LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, xu hướng Thương mại quốc tế đã và đang trở thành mói quan tâm hàng đầu của các quốc gia. Thương mại quốc tế ngoài việc đem lại cho bản thân quốc gia đó một lợi thế cạnh tranh thương mại, tạo điều kiện khai thác tiềm lực kinh tế nội bộ quốc gia mà còn thúc đẩy tiến trình toàn cầu hoá một nền kinh tế thế giới.
Xu hướng một nền kinh tế toàn cầu hoá đã tạo động lực phát triển cho Việt nam chuyển đổi nền kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Trong tiến trình này, ngành ngân hàng luôn có vai trò như “huyết mạch” nói các thành phần kinh tế với nhau bằng các nghiệp vụ đặc thù gồm hai lĩnh vực cơ bản: cung cấp tín dụng và thực hiện các dịch vụ ngân hàng mà không một doanh nghiệp nào có thể thay thế được. Từ đó có thể thấy ngân hàng có vai trò không thể phủ nhận trong nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào.
Nhưng trong việc thực hiện cung cấp tín dụng cũng như thực hiện dịch vụ ngân hàng luôn gắn liền vơí hai hệ quả rui ro và chi phí. Từ đó phát sinh nhu cầu thực tế chống đỡ với những rủi ro trong các thương vụ giữa đôi: Chủ nợ và khách nợ mua và bán
Trong thời gian thực tập tại chi nhánh NHĐT-PT HN, em đã tìm hiểu và nhận thấy hoạt động bảo lãnh là một hoạt động mới mẻ và có nhiều vấn đề cần nghiên cưú nên em đã chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng bảo lãnh tại chi nhánh NHĐT-PT HN”
Luận văn chia làm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về chất lượng bảo lãnh của Ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng chất lượng bảo lãnh tại chi nhánh NHĐT-PT HN
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bảo lãnh tại chi nhánh NHĐT-PT HN.
MỤC LỤC
BẢNG KÊ CÁC CHỮ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3
1.1. Những vấn đề cơ bản về hoạt động bảo lãnh của NHTM 3
1.1.1. Khái niệm bảo lãnh của Ngân hàng thương mại 3
1.1.2. Phân loại bảo lãnh 5
1.1.3. Quy trình bảo lãnh 9
1.1.4. Chính sách bảo lãnh 14
1.2. Chất lượng bảo lãnh 16
1.2.1. Khái niệm 16
1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh 16
1.2.3. Tiêu chuẩn phản ánh chất lượng hoạt động bảo lãnh ngân hàng 18
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng bảo lãnh 19
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG BẢO LÃNH Ở CHI NHÁNH NGÂN HÀNG BIDV HÀ NỘI 22
2.1. Vài nét về chi nhánh Ngân hàng BIDV Hà Nội 22
2.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của Ngân hàng 22
2.1.2. Cơ cấu tổ chức 23
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh 24
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh 25
2.2. Những quy định trong hoạt động bảo lãnh tại NH BIDV 26
2.2.1. Các văn bản quy định 26
2.2.2. Một số quy định 28
2.2.3. Phí bảo lãnh 30
2.2.4.Quỹ bảo lãnh và mức bảo lãnh 31
2.2.5. Tài sản thế chấp 31
2.2.6. Thẩm quyền của chi nhánh 32
2.3. Thực trạng chất lượng bảo lónh tại Ngõn hàng BIDV Hà Nội 32
2.3.1. Doanh số bảo lãnh của BIDV HN 33
2.3.2. Kết quả thu phí bảo lãnh 34
2.3.3. Cơ cấu các loại hình bảo lãnh 36
2.3.4. Bảo lãnh theo cơ cấu thành phầnh kinh tế 39
2.3.5. Tình hình các hình thức bảo đảm cho bảo lãnh tại
NHĐT-PT HN 39
2.3.6. Nhận xét chung 40
2.3.7. Những thiếu sót và hạn chế trong hoạt động bảo lãnh tại NHĐT- PT HN 41
2.3.8. Nguyên nhân 45
CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH Ở BIDV HN 53
3.1. Định hướng của chi nhánh nhằm nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh 53
3.2. Giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh 54
3.2.1.Chính sách khách hàng 54
3.2.2. Đa dạng hoá phát triển sản phẩm 55
3.2.3. Hoàn thiện và bổ sung quy trình bảo lãnh 57
3.2.4. Tăng cường thực hiện công tác Marketing nhằm tạo điều kiện mở rộng thị trường bảo lãnh của ngân hàng 60
3.2.5. Nâng cao trình độ cán bộ và phân công hợp lý cán bộ làm nghiệp bảo lãnh 65
3.3. Kiến nghị 67
3.3.1.Cấp trên cần hoàn thiện hành lang pháp lý 67
3.3.2. Kiến nghị với NHNNVN 67
3.3.3. Kiến nghị với NHĐT-PT VN 68
KẾT LUẬN 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 71
74 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 1952 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng bảo lãnh tại chi nhánh Ngân hàng đầu từ và phát triển Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ầu của khách hàng và sắp tới sẽ còn rất nhiều cơ hội để nâng cao chất lượng dịch vụ và phục vụ được nhiều khách hàng hơn, mang lại nguồn thu lớn cho NH.
2.3.7. Những thiếu sót và hạn chế trong hoạt động bảo lãnh tại NHĐT- PT HN
So với hoạt động tín dụng thì Bảo lãnh NH là nghiệp vụ còn quá non trẻ, giá trị bảo lãnh thực hiện được tuy có tăng nhưng chưa nhiều. Hiện nay, nghiệp vụ bảo lãnh NH chưa phát huy hết tiềm năng tác dụng vì còn một số thiếu sót và tồn tại cản trở sự phát triển của Bảo lãnh NH
2.3.7.1. Về cơ chế chính sách còn nhiều bất cập
- Hiện nay cơ chế chính sách và môi trường pháp lý của nước ta chưa hoàn thiện, chưa đồng bộ, chúng ta chưa có luật về bảo lãnh. Hoạt động bảo lãnh được thực thi theo các văn bản dưới luật như: quy chế bảo lãnh NH, hướng dẫn quy chế bảo lãnh NH…mà các văn bản này thường xuyên được sửa đổi, bổ sung gây khó khăn cho việc thực thi bảo lãnh. Vì thế đã cản trở khá lớn việc mở rộng và phát triển công tác bảo lãnh.
- Ngoài ra, nền kinh tế thế giới cũng có phần nào ảnh hưởng đến hoạt động bảo lãnh khi các chính sách vĩ mô của thế giới thay đổii hoặc các cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra cùng tác động đến hoạt động bảo lãnh.
2.3.7.2. Về đối tượng khách hàng cần được mở rộng cả DNQD &DNNQD
Doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, có quan hệ giao dịch với NH trong thời gian dài, có mở tài khoản chính tại NH. Điều này chứng tỏ chính sách giứ khách hàng cũ được NH thực hiện tốt nhưng chính sách thu hút khách hàng mới chưa được chú trọng.
Doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, có quan hệ giao dịch với ngân hàng trong thời gian dài, có mở tài khoản chính tại ngân hàng. Điều này chứng tỏ chính sách giữ khách hàng cũ được ngân hàng thực hiện tốt nhưng chính sách thu hút khách hàng mới chưa được chú trọng.
Mặc dù cho đên hiện này NHĐT-PT chưa xảy ra rủi ro. Nhưng các món bảo lãnh của NH thường là rất dài, do đó, rui ro tiềm ẩn là rất lớn. Vì vậy NH phải nâng cao chất lượng thực hiện các quy trình bảo lãnh để hạn chế tối đa việc xảy ra rủi ro.
2.3.7.3. Quy tr ình bảo lãnh chưa hợp lí
Chi nhánh chưa có quy trình bảo lãnh phù hợp thực tế. Việc thực hiện bảo lãnh chưa nhất quán đặc biệt giữa vụ sở chính với các chi nhánh huyện. Tuy rằng quy chế được ban hành theo toàn ngành, các chi nhánh phải tuân theo những áp dụng nhu thế nào cho linh hoạt hiệu quả lại là vấn đề khó khăn. Thực tế hiện nay do những vướng mắc trong quy định khiến bảo lãnh phải qua nhiều khâu trình ký, quá trình xét duyệt kéo dài làm lỡ hợp đồng làm ăn của khách hàng.
Trong quy trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh tại chi nhánh còn nhiều điểm cần xem xét sửa đổi như:
- Chưa chú ý tới khâu tìm kiếm khách hàng mới, hầu hết vẫn là các khách hàng truyền thống của ngân hàng . Do chưa có quy trình cụ thể nên nhiều khi khách hàng không nắm được các công việc cần làm nên có khách hàng tới bảo lãnh đã lên thẳng phòng Giám đốc mà không qua phòng tín dụng.
