**
* Tiến sĩ, Trưởng khoa PLHS&KSHS, Trường Đại
học Kiểm sát Hà Nội
** Thạc sĩ, Khoa PLHS&KSHS, Trường Đại học
Kiểm sát Hà Nội
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (TNHS) là một trong những căn
cứ quan trọng khi quyết định hình phạt của Tòa án trong giải quyết vụ án hình
sự, được quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017. Qua nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn xét xử trong những năm qua,
chúng tôi đề xuất một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao chất lượng áp dụng các
tình tiết tăng nặng TNHS nhằm đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật nói chung,
áp dụng các tình tiết tăng nặng nói riêng đạt hiệu quả.
Từ khóa: Giải pháp, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Factors aggravating criminal liability is one of vital bases for the court
decidespenalties in handling criminal cases prescribed in Article 52, the Penal
code in 2015 (amended and supplemented in 2017). By studying both theoretical and
pratical matters in judging over the years, the authors propose some solutions
to perfect and improve the efficiency of applying factors aggravating criminal
liability so as to ensure the application of legal regulations in general and these
factors in particular more effectively.
Keywords: Solutions, factors aggravating criminal liability.
13Khoa học kiểm sátSố 01 - 2019
Mai Đắc Biên - Phan Thị Thu Lê
xử còn đang tồn tại một số sai sót, hạn chế
trong quá trình áp dụng như: áp dụng các
tình tiết tăng nặng TnHS không đúng; đánh
giá không chính xác mức độ ảnh hưởng của
các tình tiết tăng nặng; xử lý chưa đúng mối
quan hệ giữa các tình tiết giảm nhẹ và tăng
nặng TnHS trong một vụ án hình sự... Do
vậy, việc nghiên cứu, đề xuất các giải pháp
nâng cao chất lượng áp dụng các tình tiết
tăng nặng TnHS là việc làm cần thiết, giúp
cho công tác thực hành quyền công tố của
Viện kiểm sát nhân dân cũng như công tác
xét xử của Tòa án đạt hiệu quả cao.
Qua nghiên cứu những quy định của
Điều 52 BLHS, quy định trong một số BLHS
của các nước trên thế giới, thực tiễn xét xử
trong những năm qua, chúng tôi đề xuất
một số giải pháp nâng cao chất lượng áp
dụng các tình tiết tăng nặng TnHS sau đây:
1. Hoàn thiện các tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự
Một là, cần đưa ra khái niệm chung thống
nhất về “các tình tiết tăng nặng TnHS” để
làm cơ sở pháp lý giúp cho người tiến hành
tố tụng phân biệt cũng như áp dụng chính
xác, thống nhất trong thực tiễn giải quyết vụ
án hình sự.
Hai là, cần đổi tên gọi từ “các tình tiết
tăng nặng TnHS” thành “các tình tiết tăng
nặng hình phạt”. Bởi lẽ: 1/ Đổi tên gọi để
phù hợp với bản chất, ý nghĩa của các tình
tiết này là chỉ tăng nặng hình phạt trong
phạm vi một khung hình phạt; 2/ Đây là các
căn cứ được nhà làm luật quy định trong
chương Viii BLHS về quyết định hình phạt.
các căn cứ này chỉ được dùng làm căn cứ
để quyết định hình phạt. ngoài hình phạt,
nếu các chế định khác của luật hình sự được
áp dụng mà cần có điều kiện tăng nặng thì
người làm luật sẽ viện dẫn các điều luật quy
định về các tình tiết này; 3/ Điều này cũng
được rút ra từ kinh nghiệm lập pháp của
một số nước, nhất là trong BLHS Liên bang
nga, các tình tiết này cũng được gọi là “các
tình tiết tăng nặng hình phạt”.
Ba là, nên bổ sung nguyên tắc áp dụng
tình tiết tăng nặng TnHS tại khoản 2 Điều 52
BLHS Việt nam năm 2015 với nội dung: “Một
tình tiết tăng nặng TnHS chỉ được áp dụng
một lần trong một trường hợp phạm tội”.
