MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP 4
1.1 KHÁI NIỆM VỀ HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP 4
1.1.1 Khái niệm về nhập khẩu 4
1.1.2 Khái niệm về hiệu quả kinh doanh 4
1.1.3 Khái niệm hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp 6
1.2 PHÂN LOẠI HIỆU QUẢ KINH DOANH HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP 7
1.2.1 Căn cứ vào phương pháp tính hiệu quả 7
1.2.2 Căn cứ vào phạm vi tính toán hiệu quả 8
1.2.3 Căn cứ vào thời gian mang lại hiệu quả 8
1.2.4 Căn cứ vào giác độ đánh giá hiệu quả 9
1.3 CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP 9
1.3.1 Lợi nhuận và Tỷ suất lợi nhuận của hoạt động nhập khẩu 9
1.3.2 Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn nhập khẩu 10
1.3.3 Thời hạn thu hồi vốn nhập khẩu 11
1.3.4 Hiệu quả sử dụng lao động 11
1.4 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP. .12
1.4.1 Nhân tố bên ngoài doanh nghiệp 12
1.4.2 Nhân tố bên trong doanh nghiệp 16
1.5 SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA DOANH NGHIỆP 18
1.5.1 Nâng cao hiệu quả kinh doanh giúp doanh nghiệp có thể tồn tại, đứng vững và phát triển trong điều kiện hội nhập, cạnh tranh ngày càng gay gắt 18
1.5.2 Nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu để đáp ứng đòi hỏi của việc khan hiếm nguồn lực 18
1.5.3 Nâng cao hiệu quả kinh doanh giúp nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho lao động trong doanh nghiệp 19
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN XÂY DỰNG VÀ XUẤT NHẬP KHẨU SÔNG HỒNG 20
2.1 GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN XÂY DỰNG VÀ XUẤT NHẬP KHẨU SÔNG HỒNG 20
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Công ty 20
2.1.2 Cơ cấu bộ máy tổ chức quản lý 23
2.1.3 Một số đặc điểm kinh tế kỹ thuật của Công ty 26
2.1.4 Một số kết quả hoạt động của Công ty 31
2.2 THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NHÂP KHẨU TẠI CỒNG TY CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN XÂY DỰNG VÀ XUẤT NHẬP KHẨU SÔNG HỒNG 35
2.2.1 Thực trạng hoạt động nhập khẩu tại Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng 35
2.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động nhập khẩu của Công ty .43
2.3 ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN XÂY DỰNG VÀ XUẤT NHẬP KHẨU SÔNG HỒNG 51
2.3.1 Những mặt đạt được trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu của Công ty 51
2.3.2 Những hạn chế trong việc nâng cao hiệu quả nhập khẩu của Công ty 53
2.3.3 Nguyên nhân của những hạn chế 54
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN XÂY DỰNG VÀ XUẤT NHẬP KHẨU SÔNG HỒNG 57
3.1 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY. 57
3.1.1 Phương hướng 57
3.1.2 Mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu của Công ty 58
3.2 ĐÁNH GIÁ THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA CÔNG TY TRONG VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TRONG THỜI GIAN TỚI. 59
3.2.1 Thuận lợi . 59
3.2.2 Khó khăn . 60
3.3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN XÂY DỰNG VÀ XUẤT NHẬP KHẨU SÔNG HỒNG 61
3.3.1 Nâng cao hiệu quả thực hiện công việc, chú trọng nâng cao đời sống của cán bộ nhân viên 61
3.3.2 Về vấn đề huy động vốn và sử dụng vốn 64
3.3.3 Về vấn đề quản lý nhân sự 65
3.3.4 Đầu tư vào vấn đề nghiên cứu thị trường 66
3.3.5 Về vấn đề phân phối 68
3.3.6 Ứng dụng thương mại điện tử 71
3.3.7 Lựa chọn mặt hàng kinh doanh 72
3.3.8 Lựa chọn thị trường nhập khẩu 73
3.3.9 Lựa chọn nhà cung cấp 73
3.3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỚI NHÀ NƯỚC 74
KẾT LUẬN 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
82 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1821 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ời lao động tạo ra 633,9 triệu đồng cho Công ty, năm 2004 tăng lên 776,6 triệu và tiếp tục tăng ở hai năm tiếp theo 2005, 2006 tương ứng là 907,9 và 1.801,6. Chỉ tiêu này liên tục tăng như vậy là do số lao động làm việc riêng trong lĩnh vực nhập khẩu tăng ít qua các năm trong khi doanh thu lại tăng khá mạnh. Đặc biệt năm 2006, doanh thu tăng mạnh ( tăng 216% so với năm 2005) nhưng số lao động chỉ tăng 109% so với năm 2005, do đó đã tác động làm cho năng suất lao động bình quân một người tăng lên 198,4%.