- Mặc dù thẩm định dự án đầu tư và thẩm định tín dụng là một thế mạnh của ngân hàng đầu tư, nhưng khấu thẩm định trong quy trình bảo lãnh chưa được chú ý đúng mức. Quan niệm này xuất phát từ việc cho rằng tiền ký quỹ và các tài sản bảo đảm có thể bảo đảm các rủi ro cho ngân hàng. Nhưng nếu ngân hàng bảo lãnh cho khách hàng không đủ năng lực thực hiện hợp đồng thì dù khách hàng có ký quỹ 100%, ngân hàng không chịu rủi ro nhưng uy tín của ngân hàng bị giảm sút.
- Thời gian từ khi khách hàng xin bảo lãnh đến khi ngân hàng phát hành thư bảo lãnh còn lâu do khâu xét duyệt và trình ký giữa tín dụng-kế toán và Giám đốc. Chẳng hạn những món bảo lãnh phải ký quỹ hay bảo đảm bằng tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, từ phòng tín dụng xét duyệt được giám đốc đòng ý phải qua phòng kế toán kiểm tra và lại trình lên giám đốc quyết định ký phát thư bảo lãnh . Quy trình như vậy đảm bảo sự an toàn nhưng gây cho khách hàng phải đợi lâu.
- Trong khâu theo dõi khi món bảo lãnh còn hiệu lực, ngân hàng cần phải theo dõi đôn đốc người được bảo lãnh thực hiện đúngcác cam kết với người yêu cầu bảo lãnh. Nhưng hầu hết các công trình , dự án khách hàng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển thi công đều ở rất xa, rải rác trên khắp mọi miền đất nước nên ngân hàng gặp khó khăn trong việc theo dõi tiến độ thực hiện công trình.
Hơn nữa với các món bảo lãnh bảo bằng hợp đồng thi công chỉ định chuyển tiền về tài khoản tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, do công trình thi công ở xa nên ngân hàng khó theo dõi chính xác khách hàng có tuân thủ đúng quy định này không. Hiện nay, việc này thực hiện dựa vào sự trung thực, giữ uy tín của khách hàng.
Với các tài sản thế chấp ngân hàng đánh giá một lần trước khi bảo lãnh: Nếu bảo lãnh thời hạn dài giá trị tài sản này giảm đi, rủi ro xảy ngân hàng sẽ chịu thiệt hại khi phát mại tài sản.
Tóm lại trong quy trình bảo lãnh của chi nhánh còn nhiều bất cập. Hiện nay chưa có rủi ro nào xảy ra, nhưng rủi ro tiềm ẩn không phải là không có. Nhất là với các món bảo lãnh trong thời gian dài, các doanh nghiệp xây dựng thường bị động theo yêu cầu của chủ thầu mà có thể không dự tính chính xác tiến độ thi công của mình. Việc không bảo đảm các điều kiện hợp đồng và dẫn tới trách nhiệm thanh toán của ngân hàng rất dễ xảy ra. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh mới được hơn 10 năm , trong đó các món bảo lãnh dài hạn chẳng hạn 4-5 năm lại mới phát sinh đến nay chưa hết hiệu lực. Như vậy không nên căn cứ vào tỷ lệ rủi ro hiện nay mà lơi là việc thực hiện đúng quy trình bảo lãnh.
2.3.7.4. Về trình độ cán bộ làm nghiệp vụ bảo lãnh còn yếu và thiếu
Bảo lãnh là một nghiệp vụ còn mới mẻ đối với NHĐT-PT HN, do đó thiếu kinh nghiệm trong việc phân công cán bộ đảm nhiệm công tác bảo lãnh là khó khăn không chỉ của riêng NHĐT-PT HN. NH cũng đã tổ chức nhiều đợt tập huấn về bảo lãnh cho các nhân viên và thực hiện tách riêng phòng thẩm định. Song để đạt được kết quả tốt thì đó là một qúa trình lâu dài, bởi nghiệp vụ này cũng luôn có những biến đổi theo thời gian. Ngoài ra, trình độ thẩm định của các cán bộ hiện có thì không cao, không được cập nhật, bổ sung nên mỗi khi NH phải thẩm định một dự án lớn hoặc đòi hỏi trình độ chuyên môn cao thì phải đi thuê chuyên gia, gây ảnh hưởng đến phí thu từ hoạt động bảo lãnh.
2.3.8. Nguyên nhân
2.3.8.1. Nguyên nhân khách quan
* Môi trường pháp lý chưa hoàn chỉnh và đồng bộ
Hiện nay, NH ĐT&PT Hà Nội đang hoạt động dưới sự điều chỉnh của Luật các TCTD và hệ thông các Luật, văn bản dưới Luật của chính phủ và NHNN ban hành. So với trước đây thì hệ thống các văn bản này đã có những thay đổi hợp lý hơn, tạo điều kiện hơn cho ngân hàng cũng như doanh nghiệp hoạt động song nó vẫn chưa thực sự mở ra những hành lang pháp lý thực sự thông thoáng và hợp lý. Do vậy, hệ thống các văn bản này vẫn cần phải có sự bổ sung, điều chỉnh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và ngân hàng khi thực hiện bảo lãnh.
Hoạt động bảo lãnh ngân hàng ra đời chưa lâu, do đó các văn bản Luật, dưới Luật quy định về nghiệp vụ bảo lãnh vẫn chưa thống nhất. Cho đến hiện giờ vẫn chưa có Luật hay nghị định về bảo lãnh ngân hàng. Do đó khi đưa các văn bản Luật này vào thực tiễn gặp rất nhiều khó khăn. Tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động, kinh nghiệm và thói quen, các ngân hàng sẽ cụ thể hoá các văn bản. Vì thế khi thực hiện một số loại hình bảo lãnh như bảo lãnh vay vốn nước ngoài, phía ngân hàng sẽ phải tham khảo thêm các thông lệ chung để đưa ra các điều khoản trong hợp đồng và khi mối quan hệ bảo lãnh vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia thì việc giải quyết các tranh chấp sẽ khó khăn.
Bên cạnh đó, các văn bản Luật vẫn chưa bổ sung thêm các loại hình bảo lãnh mới mà nhu cầu về chúng đang ngày càng tăng như bảo lãnh nộp thuế. NHNN Việt Nam vẫn chưa chính thức thừa nhận, cho phép sử dụng các nghiệp vụ bảo lãnh này. Điều này khiến ngân hàng dè dặt khi đưa ra một sản phẩm mới.
Mức phí mà NHNN quy định vẫn còn là một vấn đề đáng quan tâm đòi hỏi phải có sự thay đổi thích đáng. Mức phí tối đa do NHNN quy đinh chưa đảm bảo cho ngân hàng cân đối được giữa doanh thu thu được với chi phí mà họ bỏ ra nhất là với bảo lãnh vay vốn nước ngoài.
Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam ban hành thẩm quyền quyết định bảo lãnh cho Giám đốc chi nhánh là cần thiết nhằm đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Đặc biệt đối với khoản bảo lãnh vay vốn nước ngoài phải trình NHĐT&PT Việt Nam duyệt. Tuy nhiên trong một số trường hợp, món bảo lãnh có giá trị nhỏ, thời hạn ngắn thì việc NHĐT&PT Việt Nam xem xét giải quyết sẽ kéo dài thời gian, ảnh hưởng tới tính kịp thời của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Mặt khác, quy trình bảo lãnh do NHĐT&PT Việt Nam ban hành đã tạo ra những chuyển biến rất lớn trong hoạt động bảo lãnh trong toàn hệ thống. Song nó vẫn còn nhiều vấn đề bất cập còn tồn tại như là quy trình còn phức tạp, các mẫu biểu được quy định sẵn đôi khi còn sai sót.
* Môi trường canh tranh gay gắt
Trong điều kiện hiện nay, trên địa bàn thành phố Hà Nội đã có hơn 4 Ngân hàng quốc doanh và rất nhiều ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh như VID, ACB.... Trong số những ngân hàng trên có những ngân hàng có chiến lược Marketing rất tốt, số vốn lớn, khả năng cung ứng sản phẩm đạt ở mức cao. Đây là những ngân hàng có sức cạnh tranh cao. Do đó ngân hàng cần có định hướng phát triển cụ thể nhằm tăng sức cạnh tranh của ngân hàng mình.
* Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp
- Một vấn đề khá bức xúc hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam đó là trình độ và năng lực quản lý còn thấp. Điều này không những ảnh hưởng tới công tác tổ chức điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng tới quá trình doanh nghiệp đến xin bảo lãnh.