Quy định như vậy sẽ giúp loại trừ việc
áp dụng hai lần đối với một tình tiết trong
cùng một tội phạm, làm xấu đi tình trạng
của người phạm tội và trái với nguyên tắc
pháp chế, nhân đạo và công bằng của pháp
luật hình sự. Quy định này cũng sẽ giúp cho
người áp dụng pháp luật phát huy bản lĩnh
nghề nghiệp, cân nhắc trong từng trường
hợp cụ thể khi quyết định hình phạt để có
hình phạt tương xứng. Điều này vừa có giá
trị về mặt lý luận, vừa bảo đảm tính logic lại
vừa có ý nghĩa thực tiễn quan trọng.
Bốn là, cần sửa đổi quy định về điểm b,
điểm h, điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS theo
hướng loại bỏ tình tiết “Phạm tội có tính
chất chuyên nghiệp (điểm b khoản 2 Điều
52 BLHS) để các tình tiết tăng nặng này tuy
có tên gọi có khác nhau nhưng cùng nội
dung, tránh trường hợp trùng lắp trong áp
dụng, gây bất lợi cho người phạm tội, trái
với nguyên tắc nhân đạo của pháp luật hình
sự. cụ thể là: phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp (điểm b khoản 2 Điều 52 BLHS); phạm
tội hai lần trở lên (điểm g khoản 1 Điều 52
BLHS); tái phạm, tái phạm nguy hiểm (điểm
h khoản 1 Điều 52 BLHS). Bởi vì, các trường
hợp quy định tại điểm g, điểm h khoản 1 Điều
52 BLHS đã bao gồm nội dung điểm b khoản
1 Điều 52 BLHS nên không thể cùng lúc áp
dụng cả hai tình tiết tăng nặng này. Việc loại bỏ
tình tiết nêu trên, theo chúng tôi, loại trừ được
việc trùng lắp trong áp dụng các tình tiết tăng
nặng TnHS. Thực tiễn cũng cho thấy tình tiết
“Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” chủ
yếu được áp dụng như là tình tiết định khung
hình phạt, hầu như không được áp dụng với
tư cách là tình tiết tăng nặng TnHS.
Năm là, cần rà soát chế tài phần các tội
phạm để bổ sung hoặc loại bỏ một số tình
tiết tăng nặng định khung không đến mức
làm thay đổi về chất của tội phạm. Ví dụ,
14
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ÁP DỤNG CÁC TÌNH TIẾT...
Khoa học kiểm sát Số 01 - 2019
nên chăng bỏ tình tiết định khung “phạm
tội 02 lần trở lên” đối với một số tội phạm
như điểm c khoản 2 Điều 353 BLHS về “Tội
tham ô tài sản”; điểm đ khoản 2 Điều 354
BLHS về “Tội nhận hối lộ”; điểm đ khoản 2
Điều 364 BLHS về “Tội đưa hối lộ”. Bởi vì,
người tham ô, nhận hối lộ, đưa hối lộ hai lần
trở lên với số lượng nhỏ không phải lúc nào
cũng nguy hiểm hơn, làm thay đổi về chất
so với người thực hiện các hành vi đó một
lần nhưng số lượng lớn hơn.
Sáu là, sửa đổi quy định về tình tiết “Xúi
giục người dưới 18 tuổi phạm tội”. Theo khoản
2 Điều 12 của BLHS thì người từ đủ 14 tuổi
nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách
nhiệm hình sự trong giới hạn 29 tội danh.
Với quy định này, có thể hiểu người chưa
đủ 16 tuổi có thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm
nhưng không thuộc 29 tội danh này thì hành
vi của họ không cấu thành tội phạm. Trong
khi đó, quy định tại điểm o khoản 1 Điều
52 BLHS có thể được hiểu là người xúi giục
người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện
29 tội danh quy định tại khoản 2 Điều 12 của
BLHS thì mới phải chịu tình tiết tăng nặng
này; còn hành vi xúi giục người từ đủ 14 đến
dưới 16 tuổi đối với các tội phạm khác hoặc
xúi giục trẻ em dưới 14 tuổi thực hiện bất kỳ
hành vi nguy hiểm cho xã hội nào thì cũng
không phải chịu tình tiết tăng nặng này.
như vậy, chỉ cần người nào đã phạm
tội mà còn có hành vi xúi giục người dưới
18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội (tức là tham gia vào tội họ đã phạm),
chứ không cần người bị xúi giục phải chịu
TnHS về tội đã thực hiện thì người xúi giục
bị áp dụng tình tiết tăng nặng này.
Quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 BLHS
cũng thiếu thống nhất về cách thể hiện của
Điều 325 BLHS về “Tội dụ dỗ, ép buộc hoặc
chứa chấp người dưới 18 tuổi phạm pháp”.