Chỉ tiêu lợi nhuận/người thể hiện lợi nhuận trung bình một lao động làm ra trong một năm, chỉ tiêu này cũng liên tục tăng qua các năm nhưng không nhiều. Năm 2006 tăng mạnh nhất, đạt 30,18 triệu đồng/người, tăng 8,27 triệu ứng với số tương đối là 138%. Nguyên nhân cũng tương tự như trên, lợi nhuận hàng năm đạt được tăng nhanh hơn mức tăng của lao động nên tác động làm tăng chỉ tiêu này. Tuy chỉ tiêu này biến động theo chiều hướng tích cực nhưng so với các doanh nghiệp trong ngành, chỉ tiêu này là thấp. Do đó, doanh nghiệp cần nỗ lực để những năm sau chỉ tiêu này tiếp tục tăng mạnh.
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN XÂY DỰNG VÀ XUẤT NHẬP KHẨU SÔNG HỒNG
Những mặt đạt được trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu của Công ty
Cũng như nhiều doanh nghiệp khác của Việt Nam, Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng được hoạt động trong môi trường chính trị ổn định dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với việc mở rộng hợp tác quốc tế với nhiều quốc gia trên thế giới đã giúp Công ty có thêm nhiều cơ hội trong việc phát triển thị trường nhập khẩu và mở rộng mặt hàng. Sự gia nhập vào ASEAN, APEC và bây giờ là WTO của Việt Nam đã và sẽ tiếp tục tạo những điều kiện thuận lợi cho việc xuất nhập khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp tham gia trực tiếp vào lĩnh vực này, trong đó có Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng.
Trong gần 50 năm thành lập và phát triển và sau 4 năm cổ phần hoá, Công ty đã thu được nhiều thành quả lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh và nhất là hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá, trong đó việc nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu đã đạt được một số kết quả nhất định.
Thế và lực của Công ty sau 4 năm cổ phần hoá ngày càng phát triển. Công ty đã tạo dựng được uy tín với các đối tác trong và ngoài nước. Giá trị các hợp đồng nhập khẩu uỷ thác trong những năm qua tăng với tốc độ rất cao đã chứng tỏ Công ty đã có được sự tin tưởng của các đối tác trong việc uỷ thác cho Công ty nhập khẩu hàng hoá. Mức tăng trưởng của giá trị hợp đồng nhập khẩu trực tiếp cũng đạt mức cao. Do đó, doanh thu của cả hoạt động nhập khẩu liên tục tăng với tốc độ cao trong những năm qua.
Bên cạnh doanh thu, một số chỉ tiêu hiệu quả hoạt động nhập khẩu liên tục tăng trong những năm qua và tăng mạnh vào năm 2006 như lợi nhuận nhập khẩu, năng suất lao động bình quân, mức lợi nhuận trung bình một người một năm. Điều này cho thấy những biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu mà Công ty đã áp dụng trong thời gian qua đã có được kết quả nhất định.
Việc đầu tư nghiên cứu thị trường đã đem lại hiệu quả bước đầu cho Công ty. Điều này được thể hiện ở việc thị trường nhập khẩu, mặt hàng nhập khẩu mở rộng hơn trong những năm qua. Hiện nay Công ty đã có quan hệ hợp tác kinh doanh với các bạn hàng ở hơn 10 nước trên thế giới. Trong quá trình hợp tác, Công ty luôn cố gắng thiết lập và duy trì hệ thống bạn hàng tin cậy, ổn định, tạo mối quan hệ làm ăn lâu dài. Chính điều này đã giúp tăng doanh thu nhập khẩu với tốc độ cao như trong năm 2006 vừa qua. Hơn nữa, việc thiết lập và duy trì mối quan hệ tốt với một hệ thống nhà cung cấp như vậy chứng tỏ Công ty đã tính đến hiệu quả kinh doanh lâu dài.
Công ty đã xây dựng được cơ cấu tổ chức kinh doanh nhập khẩu tương đối hoàn chỉnh với đội ngũ cán bộ có chuyên môn và trình độ ngày càng cao. Ngay từ khâu tuyển dụng, Công ty luôn ưu tiên lựa chọn những ứng viên trẻ, năng động, có trình độ từ đại học trở lên và được đào tạo về chuyên ngành xuất nhập khẩu. Vì vậy, trình độ lao động trung bình của Công ty đã được nâng lên đáng kể trong những năm vừa qua và năng suất lao động, mức lợi nhuận trung bình một người lao động làm ra cũng liên tục tăng. Thu nhập bình quân, đời sống của cán bộ công nhân viên Công ty cũng vì vậy mà được nâng lên đáng kể. Những thành quả trên đạt được cũng nhờ vào những nỗ lực của toàn thể cán bộ nhân viên trong Công ty.