Trước hết, do trình độ quản lý yếu kém nên các doanh nghiệp thường không nắm chắc các quy định về bảo lãnh như yêu cầu về hồ sơ xin bảo lãnh, tài sản đảm bảo khiến cho ngân hàng mất nhiều thời gian để xem xét liệu đã đủ điều kiện thực hiện một món bảo lãnh chưa. Chính điều này đã làm ảnh hưởng tới hoạt động của bản thân doanh nghiệp do mất quá nhiều thời gian. Nếu ngân hàng xem xét qua loa thì có thể sẽ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
Thứ hai, do công tác tổ chức điều hành không tốt, ảnh hưởng tới quá trình thực hiện hợp đồng với đối tác. Tuy đã có tài sản đảm bảo nhưng khi có vi phạm xẩy ra thì ngân hàng vẫn bị ảnh hưởng, đặc biệt trong những trường hợp tài sản thế chấp sau khi phát mại không đủ bù đắp chi phí ngân hàng đã bỏ ra.
- Các doanh nghiệp Việt Nam nhất là các doanh nghiệp mới thường không có đủ điều kiện về tài sản đảm bảo. Với những DNNN, phần lớn tài sản nằm trong tình trạng lạc hậu, khó thanh khoản. Nhiều tài sản như công xưởng, đất đai lại thuộc quyền sở hữu của nhà nước nên gây khó khăn trong việc thanh lý, phát mại do chưa có văn bản Luật nào quy định rõ điều này.
Trong khi nhóm khách hàng mới (thường là DNNQD) phải ký quỹ hoặc thế chấp 100%. Các tài sản này thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nên vấn đề thanh lý, phát mại là không có khó khăn nhiều. Nhưng với món bảo lãnh có giá trị bảo lãnh lớn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại không đáp ứng đủ điều kiện về tài sản thế chấp có giá trị tương đương. Vì thế làm mất cơ hội kinh doanh của cả ngân hàng và khách hàng.
- Bản thân các doanh nghiệp khi tiến hành một dự án đầu tư cũng không thẩm định kỹ càng. Có thể đầu tư vượt quá khả năng của mình dẫn đến việc không thực hiện được hợp đồng, Hoặc tính toán các yếu tố đầu vào hay xác định thời hạn bảo lãnh không chính xác khiến bị thua lỗ hoặc vi phạm về thời gian.
- Nguyên nhân gây ra tình trạng các ngân hàng khó kiểm soát, quản lý được khách hàng là do các doanh nghiệp vay vốn, mở tài khoản giao dịch tại nhiều ngân hàng khác nhau. Việc này khiến cho ngân hàng khó nắm bắt được tình hình hoạt động và công nợ thực tế của doanh nghiệp để có thể ra những quyết định đúng đắn.
2.3.8.2. Nguyên nhân chủ quan
* Công tác Marketing, tìm kiếm khách hàng còn chưa được phát triển
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp muốn cạnh tranh, thu hút được khách hàng thì ngoài việc cung ứng sản phẩm tốt phải có chiến lược Marketing hiệu quả. Công tác Marketing ở đây bao gồm từ khâu tìm kiếm khách hàng cho đến khâu cung ứng sản phẩm, tập hợp ý kiến khách hàng về sản phẩm, từ đó có những chiến lược Marketing hiệu quả. Tại ngân hàng, công tác Marketing đã được chú ý hơn so với trước song vẫn không được đầu tư một cách thích đáng. Đặc biệt là khâu nghiên cứu về thị trường tiềm năng chưa được quan tâm đúng mức.
Do đó, ngân hàng cần đẩy mạnh hơn nữa công tác Marketing để góp phần thu hút thê khách hàng mới. Đây là một trong những hoạt động góp phần nâng cao sức cạnh tranh của ngân hàng.
* Việc thu thập và xử lý thông tin về khách hàng và thị trường vẫn còn gặp khó khăn
Ngày nay việc thu thập thông tin đã được hỗ trợ rất nhiều từ các phương tiện máy móc hay từ các trung tâm lưu giữ thông tin nhưng để có được những thông tin quan trọng, cán bộ tín dụng vẫn còn gặp phải những khó khăn nhất định.
Trong nhiều trường hợp, khi doanh nghiệp đã nộp đầy đủ các giấy tờ liên quan (thường nằm trong hồ sơ bảo lãnh) theo yêu cầu của ngân hàng thì cũng không chắc chắn được rằng những giấy tờ đó có đảm bảo được tính chân thực không. Trong trường hợp liên quan đến tài sản thế chấp, cán bộ tín dụng khó biết được rằng tài sản thế chấp đó doanh nghiệp có dùng để đảm bảo cho những giao dịch trước đó (như đảm bảo cho bảo lãnh, đảm bảo cho khoản vay) tại những ngân hàng khác không. Nhất là trong điều kiện hiện nay, việc đăng ký giao dịch đảm bảo chưa phổ biến đối với các ngân hàng, TCTD. Hơn nữa việc trao đổi thông tin giữa các ngân hàng vẫn còn hạn chế nên ngân hàng không kiểm soát chặt chẽ được khách hàng.
* Đầu tư cho công nghệ thông tin, các trang thiết bị máy móc hiện đại, cơ sở hạ tầng còn chưa hợp lý
NHĐT&PT Hà Nội đã thực hiện từng bước việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động như nối mạng nội bộ giữa các phòng ban,…Điều này giúp cho việc kiểm tra tình hình công nợ của khách hàng một cách nhanh chóng nhất là đối với bảo lãnh theo hạn mức. Tuy nhiên, việc đầu tư đổi mới trang thiết bị vẫn còn bị hạn chế do đó các máy móc tại ngân hàng đôi lúc gặp trục trặc do cũ, lạc hậu gây mất thời gian cho khách hàng đến giao dịch.
Để có thể thu thập thông tin về khách hàng ngoài việc trực tiếp đến thẩm định, cán bộ tín dụng có thể tìm kiếm thông tin thông qua mạng Internet,…. Nhưng do chưa đầu tư thích đáng nên để thu thập thông tin một cách nhanh chóng vẫn còn gặp khó khăn.
Muốn thu hút được khách hàng thì chất lượng sản phẩm cung ứng phải thật tốt song đôi khi cơ sở hạ tầng trang thiết bị cũng ảnh hưởng rất nhiều tới tâm lý khách hàng. Một cơ sở hạ tầng hiện đại tạo tâm lý tin tưởng đối với khách hàng, hỗ trợ cho chiến lược Marketing. Hiện nay, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị tại ngân hàng đã được sửa sang nhiều song vẫn còn lạc hậu so với một số ngân hàng khác trên cùng địa bàn.
* Công tác thẩm định bảo lãnh còn gặp khó khăn
Để có được chất lượng cao trong hoạt động bảo lãnh thì việc phân tích, đánh giá khách hàng phải đóng một vai trò quan trọng. Sự thành bại và hiệu quả của hoạt động bảo lãnh phụ thuộc không nhỏ vào khâu này. Tuy nhiên thực tế cho thấy rằng, không chỉ NH ĐT&PT Hà Nội mà còn tại nhiều ngân hàng khác (nhất là tại các Ngân hàng quốc doanh) khâu này còn được thực hiện chưa đầy đủ. Đây một phần là do phương pháp thẩm định dự án nhiều khi không phù hợp do môi trường kinh doanh đã có rất nhiều thay đổi. Bên cạnh đó, một thực tế còn tồn tại, đó là tại rất nhiều ngân hàng, khách hàng truyền thống chủ yếu là Doanh nghiệp Nhà nước. Đây là đối tượng khách hàng có mối quan hệ lâu năm với ngân hàng nên để duy trì quan hệ mà nhiều khi ngân hàng chưa thẩm định một cách kỹ càng.
* Trình độ cán bộ nghiệp vụ và công tác tổ chức cán bộ còn chưa hoàn thiện
Cán bộ tín dụng vừa phải thực hiện nghiệp vụ cho vay thông thường vừa phải kiêm luôn cả nghiệp vụ bảo lãnh. Bên cạnh ưu điểm là họ hiểu được khách hàng, nắm rõ tình hình tài chính của doanh nghiệp, nhược điểm là họ không có đủ thời gian để chuyên tâm nghiên cứu sâu về cách thức giải quyết những nhân tố phát sinh trong bảo lãnh.