Vì vậy, theo chúng tôi, cần sửa điểm o khoản
1 Điều 52 BLHS thành “xúi giục người dưới 18
tuổi vi phạm pháp luật nghiêm trọng”. Đồng thời,
Điều 325 BLHS cũng nên được sửa đổi thành
“Tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người dưới 18
tuổi vi phạm pháp luật nghiêm trọng”.
ngoài ra, tình tiết này vẫn đang có nhiều
ý kiến trái chiều trong nhận thức cũng như
thực tiễn áp dụng về việc tình tiết tăng nặng
TnHS này áp dụng cho tất cả người phạm
tội hay chỉ áp dụng đối với người phạm tội
từ đủ 18 tuổi trở lên.
có ý kiến cho rằng, người có hành vi
xúi giục người chưa đủ 18 tuổi phạm tội bao
gồm cả người đã đủ 18 tuổi và người chưa
đủ 18 tuổi bởi trong BLHS không có một
quy định nào nói về vấn đề loại trừ trách
nhiệm của người chưa đủ 18 tuổi khi “xúi
giục người dưới 18 tuổi phạm tội”. nhưng
cũng có những ý kiến khác cho rằng, chỉ có
thể áp dụng tình tiết tăng nặng này đối với
người đã đủ 18 tuổi phạm tội.
chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ
hai, vì nó phù hợp với bản chất cũng như
mục đích quy định tình tiết tăng nặng này.
ngoài việc xử lý vai trò trong vụ án đồng
phạm, người đủ 18 tuổi mà dụ dỗ, ép buộc
người dưới 18 tuổi phạm tội làm cho mức độ
nguy hiểm của người này nặng hơn; đồng
thời nhằm bảo vệ người dưới 18 tuổi, tránh bị
dụ dỗ, ép buộc tham gia thực hiện tội phạm
nên phải tăng nặng hình phạt đối với người
đó. còn nếu như tình tiết này được áp dụng
đối với người dưới 18 tuổi thì ý nghĩa pháp lý
cũng như xã hội sẽ không được cao.
Từ những phân tích, đánh giá trên, theo
chúng tôi, cần sửa đổi, bổ sung cụ thể về các
tình tiết tăng nặng TnHS như sau:
“Điều 50. căn cứ quyết định hình phạt
1. Khi quyết định hình phạt, Toà án căn
cứ vào... các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng
hình phạt...
Điều 52. các tình tiết tăng nặng hình phạt
1. chỉ các tình tiết sau đây mới là tình
tiết tăng nặng hình phạt:
a) Phạm tội có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để
phạm tội;
c) Phạm tội có tính chất côn đồ;
d) Phạm tội vì động cơ đê hèn;
15Khoa học kiểm sátSố 01 - 2019
Mai Đắc Biên - Phan Thị Thu Lê
đ) cố tình thực hiện tội phạm đến cùng;
e) Phạm tội 02 lần trở lên;
g) Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm;
h) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi,
phụ nữ có thai, người đủ 70 tuổi trở lên;
i) Phạm tội đối với người ở trong tình
trạng không thể tự vệ được, người khuyết
tật nặng hoặc đặc biệt nặng, người bị hạn
chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc
mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác
hoặc các mặt khác;
k) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình
trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc
những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để
phạm tội;
l) Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, tàn
ác để phạm tội;
m) Dùng thủ đoạn, phương tiện có
khả năng gây nguy hại cho nhiều người để
phạm tội;
n) Người từ đủ 18 tuổi trở lên xúi giục
người dưới 18 tuổi phạm tội;
o) có hành động xảo quyệt hoặc hung
hãn nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.
2. Mỗi tình tiết tăng nặng hình phạt chỉ
được cân nhắc, áp dụng một lần đối với một
trường hợp phạm tội.
3. các tình tiết đã được Bộ luật này quy
định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì
không được coi là tình tiết tăng nặng hình phạt.