Những hạn chế trong việc nâng cao hiệu quả nhập khẩu của Công ty
Trong những năm đầu thực hiện cổ phần hoá, Công ty gặp không ít khó khăn trong hoạt động nhập khẩu. Mặc dù đã có những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nhưng thực trạng cho thấy việc nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu của Công ty vẫn còn rất nhiều hạn chế.
Có thể thấy được rất rõ những hạn chế trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu của Công ty thông qua các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả liên tục trong những năm qua: các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận, hiệu quả sử dụng vốn có xu hướng biến động xấu, thể hiện hiệu quả kinh doanh của Công ty đang đi xuống. Hơn nữa, các chỉ tiêu này của Công ty vẫn còn thấp so với các doanh nghiệp trong ngành.
Tuy doanh thu nhập khẩu tăng rất cao nhưng chi phí biến đổi của hoạt động nhập khẩu còn tăng với tốc độ cao hơn dẫn đến lợi nhuận tuy có tăng nhưng không tương ứng với mức tăng của doanh thu và chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận liên tục giảm trong những năm qua.
Hạn chế từ nguồn nhân lực: Với kinh nghiệm nắm bắt thực tế, trình độ xử lý các tình huống còn kém, rập khuôn và còn tình trạng người làm không đúng việc đã làm giảm hiệu quả thực hiện công việc của người lao động. Hơn nữa, một bộ phận lớn nhân viên đã làm việc lâu năm, từ khi Công ty còn là một doanh nghiệp Nhà nước còn có biểu hiện trì trệ trong công việc, vẫn còn mang phong cách làm việc hành chính bao cấp. Điều này ảnh hưởng xấu đến văn hoá làm việc của cả Công ty nhất là những nhân viên mới vốn trẻ và năng động. Vấn đề đào tạo đội ngũ nhân viên cũng chưa thực sự mang lại hiệu quả. Trong năm vừa qua, Công ty đã cử một số nhân viên đi học lớp về nghiệp vụ xuất nhập khẩu nhưng hiệu quả thu được từ khoá học này đối với cá nhân người đi học không cao, việc truyền đạt lại cho các nhân viên khác cũng chưa được thực hiện.
Quá trình thu thập và xử lý thông tin chưa thực sự hiệu quả. Việc lập phương án nhập khẩu thì khâu dự báo các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu trong tương lai chưa được quan tâm nghiên cứu. Chưa có sự đồng nhất giữa từng phương án nhập khẩu với một chiến lược nhập khẩu cho cả giai đoạn. Năm 2006, Công ty đã nhập khẩu một lượng lớn đồ điện gia dụng (giá trị nhập khẩu tăng 203% so với năm 2005) tuy nhiên doanh thu, lợi nhuận đã không được như mong đợi bởi vì thị trường sản phẩm này trong nước bão hoà, Công ty phải áp dụng chính sách định giá ngang bằng và thấp hơn giá thị trường để nhanh chóng tiêu thụ hết hàng hoá. Nguyên nhân cũng chỉ là do Công ty đã không dự báo được chính xác cung cầu thị trường để có thể đưa ra một kế hoạch kinh doanh hợp lý hơn.
Nguyên nhân của những hạn chế
Nguyên nhân từ bản thân doanh nghiệp
Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, Công ty đã trải qua nhiều thăng trầm nhưng bằng sự vận động linh hoạt, Công ty đã vượt qua những khó khăn, tìm ra nguyên nhân của những tồn tại để đưa Công ty phát triển.
Nguyên nhân thứ nhất là do nguồn lực bên trong còn hạn chế, kinh phí đầu tư còn hạn hẹp nên cơ sở vật chất của Công ty chưa đáp ứng được tốt nhu cầu kinh doanh, đôi khi còn làm lỡ cơ hội kinh doanh.
Thứ hai, đó là việc thiếu thông tin: Tuy phòng kế hoạch thị trường có nhiệm vụ nghiên cứu thị trường, tìm kiếm đối tác nhưng do mới thành lập nên việc thu thập xử lý thông tin còn yếu kém, chậm so với đối tác dẫn đến làm mất cơ hội kinh doanh. Đặc biệt trong việc tìm kiếm thông tin, do hạn chế về ngân sách nên chất lượng thông tin không cao, thông tin chủ yếu là thông tin thứ cấp, việc thu thập qua sách, báo, internet và một số nguồn khác nên chưa mang tính đặc biệt, độc đáo quyết định đến thành công của một thương vụ nhập khẩu.
Chưa có một cơ cấu mặt hàng hợp lý, sử dụng yếu tố đầu vào chưa hiệu quả, chưa có những biện pháp cắt giảm chi phí nhập khẩu. Những mặt hàng nhập khẩu đóng góp giá trị lớn vào tổng doanh thu một phần lớn lại là những mặt hàng nhập khẩu uỷ thác nên phần hưởng lợi trên mỗi lô hàng này ít. Hơn nữa, Công ty chưa tạo được mối quan hệ làm ăn lâu dài với bạn hàng nhập khẩu do hoạt động còn mang tính chất thương vụ.