Ngoài ra, trình độ ngoại ngữ của các cán bộ tín dụng còn kém, gây khó khăn khi tìm hiểu thêm các thông lệ, quy định quốc tế cũng như khi thảo hợp đồng có liên quan tới bên nước ngoài. Điều này gây bất lợi cho người được bảo lãnh và ngân hàng bảo lãnh, gây tranh cãi khi phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Trước đây, công tác Marketing do phòng nguồn vốn đảm nhiệm thì nay chuyển sang cho phòng thẩm định. Các cán bộ phòng thẩm định chuyên về công tác thẩm định, xem xét khả năng tài chính, các thông số kỹ thuật nên việc phải kiêm nhiệm luôn cả công tác Marketing sẽ gặp khó khăn. Họ không phải là những người chuyên sâu về nghiệp vụ này trong khi công tác Marketing là rất quan trọng. Vì thế hiện nay tại ngân hàng vẫn chưa có cán bộ chuyên sâu về lĩnh vực Marketing, tiếp thị khách hàng.
* Việc đưa ra các mẫu biểu liên quan đến bảo lãnh còn gặp khó khăn
Ngân hàng vẫn chưa quy định các mẫu biểu bảo lãnh bằng tiếng Anh, gây khó khăn cho các các bộ tín dụng. Do trình độ ngoại ngữ của các cán bộ còn hạn chế nên khi phải thảo một mẫu thư bảo lãnh bằng tiếng Anh mất rất nhiều thời gian. Mà mẫu biểu đưa ra đó cũng chưa chắc là chính xác tuyệt đối. Do vậy gây mất thời gian cho khách hàng cũng như ảnh hưởng nếu có tranh chấp sau này.
Khi tất toán một món bảo lãnh, ngân hàng thường gặp khó khăn do chưa có mẫu tốt nhất về tất toán bảo lãnh đối với những món bảo lãnh không chốt ngày.
Trong nhiều trường hợp để đỡ mất thời gian chờ đợi và do không chấp nhận mẫu thư bảo lãnh mà ngân hàng đã quy định sẵn, các khách hàng tự soạn thảo mẫu thư riêng. Điều này có ưu điểm là phù hợp với tình hình thực tế của từng trường hợp bảo lãnh nhưng đứng trên góc độ ngân hàng thì lại không thuận lợi vì khách hàng không soạn thảo quen nên trong thư thường có sai sót. Khi đó nếu thời gian của khách hàng quá ngắn, cán bộ tín dụng chấp thuận mẫu thư đó thì ngân hàng có thể sẽ gặp rủi ro. Nếu xem xét lại các điều khoản và sửa cho phù hợp thì lại mất thời gian, ảnh hưởng tới thời gian ký kết hợp đồng kinh tế.
* Còn có nhiều vấn đề liên quan đến thời hạn bảo lãnh
Xác định thời hạn bảo lãnh là một vấn đề quan trọng. Thời hạn bảo lãnh thường là căn cứ vào thời hạn thực hiện hợp đồng đã được thoả thuận giữa bênđược bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Sau đó căn cứ vào sự tính toán của bên được bảo lãnh mà đưa ra thời hạn bảo lãnh. Song trong một số trường hợp, do không đánh giá đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng tới việc thực hiện hợp đồng của mình nên thời hạn bảo lãnh đưa ra là không chính xác. Ngoài ra trong nhiều trường hợp thời gian bảo lãnh trong thư bảo lãnh và giấy đề nghị bảo lãnh là không giống nhau, nhất là với thư bảo lãnh không chốt ngày.
Kết luận: Trong chương này chúng ta đã xem xét toàn bộ thực trạng tình hình thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.Đây là nét riêng biệt của ngân hàng mà người phân tích cần nắm được nếu có tham vọng đưa ra những giải pháp và kiến nghị hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ này. Trong phân tích thực trạng nếu các bạn để ý sẽ thấy tôi đã chẻ nhỏ các vấn đề theo trình tự phân tích: Kết quả thực tế của ngân hàng là gì? Tại sao ngân hàng đạt được hay lại chọn cách đó? Những ưu điểm và nhược điểm trong cách làm này? Như vậy đây sẽ là cơ sở cho tôi đưa ra những giải pháp kiến nghị nhằm phát huy ưu điểm sửa chữa tháo gỡ những ưu điểm tồn tại này.
CHƯƠNG 3MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH Ở BIDV HN
3.1. Định hướng của chi nhánh nhằm nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh
Xuất phát từ thực tế hoạt động bảo lãnh của NH và nhu cầu bảo lãnh của nền kinh tế. Phương hướng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh của NH trong thời gian tới như sau:
- Mở rộng khối lượng khách hàng tham gia nghiệp vụ bảo lãnh NH, cụ thể là đáp ứng khối lượng khách hàng truyền thống, mở rộng khách hàng mới có chọn lọc.
- Đa dạng hoá và mở rộng các hình thức bảo lãnh, các loại bảo lãnh đang thực hiện đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
- Hiện đại hoá cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động bảo lãnh để nâng cao chất lượng giao dịch
- Duy trì mức độ an toàn trong hoạt động bảo lãnh như hiện nay.
Trên cơ sở những ưu điểm và nhược điểm rút ra từ qúa trình phân tích,em xin mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những ưu điểm hiện có và hạn chế, khắc phục những nhược điểm đang tồn tại. Các định hướng trên nhằm hoàn thiện nâng cao chất lượng bảo lãnh trên cơ sở đó mở rộng phát triển nghiệp vụ này.
Trong khi nền kinh tế và luật pháp điều chỉnh còn có nhiều vướng mắc, các vụ rủi ro trong bảo lãnh khiến cho một số ngân hàng có chủ chương thu hẹp nghiệp vụ này. Nhưng với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói chung và với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đây là thời điểm là cơ hội phát triển mở rộng dựa vào kinh nghiệm vào sự ổn định bền vững sẵn có. Đây là quan điểm về sự phát triển bền vững của ngành trong bảo lãnh. Với quan điểm về hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh nói trên, tôi mạnh dạn đưa ra một số các giải pháp và kiến nghị như sau:
3.2. Giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động bảo lãnh tại chi nhánh
3.2.1.Chính sách khách hàng
3.2.1.1.Đối với nhóm khách hàng truyền thống
NH phải xác định đây là một thị trường quan trọng và chủ chốt của NH nên phải có các chính sách ưu đãi thích hợp để giữ gìn.
NH cần có một số chính sách ưu đãi như: Phí bảo lãnh có thể linh động hơn, xây dựng hạn mức bảo lãnh cao hơn mức cho phép hiện nay và trình lên NHcấp trên xem xét. Giải quyết nhanh gọn và ưu tiên khi khách hàng truyền thống yêu cầu bảo lãnh, loại bỏ một số thủ tục rườm rà không cần thiết.
Nhằm đẩy mạnh chính sách khách hàng và để giữ vững mối quan hệ với khách hàng truyền thống NHĐT-PT NH phải luôn cố gắng đáp ứng đầy đủ và thực hiện tốt các giao dịch của khách hàng.
3.2.1.2. Đối với nhóm khách hàng mới
- Thực hiện cộng tấc thu hút khách hàng tốt hơn. Có thể là tìm mọi biện pháp để NH đem lại lợi ích cho khách hàng nhiều nhất, hoặc NH có chính sách ưu đãi hấp dẫn hơn. Ngoài ra, con một biện pháp cso tác dụng toàn diện hơn trong chính sách khách hàng đó là mở hộinghị khách hàng
Hội nghị khách hàng là cơ hội để NH giới thiệu dịch vụ bảo lãnh. Đây là loại hình dịch vụ mới nên việc giới thiệu cần được thực hiện chu đáo, có sức hấp dẫn, thu hút khách hàng.
- Lắng nghe ý kiến và tôn trọng khách hàng, coi khách hàng là bạn vì không có khách hàng thì không có NH
- Tận tình giúp đỡ khi khách hàng gặp khó khăn, cùng khách hàng tìm các giải pháp để tháo gỡ khó khăn, như thế sẽ có lợi cho cả khách hàng và NH
3.2.2. Đa dạng hoá phát triển sản phẩm
Bảo lãnh hiện nay còn chưa phong phú, mới chỉ thực hiện 5 loại hình bảo lãnh nhưng chưa đạt hiệu quả cao. Để đa dạng hoá và phát triển loại hình bảo lãnh trước hết phải làm cho bảo lãnh thực sự thuận tiện. Nhu cầu về bảo lãnh của khách hàng là yếu tố khách quan tác động tới sự phát triển của nghiệp vụ. Nhưng theo tôi một số loại hình bảo lãnh không phải khách hàng không có nhu cầu mà do ngân hàng chưa thu hút được khách hàng. Khách hàng chỉ xin bảo lãnh khi đó là nhu cầu bắt buộc với bảo lãnh dự thầu và thực hiện hợp đồng. Nhà thầu có thể chấp nhận cho chủ thầu giữ lại một khoản chưa thanh toán mà không xin bảo lãnh tại ngân hàng. Điều này là một thực tế ở các chi nhánh huyện. Điều này chứng tỏ bảo lãnh của ngân hàng chưa thực sự thu hút được khách hàng và đôi khi thủ tục và sự chậm chễ làm mờ nhạt vai trò của bảo lãnh ngân hàng.