2. Tăng cường giải thích, hướng dẫn, tổng
kết thực tiễn, ban hành án lệ về áp dụng các tình
tiết tăng nặng TNHS.
cùng với việc hoàn thiện các quy định
của BLHS về tình tiết tăng nặng TnHS, cơ
quan có thẩm quyền cần ban hành các văn
bản hướng dẫn áp dụng các tình tiết tăng
nặng TnHS, đảm bảo cho việc áp dụng
đúng đắn, thống nhất. cụ thể là:
- cần hướng dẫn cụ thể đối với các tình
tiết tăng nặng TnHS hiện nay còn gây ra
nhiều cách hiểu khác nhau, nhất là các tình
tiết định tính như: phạm tội có tính chất côn
đồ (điểm d khoản 1 Điều 52 BLHS), phạm
tội vì động cơ đê hèn (điểm đ khoản 1 Điều
52 BLHS), dùng thủ đoạn tinh vi xảo quyệt
hoặc tàn ác để phạm tội (điểm m khoản 1
Điều 52 BLHS), có hành động xảo quyệt hoặc
hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che dấu tội
phạm (điểm p khoản 1 Điều 52 BLHS)...
Ví dụ: Tình tiết tăng nặng TnHS tại điểm
đ “Phạm tội vì động cơ đê hèn” tại khoản 1
Điều 52 BLHS. chúng tôi thấy chưa có một
văn bản pháp lý nào giải thích và hướng dẫn
áp dụng với tư cách là một tình tiết tăng nặng
TnHS mà chỉ thấy có những hướng dẫn áp
dụng tình tiết này ở những cấu thành tội
phạm cụ thể với vai trò là tình tiết tăng nặng
định khung. Điều này gây khó khăn cho việc
áp dụng tình tiết “phạm tội vì động cơ đê hèn”
với vai trò là một tình tiết tăng nặng TnHS.
- cần hướng dẫn áp dụng quy định về
các tình tiết tăng nặng trong một số trường
hợp để đảm bảo không áp dụng vừa là tình
tiết định khung, vừa là tình tiết tăng nặng
TnHS đối với người phạm tội. Đó là những
trường hợp mà cộng dồn hậu quả sẽ dẫn đến
chuyển sang khung hình phạt nặng hơn như
các tội chiếm đoạt tài sản Trong trường
hợp này chỉ áp dụng tình tiết định khung
về định lượng mà không áp dụng tình tiết
tăng nặng TnHS “phạm tội từ 2 lần”. Ví
dụ, a trộm cắp hai lần, lần 1 trộm 25 triệu
đồng, lần 2 trộm 30 triệu đồng. Tổng số tài
sản trộm cắp là 55 triệu đồng. Hành vi của
a cấu thành tội trộm cắp tài sản theo điểm c
khoản 2 Điều 173 BLHS. Trong trường hợp
này không thể áp dụng thêm tình tiết tăng
nặng “phạm tội hai lần”; vì nếu áp dụng thì
sẽ vi phạm khoản 2 Điều 52 BLHS.
- cùng với việc hướng dẫn áp dụng
thống nhất các quy định pháp luật được ban
hành, Toà án nhân dân tối cao cần tổ chức
tổng kết chuyên đề, ban hành án lệ về áp
dụng các tình tiết tăng nặng TnHS; đặc biệt
là áp dụng các tình tiết còn nhận thức khác
nhau, thiếu thống nhất như phạm tội có tính
chất côn đồ; phạm tội vì động cơ đê hèn;
dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt....
- Toà án nhân dân tối cao cũng cần có
biện pháp xử lý các trường hợp diễn đạt
16
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ÁP DỤNG CÁC TÌNH TIẾT...
Khoa học kiểm sát Số 01 - 2019
khác nhau trong BLHS, nhưng thực chất nội
dung trùng nhau (nhiều lần dẫn đến hậu
quả định khung; có tính chất chuyên nghiệp
với nhiều lần; tái phạm, tái phạm nguy hiểm
với phạm tội có tính chất chuyên nghiệp...).
- Hướng dẫn về đường lối xử lý đối với
những vụ án có những tình tiết trùng lặp,
với những vụ án có đan xen tình tiết tăng
nặng và giảm nhẹ TnHS một cách dễ hiểu
và khoa học nhất, tránh cho những người
áp dụng có những nhận thức khác nhau,
thiếu sự công bằng trong xét xử. Đặc biệt,
theo chúng tôi, cần hướng dẫn không áp
dụng (trực tiếp hay gián tiếp, đối trừ) tình
tiết tăng nặng TnHS trong áp dụng các chế
định nhân đạo của BLHS như quyết định
hình phạt dưới mức thấp nhất của khung
hình phạt được áp dụng (Điều 54 BLHS), án
treo (Điều 65 BLHS)...