Như vậy để đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh trước hết phải làm cho bảo lãnh thực sự thuận tiện cho khách hàng. Từ đó ngân hàng nên có biện pháp kích thích, thu hút khách hàng.
Trong thời gian tới ngân hàng nên đa dạng hoá loại hình bảo lãnh theo hai hướng sau:
- Thực hiện bốn loại hình bảo lãnh được uỷ nhiệm thường xuyên ở các chi nhánh huyện.
- Phát triển loại hình bảo lãnh vay vốn nước ngoài.
- Nghiên cứu thực hiện một số loại hình bảo lãnh mới
Bảo lãnh vay vốn nước ngoài rất cần thiết cho các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay nói chung và khách hàng của ngân hàng nói riêng. Trong thời gian tới ngân hàng cần tiếp cận với các dự án vay vốn nước ngoài chủ động tìm khách hàng và đề xuất yêu cầu uỷ nhiệm lên ngân hàng trung ương. Để đảm bảo thuận tiện cho khách hàng, ngân hàng cần rút ngắn bớt các thủ tục không cần thiết giảm bớt thờigian xét duyệt trình ký tạo điều kiện cho khách hàng đáp ứng đúng thời gian hợp đồng.
Với các loại hình bảo lãnh mới, tôi xin đưa ra một số có thể nghiên cứu áp dụng ở chi nhánh như sau:
- Bảo lãnh thanh toán: Đã được uỷ quyền của trung ương nhưng chưa thực hiện ở chi nhánh.
Lý do áp dụng: Trong các loại hình bảo lãnh trong xây dựng: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tiền ứng trước và bảo lãnh bảo hành chất lượng công trình, bốn loại bảo lãnh này đều do chủ thầu yêu cầu và bảo vệ lợi ích cho chủ thầu. Bảo lãnh thanh toán công tình là loại bảo lãnh duy nhất mà nhười thụ hưởng là nhà thầu. Trong thực tế rất nhiều trường hợp nhà thầu bàn giao công trình song chủ thầu không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán. Điều này gây khó khăn tài chính cho nhà thầu trong việc trả lương cho công nhân và trang trải các khoản chi phí khác.Đã có khách hàng yêu cầu thực hiện loại bảo lãnh này ở chi nhánh nhưng chưa được đáp ứng.
Vì vậy ngân hàng nên nghiên cứu cách thức, các điều kiện để thực hiện loại hình này.
- Bảo lãnh chứng khoán:
Lý do áp dụng: Việt Nam đang xúc tiến hình thành phát triển thị trường chứng khoán và các ngân hàng thương mại đều có kế hoạch tham gia thị trường này. Trong giai đoạn đầu hầu hết các doanh nghiệp chưa có đủ uy tín bên thị trường đặc biệt là với công chúng.Họ rất cần một tổ chức có uy tín như ngân hàng đầu tư phát triển đứng ra tạo lòng tin cho việc phát hành bán các cổ phiếu, trái phiếu. Ngân hàng hưởng phí bảo lãnh hay còn gọi là hoa hồng phát hành và cỏtách nhiệm bảo đảm khả năng thanh toán trái phiếu và chi trả cổ tức cho người mua ... Ngân hàng đầu tư phát triển Hà Nội với lĩnh vực hoạt động đầu tư phát triển và những kinh nghiệm thẩm định dự án hoàn toàn có thế mạnh đi tiên phong trên lĩnh vực này.
Bảo lãnh chứng khoán là một nghiệp vụ mới trên một lĩnh vực mới lên quy trình ví dụ như bước thẩm định chứng khoán sẽ không hoàn toàn giống với các loại bảo lãnh truyền thống khác. Hơn nữa theo quy định để được thực hiện nghiệp vụ này phải được giấy phép của uỷ ban chứng khoán nhà nước và phải thành lập công ty chứng khoán trực thuộc ngân hàng. Trong giai đoạn chuẩn bị này chi nhánh nên nghiên cứu và đề ra các dự thảo về việc tham gia tài chính chứng khoán nói chung và bảo lãnh chứng khoán nói riêng.
Ngoài ra các loại bảo lãnh khác như bảo lãnh hoàn thuế, bảo lãnh đại lý kinh doanh, bảo lãnh đầu tư dự án, bảo lãnh bảo hành chất lượng hàng hoá, chi nhánh cũng nên nghiên cứu tính khả thi để áp dụng.
Với các loại bảo lãnh mới có tính khả thi chi nhánh cần nghiên cứu cách tổ chức thực hiện, quy trình... và trình ngân hàng trung ương cho quyết định và mức uỷ quyền thực hiện.
Để tăng tính khả thi của các loại bảo lãnh mới chi nhánh cần:
- Nghiên cứu về cung cầu.
- Tư vấn, quảng các về các loại hình mới.
- Thu hút khách hàng cho các hoạt động khác của ngân hàng từ đó nâng cao uy tín ngân hàng và tăng khả năng tìm kiếm khách hàng.
3.2.3. Hoàn thiện và bổ sung quy trình bảo lãnh
Quy trình bảo lãnh của chi nhánh cần được hoàn thiện theo hướng bảo đảm quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh được nhanh gọn đúng đắn an toàn cho ngân hàng và thuận tiện cho khách hàng. Để đạt tới điều này cần lưu ý một số điểm sau:
* Công việc đầu tiên không thể bỏ qua trong quy tình là tìm kiếm và tư vấn hướng dẫn khách hàng thực hiện đúng các yêu cầu bảo lãnh. Điều này thể hiện tính chủ động của ngân hàng khác với trước đây nghiệp vụ bảo lãnh bắt đầu khi khách hàng đến xin bảo lãnh. Hơn nữa việc tư vấn giúp khách hàng đáp ứng yêu cầu giảm bớt thời gian và công sức đi lại.Khâu này còn nằm trong chính sách Maketing về tìm kiếm và chon lựa khách hàng mới cho bảo lãnh.
* Chi nhánh cần chú ý đúng mức tới khâu thẩm định nhất là thẩm định năng lực tài chính. Việc này là cần thiết do:
- Thực hiện tốt khâu thẩm định là biện pháp phòng ngừa rủi ro nâng cao uy tín ngân hàng và cho chính sách khách hàng vì nếu tình hình tài chính và năng lực thực hiện hợp đồng tốt, doanh nghiệp có thể không phải ký quỹ 100%.
- Thông qua thẩm định dự án, các cán bộ tín dụng có thể tư vấn thêm cho khách hàng về các vấn đề tài chính để nâng cao chất lượng công trình nhằm hạn chế rủi ro.
- Thẩm định dự án giúp cho ngân hàng nắm được tính khả thi của dự án để dự tính được tình hình thực hiện do vậy biết được độ rủi ro của dự án.
- Công tác thẩm định cho thấy trách nhiệm của ngân hàng với cả bên được bảo lãnh và bên yêu cầu bảo lãnh do vậy nâng cao uy tín ngân hàng.
Nhưng thời gian và chi phí cho thẩm định là không nhỏ. Do vậy ngân hàng có thể kết hợp thông tin về doanh nghiệp qua các hoạt động khác như tín dụng, thanh toán...Hơn nữa, thẩm định là một thế mạnh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển cần phải phát huy.
* Trong khâu xét duyệt bảo lãnh cần thực hiện quy trình gọn nhẹ hơn để đảm bảo thuận tiện cho khách hàng. Vấn đề ở chỗ trước khi phát hành thư bảo lãnh ngân hàng phải đảm bảo khách hàng có đủ tiền trong tài khoản để ký quỹ mà qua khâu kế toán kiểm tra thì khách hàng phải đợi lâu. Nên chăng các cán bộ tín dụng đảm nhiệm cả nhiệm vụ kiểm tra này. Trong khi kiểm tra, thẩm định các cán bộ tín dụng nắm thông tin về khách hàng qua phòng kế toán để trình Giám đốc ký thư, sau đó mới qua khâu kế toán đối chiếu hạch toán. Để thực hiện được điều này cần có sự trợ giúp của hệ thống mạng thông tin nội bộ giữa các phòng trong ngân hàng. Áp dụng mạng này vào bảo lãnh giúp cán bộ tín dụng có thể cập nhật thường xuyên tình hình của khách hàng trước khi phát hành thư bảo lãnh .
* Khi phát hành thư bảo lãnh, ngân hàng chỉ phát hành một bản chính duy nhất. Trong thư phải ghi rõ thời gian có hiệu lực vì nếu không nghĩa vụ bảo lãnh của ngân hàng sẽ kéo dài vô tận. Giá trị thời hạn bảo lãnh phải ghi thống nhất trong thư bảo lãnh, hợp đồng bảo lãnh và đơn xin bảo lãnh của đơn vị. Vì thư bảo lãnh ghi không đúng mẫu sẽ có thể thiếu những điều khoản nghĩa vụ của ngân hàng hoặc những điều khoản ngân hàng không thể kiểm soát được.
* Chi nhánh cần làm tốt việc theo dõi, đôn đốc việc thực hiện của hợp đồng liên quan đến bảo lãnh của doanh nghiệp được bảo lãnh. Các hợp đồng, nhất là hợp đồng thi công hoặc vay vốn dài hạn, việc đôn đốc này sẽ làm giảm rủi ro tiềm ẩn. Các cán bộ ngân hàng phải tới các nơi công trình thi công để giám sát đôn đốc thực hiện tiến độ hợp đồng. Nhưng giải pháp này khó thực hiện với các công trình ở rất xa địa bàn của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. Ví dụ như các dự án thi công tại Phả Lại hay Quảng Ninh. Khi đó, trong hợp đồng ký kết ngân hàng có thể uỷ quyền giám sát thi công cho chi nhánh Ngân hàng Đầu tư trên địa bàn công trình đang thi công nhờ nắm và thông báo thông tin cho ngân hàng.
Với các món bảo lãnh bảo đảm bằng hợp đồng thi công chỉ định chuyển tiền về tài khoản của doanh nghiệp tại chi nhánh , chi nhánh cần theo dõi sát sao tránh trường hợp doanh nghiệp chuyển tiền sang tài khoản ở ngân hàng khác gây thiệt hại và rủi ro cho ngân hàng.
Với các món bảo đảm bằng tài sản thế chấp, ngân hàng thường xuyên theo dõi bảo quản tài sản này.Đặc biệt ngân hàng phải tính tới khấu hao của tài sản thế chấp với các món bảo lãnh dài hạn. Nếu không sau một thời gian nếu rủi ro xáy ra ngân hàng phát mại tài sản này sẽ không thu được giá trị như ban đầu ước tính.
* Để đạt được phương châm “nhanh chóng, an toàn, hiệu quả” thì chi nhánh phải có một quy trình bảo lãnh gọn nhẹ, thuận tiện, nhanh chóng giảm tối thiểu các thủ tục hành chính.
* Chi nhánh cần cải tiến đẩy nhanh quá trình thẩm định, hiện nay khoảng 30 ngày, cần nghiên cưú rút xuống dưới 15 ngày nhưng vẫn bảo đảm an toàn và không để mất đi cơ hội kinh doanh.
* Chi nhánh cần xây dựng quy trình bảo lãnh đạt tiêu chuẩn ISO
3.2.4. Tăng cường thực hiện công tác Marketing nhằm tạo điều kiện mở rộng thị trường bảo lãnh của ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, muốn tồn tại và phát triển, mỗi đơn vị kinh doanh đều phải có chiến lược Marketing hoàn hảo. Vì thế, ngân hàng cần phải xây dựng một chiến lược Marketing thật tốt. Muốn vậy, chi nhánh cần làm tốt những biện pháp sau:
3.2.4.1. Chiến lược nghiên cứu thị trường
- Trước hết, chi nhánh cần phải nghiên cứu tập tính, thái độ và đặc biệt là động cơ của khách hàng khi lựa chọn ngân hàng. Thường thì khi khách hàng lựa chọn một ngân hàng nào đó tức là ngân hàng đó có khả năng thoả mãn được một số nhu cầu của họ như mức phí bảo lãnh, mức độ uy tín của ngân hàng bảo lãnh, các dịch vụ kèm theo, thái độ phục vụ khách hàng… Để có được những thông tin đầy đủ, chính xác, ngân hàng cần phải thu thập thông tin thường xuyên qua tham khảo thái độ, ý kiến của khách hàng khi đến giao dịch hay qua Hội nghị khách hàng.
- Nghiên cứu tổng nhu cầu bảo lãnh trên thị trường, khả năng cung ứng của bản thân ngân hàng, khả năng của các ngân hàng khác cùng hoạt động trên địa bàn. Điều này khá quan trọng giúp ngân hàng biết được mặt mạnh yếu của mình và các đối thủ cạnh tranh để từ đó đưa ra chiến lược phát triển lâu dài. Tuy nhiên để nghiên cứu được tổng nhu cầu bảo lãnh trên thị trường và khả năng của các ngân hàng khác trên địa bàn không phải là chuyện dễ dàng. Vì vậy ngân hàng cần phải có những cán bộ chuyên sâu có khả năng thu thập, tổng hợp các thông tin. Có thể nghiên cứu theo nhóm khách hàng từ đó phân tích theo phương pháp xác suất để đưa ra các chỉ tiêu giúp cho các chiến lược khác có hiệu quả.
3.2.4.2.Thực hiện tốt các chính sách Marketing
Chính sách Marketing bao gồm chính sách sản phẩm, chính sách giá cả, chính sách giao tiếp khếch trương.
- chính sách sản phẩm:
Ngân hàng cần thực hiện đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh bằng các biện pháp đã nêu ở trên. Đồng thời phải thường xuyên tăng cường việc thực hiện các tiêu chuẩn bảo lãnh đã đề ra. Tức là cán bộ thực hiện bảo lãnh phải có thái độ niềm nở với khách hàng, tận tình phục vụ, luôn luôn coi việc làm thoả mãn nhu cầu cảu khách hàng là trách nhiệm của mình. Yếu tố này sẽ ảnh hưởng tới hình ảnh của ngân hàng trong mắt khách hàng.
-Chính sách giá cả:
Mức phí bảo lãnh đã được NHĐT&PT Việt Nam quy định rất cụ thể và không có chênh lệch nhiều so với các ngân hàng như NHCT, NHNT là mấy. Chưa nói đến việc là mức phí bảo lãnh tại ngân hàng là tương đối thấp so với các ngân hàng khác trên cùng địa bàn. Do đó để thu hút thêm khách hàng là DNNQD, ngân hàng nên có sự điều chỉnh hợp lý hơn để thu hút thêm khách hàng.
-Chính sách khuyếch trương thanh thế:
Một trong những phương pháp để có thể nâng cao thanh thế của ngân hàng đó là phải tạo niềm tin trong khách hàng đối với các sản phẩm mà ngân hàng cung cấp bằng chính thái độ, phong cách phục vụ của mỗi một cán bộ ngân hàng, trong đó cán bộ tín dụng. Không nói sai rằng mỗi một cán bộ ngân hàng là một nhân viên làm Marketing. Khi khách hàng đến giao dịch, họ sẽ tiếp xúc với không chỉ cán bộ tín dụng mà còn với các cán bộ ở các phòng ban khác như phòng kế toán, phòng thanh toán quốc tế... Do đó để tạo được sự thoải mái, tin tưởng với khách hàng về ccác nghiệp vụ, trong đó cố nghiệp vụ bảo lãnh thì tất cả các cán bộ phải có thái độ và tinh thần phục vụ khách hàng nhiệt tình, niềm nở. Bên cạnh đó, để mở rộng hoạt động bảo lãnh thì hoạt động tuyên truyền, quảng cáo của ngân hàng trên các phương tiện thông tin đại chúng là cần thiết.
3.2.4.3. Xây dựng chiến lược khách hàng
Ngân hàng cần phải xây dựng một chiến lược khách hàng toàn diện, tổng thể trên cơ sở nghiên cứu thị trường với mục tiêu nâng cao chất lượng sản phẩm trên cơ sở không ngừng thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Chiến lược khách hàng phải tập trung vào việc củng cố mối quan hệ với khách hàng truyền thống, đồng thời thu hút thêm các khách hàng mới các biện pháp sau:
+ Cần phải có chính sách ưu tiên phục vụ các khách hàng truyền thống, các khách hàng có quan hệ thường xuyên, có chữ tín đối với ngân hàng về quan hệ tín dụng. Tạo mọi điều kiện thuận lợi sẵn sàng đáp ứng nhu cầu bảo lãnh của đối tượng này. Đồng thời tập trung khai thác khách hàng mới có tiềm năng. Cho dù là khách hàng mới cũng luôn coi hiệu quả trong kinh doanh của họ là mục đích hoạt động của ngân hàng. Do đó không nên áp dụng các quy định chung một cách quá cứng nhắc mà cần linh hoạt áp dụng các quy định thủ tục nhằm giảm bớt khó khăn cho từng đối tượng.