Việc giải thích, hướng dẫn luật kịp thời
và đầy đủ sẽ tháo gỡ được những vướng mắc
trong quá trình áp dụng pháp luật, ngược
lại, sẽ có tác động tiêu cực đến hiệu quả áp
dụng chế định này, dẫn đến tình trạng áp
dụng tuỳ tiện, không bảo đảm cho việc áp
dụng thống nhất, vì thế mà có thể bị áp dụng
sai lệch với bản chất pháp lý của chúng.
3. Nâng cao trình độ, năng lực, bản lĩnh nghề
nghiệp của chủ thể áp dụng pháp luật hình sự
nâng cao trình độ, năng lực, bản lĩnh
nghề nghiệp của Kiểm sát viên, Thẩm
phán, Hội thẩm có ý nghĩa quan trọng
trong việc nâng cao chất lượng áp dụng
các tình tiết tăng nặng TnHS. Viện kiểm
sát nhân dân các cấp, Tòa án nhân dân các
cấp cần chú trọng công tác đào tạo, bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, lý luận
chính trị, tinh thần, trách nhiệm, ý thức
phục vụ nhân dân, bản lĩnh nghề nghiệp,
phẩm chất đạo đức của cán bộ, công chức,
nhất là đội ngũ Kiểm sát viên, Thẩm phán,
Hội thẩm gắn với tăng cường công tác
thanh tra, kiểm tra kỷ luật công vụ nhằm
xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong
sạch vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh
và bảo vệ công lý.
công tác tiền lương, thưởng, tăng thu
nhập cho lực lượng cán bộ tư pháp cần được
quan tâm, cải cách, bảo đảm cho họ không
chỉ đủ sống mà còn sống tốt với thu nhập từ
nghề nghiệp của mình. Từ đó, họ có thể yên
tâm công tác mà không phải lo quá nhiều
đến cuộc sống mưu sinh. Đây cũng là cách
thức có thể đẩy lùi những tệ nạn tiêu cực
như nhận hối lộ, tham nhũng, lạm dụng
chức vụ quyền hạn, cố ý làm trái...
4. Tăng cường công tác kiểm sát, giám sát
hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân các cấp
Viện kiểm sát nhân dân các cấp cần
thực hiện tốt công tác kiểm sát hoạt động
tư pháp, nhất là kiểm sát xét xử của Tòa án,
kịp thời phát hiện các vi phạm pháp luật,
sai lầm trong việc chấp hành pháp luật nói
chung và áp dụng các tình tiết tăng nặng nói
riêng để kháng nghị, kiến nghị Tòa án khắc
phục, sữa chữa.
các cơ quan đại diện (Quốc hội, Hội
đồng nhân dân các cấp) cần thực hiện tốt
việc giám sát hoạt động xét xử, xử lý đúng
pháp luật các kiến nghị của cử tri về xét xử
vụ án hình sự để Viện kiểm sát nhân dân,
Toà án nhân dân các cấp nhận thức và áp
dụng đúng đắn, thống nhất, có hiệu quả các
quy định của pháp luật, trong đó có các tình
tiết tăng nặng TnHS. Trong trường hợp cần
thiết, nếu việc hướng dẫn của cơ quan có
thẩm quyền có khó khăn vì thiếu nhận thức
thống nhất, uỷ ban thường vụ Quốc hội cần
thực hiện việc giải thích pháp luật theo thẩm
quyền (khoản 2 Điều 74 Hiến pháp).
Tòa án nhân dân cấp trên cần tăng cường
công tác giám đốc xét xử đối với các Tòa án
nhân dân cấp dưới để kịp thời khắc phục
các sai sót, hướng dẫn áp dụng thống nhất
pháp luật về các tình tiết tăng nặng trong xét
xử của các Tòa án.
ngoài ra, việc giám sát của nhân dân, tác
động của dư luận xã hội cũng là một yếu tố
quan trọng để bảo đảm việc áp dụng đúng đắn,
thống nhất pháp luật, nâng cao chất lượng giải
quyết vụ án hình sự. Do vậy, cần tuyên truyền,
vận động nhân dân, các cơ quan báo, đài, các tổ
chức xã hội tích cực tham gia vào việc giám sát
hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng,
đặc biệt vào việc xét xử của Tòa án./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giai_phap_nang_cao_chat_luong_ap_dung_cac_tinh_tiet_tang_nan.pdf