+ Để có được các thông tin về khách hàng cũng như biết được thái độ, ý kiến của khách hàng về những vướng mắc hay sự hài lòng của họ đối với hoạt động bảo lãnh, ngân hàng có thể tổ chức Hội nghị khách hàng theo định kỳ. Đây cũng là dịp để ngân hàng giới thiệu sản phẩm mới ra thị trường. Có vậy các cán bộ ngân hàng, đặc biệt là ban lãnh đạo, mới trực tiếp lắng nghe tiếp thu ý kiến của khách hàng về hình thái và chất lượng phục vụ và các khó khăn, thuận lợi khách hàng gặp phải, để từ đó có các biện pháp tháo gỡ kịp thời.
- Thường xuyên tạo ra mối quan hệ tín nhiệm trên cơ sở hợp tác đôi bên cùng có lợi. Đồng thời phải chủ động thu hút khách hàng, không để bị rơi vào thế bị động.
- Trong quan hệ với khách hàng, cần thường xuyên hỗ trợ tư vấn cho khách hàng để thực hiện đúng quy định, các cán bộ cùng khách hàng giải quyết các khó khăn, vướng mắc để thoả mãn nhu cầu của khách hàng.
- Mở rộng và phát triển quan hệ hợp tác với ngân hàng bạn trong và ngoài nước, các tổ chức tín dụng để thông qua đó tìm kiếm thêm khách hàng mới.
3.2.4.4. Mở rộng và duy trì mối quan hệ với các ngân hàng khác trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi để đẩy mạnh nghiệp vụ đồng bảo lãnh, tái bảo lãnh
Để hạn chế rủi ro có thể pháp sinh từ hoạt động bảo lãnh, NHĐT&PT Việt Nam đã quy định mức bảo lãnh tối đa đối với chi nhánh cho một khách hàng. Do đó việc thực hiện các món bảo lãnh có giá trị lớn cho một khách hàng vượt quá thẩm quyền cho phép của ngân hàng. Đồng thời đôi khi khả năng tài chính của ngân hàng cũng không cho phép thực hiện được món bảo lãnh quá lớn. Để khắc phục điều này, các ngân hàng sẽ cùng liên kết với nhau để thực hiện một món bảo lãnh cho khách hàng. Do đó, chi nhánh cần phải mở rộng hơn nữa quan hệ hợp tác với các ngân hàng lớn trong và ngoài nước để khi có các dự án lớn vượt quá khả năng thì sẽ chủ động hợp tác đồng bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh.
Muốn vậy, trước hết, ngân hàng sẽ phải có sự hợp tác chặt chẽ, phối hợp với các chi nhánh trong cùng một hệ thống, tạo nên một sức cạnh tranh thống nhất của hệ thống trên địa bàn. Thứ hai, với các ngân hàng bạn, mở rộng và duy trì quan hệ trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh, hợp tác kinh doanh cùng có lợi, phát huy thế mạnh phục vụ đầu tư phát triển.
3.2.4.5. Có sự đầu tư thích đáng cho cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, tăng cường việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động bảo lãnh
Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị máy móc hiện đại ảnh hưởng một phần tới tâm lý, sự tin tưởng của khách hàng đối với ngân hàng. Nhất là những khách hàng mới, điều đầu tiên đập vào mắt họ đó chính là cơ sở hạ tầng, họ sẽ nhận xét về ngân hàng một phần thông qua nó. Nó sẽ phản ánh một phần uy tín, số vốn của ngân hàng. Vì vậy mà ngân hàng cũng cần phải có sự đầu tư thích đáng để nâng cấp, cải tạo lại nơi làm việc, trang thiết bị. Bên cạnh đó ngân hàng cũng phải chú trọng hơn nữa tới việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động bảo lãnh. Việc đầu tư vào CNTT không những tạo ra chất lượng đối với hoạt động bảo lãnh mà nó còn giúp ngân hàng nắm bắt thông tin với khách hàng, với thị trường một cách nhanh chóng, kịp thời, chính xác. Để từng bước tiến tới hiện đại hoá thông tin thì trước hết NHĐT&PT Hà Nội cần phải:
- Xây dựng trang thiết bị máy móc như đầu tư cho máy vi tính, hệ thống thông tin liên lạc cho các phòng một cách dầy đủ.
- Xây dựng trang webside giới thiệu về ngân hàng, có cung cấp thông tin quảng cáo và phục vụ khách hàng trên mạng Internet.
- Xây dựng mối quan hệ thường xuyên với một số công ty, tổ chức tin học chuyên nghiệp có uy tín để tận dụng sự tư vấn, hỗ trợ trong quá trình ứng dụng công nghệ vào lĩnh vực bảo lãnh. Cùng với phòng thông tin điện toán và các phòng ban khác của ngân hàng hoàn thiện hơn nữa chương trình phần mềm quản lý, theo dõi khách hàng.
Mở rộng hoạt động bảo lãnh phải đi đôi với việc nâng cao chất lượng công tác bảo lãnh, có vậy mới nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng. Nâng cao chất lượng công tác bảo lãnh bao gồm nâng cao chất lượng thẩm định, hoàn thiện quy trình bảo lãnh và đề ra chính sách phí và ký quỹ hợp lý.
3.2.5. Nâng cao trình độ cán bộ và phân công hợp lý cán bộ làm nghiệp bảo lãnh
Con người là một trong những yếu tố quyết định tới kết quả của công tác bảo lãnh nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung. Do đó cần phải quan tâm tới công tác đào tạo, tổ chức cán bộ nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo lãnh, thúc đẩy hoạt động bảo lãnh ngày càng phát triển.
Ngân hàng cần phải chú ý thực hiện các hoạt động sau nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ cả về lý luận và thực tế cho các cán bộ tín dụng:
- Đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ thông qua các lớp đào tạo dài hạn trong và ngoài nước, kết hợp với đào tạo tại chỗ.
- Ngân hàng cần chú trọng tới việc nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học cho các cán bộ tín dụng. Bởi vì với những món bảo lãnh mà có liên quan tới phía nước ngoài như bảo lãnh vay vốn nước ngoaì, bảo lãnh thanh toán… thì việc am hiểu và nắm rõ các điều khoản ghi bằng ngoại ngữ trên hợp đồng là rất quan trọng. Để từ đó đưa ra các điều khoản khi ký hợp đồng bảo lãnh và phát hành thư bảo lãnh phải chính xác. Nếu không việc tranh chấp là khó tránh khỏi khi có vi phạm xẩy ra. Bên cạnh đó, một vấn đề nữa đặt ra với các cán bộ tín dụng là phải nắm rõ và thường xuyên cập nhật các thông tin về luật, quy tắc và thông lệ trong giao dịch bảo lãnh.
- Bồi dưỡng, nâng cao ý thức tinh thần trách nhiệm của toàn thể các cán bộ ngân hàng. Luôn phải coi hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của ngân hàng. Cần phải có thái độ niềm nở, phục vụ tận tình, chu đáo để tạo ra hình ảnh tốt về ngân hàng.
- Khuyến khích các cán bộ tự nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ. Khuyến khích các cán bộ học cao hơn, đặc biệt là nâng cao số cán bộ có trình độ đại học và sau đại học. Thường xuyên tổ chức các hội thi, phong trào tìm hiểu về các nghiệp vụ tại đơn vị giúp các cán bộ bổ sung kiến thức, trao đổi kinh nghiệm, tạo không khí đoàn kết trong ngân hàng.
- Tổ chức sắp xếp lao động phải hợp lý, đảm bảo phù hợp về trình độ, năng lực, tính cách, nguyện vọng. sở thích của mỗi người.
- Ngân hàng nên có một phòng Marketing riêng với các cán bộ chuyên sâu về lĩnh vực này để có các chiến lược toàn diện và tổng thể. Điều này sẽ giúp cho ngân hàng có được những chiến lược Marketing một cách toàn diện trên cơ sở những nghiên cứu có tính khoa học hơn. Đồng thời cũng giúp cho Phòng thẩm định kinh tế-kỹ thuật chuyên sâu hơn về chuyên môn của họ. Trong phòng Marketing sẽ có không chỉ các cán bộ chuyên về Marketing mà còn có những cán bộ học chuyên về ngân hàng-tài chính để trao đổi thông tin, hỗ trợ nhau khi lập chiến lược.
- Để có được đội ngũ cán bộ năng động, sáng tạo, bên cạnh những cán bộ ngân hàng có kinh nghiệm cần có các cán bộ trẻ có tính sáng tạo, năng động. Do đó cần có các chính sách thu hút, tuyển dụng các cán bộ có trình độ và năng lực cao từ các nơi khác. Đồng thời thu hút các cán bộ trẻ có tài năng, có khả năng tìm tòi, sáng tạo, năng động.
3.3. Kiến nghị
3.3.1.Cấp trên cần hoàn thiện hành lang pháp lý
Bảo lãnh cũng nhưc các hoạt động khác của NH, cần phải có một hành lang pháp lý chặt chẽ, thuận lợi để phát triển. Hiện nay, các văn bản, quy định của luật NHNN và luật các tổ chức tín dụng thường xuyên sửa đổi song vẫn bộc lộ những điểm bất hợp lý, đôi khi lại quá chặt chẽ. Khi thực thi theo các văn bản này, các ngân hàng buộc phải vượt rào để giải quyết cho phù hợp với tình hình thực tế hoặc phải thu hẹp hoạt động nếu theo đúng quy định dẫn đến bất lợi cho NH
Vì vậy, Nhà nước cần sớm tạo hành lang pháp lý đầy đủ thuận tiện cho hoạt động bảo lãnh phát triển. Cụ thể, nên ban hành luật bảo lãnh, thế chấp, cầm cố tài sản phù hợp với điều kiện Việt nam và quốc tế. Các chế độ, thể lệ trong ngành NH cần đồng bộ với các ngành khác. Bảo lãnh còn liên quan tới việc thực hiện luật pháp trong một số bộ ngành, sự tháo gỡ khó khăn phải được sự giúp đõ của các ngành này.
3.3.2. Kiến nghị với NHNNVN
3.3.2.1. Về điều kiện được bảo lãnh
NHNN quy định tổng số tiền bảo lãnh tối đa cho một khách hàng không vượt quá 10% vốn tự có của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam. Trong trường hợp vượt mức trên thì phải được chấp thuận của NHNN. Điều này nên để cho các ngân hàng tự giải quyết không nên trình từng trường hợp, nên để ngân hàng thực hiện báo cáo theo định kỳ.
3.3.2.2. Về mức phí bảo lãnh
Mức phí bảo lãnh tối đa hiện nay là 2% tăng hơn so với quy chế trước đây là 1%. Tuy nhiên tại ngân hàng có những loại bảo lãnh mà mức phí này vẫn chưa chắc đã đủ bù dắp chi phí và rủi ro có thể xẩy ra cho ngân hàng. Vì vậy, thiết nghĩ NHNN không nên quy định mức phí trần mà nên để ngân hàng tự thoả thuận với khách hàng dựa trên loại bảo lãnh, đối tượng khách hàng, mức độ rủi ro...
Đề nghị NHNN sớm ban hành một quy định mới về mức phí bảo lãnh đó là chỉ quy định mức phí tối thiểu. Ngân hàng thực hiện bảo lãnh sẽ thoả thuận với khách hàng để đưa ra mức phí hợp lý mà không bị giới hạn bởi mức phí trần.
Ngoài ra, mức phí tối thiểu mà NHNN hiện đang quy định là 300.000 đồng với một món bảo lãnh. Trong khi đó quy định của NHĐT&PT Việt Nam là 50.000 đồng đối với bảo lãnh dự thầu và 200.000 đồng đối với các loại bảo lãnh khác. Rõ ràng có sự bất hợp lý ở đây. Nếu các cán bộ tín dụng mà tuân theo quy định của NHNN thì lại không thu hút được khách hàng, nếu họ tuân theo quy định của NHĐT&PT Việt Nam thì lại trái với quy định của NHNN. Thiết nghĩ NHNN nên xem xét điều này để có sự thống nhất, không ảnh hưởng tới hoạt động của các ngân hàng. Đồng thời các cán bộ tín dụng khi thoả thuận mức phí sẽ dễ dàng hơn, không bị trái Luật.
3.3.2.3. Về các hình thức bảo lãnh
Hiện nay, có nhiều loại hình bảo lãnh mà các ngân hàng thương mại đã thực hiện hoặc khách hàng đang có nhu cầu nhưng trong các văn bản Luật vẫn chưa quy định cụ thể, chỉ quy định một cách rất chung chung là các loại bảo lãnh khác. Những loại bảo lãnh mới nhưng đã được các ngân hàng áp dụng như bảo lãnh thuế, đồng bảo lãnh... Để tạo điều kiện cho các ngân hàng hoạt động dễ dàng hơn, không gặp phải cản trở do trong Luật chưa quy định rõ ràng, thiết nghĩ NHNN nên quy định rõ hơn về các loại bảo lãnh mới này.
3.3.3. Kiến nghị với NHĐT-PT VN
- NH nên hỗ trợ các chi nhánh về mặt kinh phí trong công tác đào tạo nghiệp vụ, kiến thức chuyên môn của cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ bảo lãnh nói riêng. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn theo từng chuyên đề như: thẩm định tín dụng, bảo lãnh thanh toán quốc tế…
- NH cần hiện đại hoá công nghệ cho các chi nhánh, đồng thời phối hợp chặt chẽ với NHNN để tổ chức có hiệu quả, nâng cao chất lượng và mở rộng phạm vi thông tin, giúp cho các chi nhánh phòng ngừa rủi ro một cách tốt nhất.
- NH cần tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm soát nội bộ trong toàn hệ thống nhằm chấn chỉnh các hoạt động của các chi nhánh. Có biện pháp xử lý nghiêm các vi phạm của cán bộ và cấp dưới kể cả các vi phạm của khách hàng.
- Mặt khác, trong quy trình bảo lãnh chưa đưa ra cách tính hạn mức đối với loại bảo lãnh hạn mức một cách tốt nhất. Thiết nghĩ NHĐT&PT Việt Nam nên xem xét lại điều này và đưa ra một cách tính hạn mức phù hợp nhất. Cách tính hạn mức này phải dựa trên hạn mức bảo lãnh năm trước của khách hàng (khách hàng truyền thống mới được bảo lãnh hạn mức) và dựa trên các món bảo lãnh thực phát sinh vào năm trước đó, đồng thời trên cơ sở phân tích nhu cầu bảo lãnh có thể phát sinh trong năm tới của họ. Phân tích nhu cầu bảo lãnh trong năm tới có thể căn cứ vào khả năng phát triển kinh doanh từ đó xác định nhu cầu cần xây dựng hay mua máy móc thiết bị...của các doanh nghiệp khi đề nghị bảo lãnh sao cho phù hợp nhất.
- Ngoài ra, đối với việc gia hạn bảo lãnh, đơn xin gia hạn không có phần duyệt của ngân hàng. Do đó khi gia hạn, cán bộ tín dụng lại phải làm lại tờ trình này, đây là một điều không thuận lợi, mất nhiều thời gian cho khách hàng. Do đó, trong tờ trình xin gia hạn bảo lãnh phải có luôn phần duyệt của ban lãnh đạo.
KẾT LUẬN
Trong những năm vừa qua, hệ thống ngân hàng đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng, tạo ra động lực thúc đẩy phát triển mạnh mẽ toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Bảo lãnh ngân hàng cho đến nay là một loại hình nghiệp vụ không thể thiếu với các ngân hàng, được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau với mục đích là làm lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế. Trong suốt thời gian ra đời và phát triển đã chứng minh được rằng nó là một loại hình dịch vụ của các ngân hàng trong quá trình hiện đại hoá.
Nghiệp vụ bảo lãnh tại NHĐT-PT HN, tuy đã đạt được những kết quả tương đối khả quan song vẫn không tránh khỏi những khó khăn, vướng mắc do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Do vậy, chi nhánh cần áp dụng những chiến lược hữu hiệu góp phần hoàn thiện và phát triển dịch vụ bảo lãnh theo hướng đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường, đồng thời đạt được yêu cầu về lợi nhuận là mục tiêu xuyên suốt của đề tài nghiên cứu.
Cùng với việc sử dụng phương pháp luận khoa học phân tích trên thực tế kế hoạch hoạt động bảo lãnh của NHĐT-PT, một số giải pháp cũng như các đề nghị được đưa ra với hi vọng góp phần hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại chi nhánh NHĐT-PT HN.
Em xin chân thành cảm ơn Phó giáo sư, Tiến sĩ Phan Thị Thu Hà đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cùng các thầy cô giáo khoa Tài chính-kế toán, các cô chú tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Ngân hàng thương mại
2. Báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh ngân hàng dầu tư phát triển
3. Quy chế bảo lãnh Ngân hàng
4.Tạp chí ngân hàng năm 2007-2008
5. Tạp chí thị tường tài chính tiền tệ năm 2006-2007-2008
6. Nghị định 178 - 1999 NĐ - CP ngày 29/12/1999 và được sửa đổi bổ sung ở nghị định 85 - 2002 NĐ - CP ngày 25/10/2002 về quy chế đảm bảo tiền vay.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A9317.DOC