Thêm vào đó là hạn chế rất lớn của Công ty ngày càng bộc lộ như nguồn vốn kinh doanh ít so với quy mô kinh doanh của Công ty, do đó hoạt động kinh doanh của Công ty chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay của ngân hàng và trả lãi suất cao (năm 2006, lãi suất vay ngân hàng tăng) trong điều kiện tỷ lệ lợi nhuận nhập khẩu ngày càng thấp. Trong nguồn vốn kinh doanh, vốn vay tín dụng luôn chiếm tỉ lệ khá cao, khoảng 77%, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vốn kinh doanh của công ty. Điều này được thể hiện ở việc nhiều hợp đồng nhập khẩu uỷ thác đã phải từ chối vì nguồn vốn của công ty không kịp quay vòng để ký quỹ mở thư tín dụng. Như vậy, việc huy động vốn không đáp ứng đủ nhu cầu đã làm mất nhiều cơ hội kinh doanh của Công ty.
Nguyên nhân tiếp theo phải kể đến đó là dấu ấn hành chính bao cấp còn mang nặng trong phong cách làm việc của một bộ phận cán bộ nhân viên trong công ty, cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu còn bị trái ngành, trái nghề, không được đào tạo bài bản về lĩnh vực xuất nhập khẩu khá nhiều. Hơn nữa, những người này tính ham học hỏi còn thấp. Chính những điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả công việc.
Nhận thức về công tác Marketing cho hàng hoá nhập khẩu trực tiếp ở Công ty mà cụ thể là ban lãnh đạo vẫn còn hạn chế. Công ty chưa quan tâm đến việc xây dựng, hoàn thiện việc tiêu thụ sản phẩm nhập khẩu trực tiếp. Các cửa hàng kinh doanh mới chỉ tập trung ở Hà Nội, chủ yếu ở địa bàn quận Hai Bà Trưng, Quận Đống Đa tuy có địa thế đẹp, gần các khu đông dân nhưng cơ sở vật chất đã cũ nên không gây được sự chú ý hay sở thích tham quan mua sắm của khách hàng. Việc quảng bá cho các sản phẩm nhập khẩu trực tiếp cũng chưa được chú ý thực sự.
Cơ cấu bộ máy tổ chức, vấn đề phân công công việc cho mỗi phòng ban còn nhiều điều chưa hợp lý, rõ ràng. Vẫn còn tình trạng người làm không đúng việc, công việc giao cho các phòng ban chồng chéo nhau. Điều này đã làm giảm hiệu quả công việc, dẫn đến giảm hiệu quả hoạt động của Công ty.
Trên đây mới chỉ là một số nguyên nhân chủ quan xuất phát từ bên trong nên việc khắc phục nó dễ dàng hơn các nguyên nhân từ bên ngoài ảnh hưởng hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty.
Nguyên nhân từ môi trường bên ngoài
Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là vấn đề cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt. Nền sản xuất trong nước phát triển, sản phẩm ngày càng đa dạng về chủng loại, chất lượng, mẫu mã nên đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng của người dân. Bên cạnh đó, Công ty còn phải cạnh tranh với ngày càng nhiều các doanh nghiệp xuất nhập khẩu khác. Sự cạnh tranh gay gắt của thị trường buộc Công ty phải có chính sách định giá linh hoạt, đồng thời nó cũng ảnh hưởng đến các chi phí tiêu thụ hàng nhập khẩu của Công ty do đó cũng ảnh hưởng đến doanh thu, chi phí, lợi nhuận,…và hiệu quả nhập khẩu.
Nguyên nhân thứ hai là những biến động thất thường của nhu cầu thị trường khiến doanh nghiệp rất khó dự báo chính xác để có thể đưa ra những kế hoạch kinh doanh hợp lý và lâu dài.
Bên cạnh đó là những thủ tục hành chính còn rườm rà cũng ảnh hưởng đến chi phí và thời gian của doanh nghiệp.
Ngoài ra cũng còn một số nguyên nhân khác như thông tin thị trường vẫn còn ít và thiếu minh bạch, sự thay đổi thường xuyên trong chính sách nhập khẩu của Nhà nước,…cũng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp trong thời gian qua.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN XÂY DỰNG VÀ XUẤT NHẬP KHẨU SÔNG HỒNG
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỤC TIÊU NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY
Phương hướng
Từ khi thành lập đến nay, Công ty đã trải qua rất nhiều bước thăng trầm trong hoạt động kinh doanh, mục tiêu và phương hướng hoạt động mà Công ty đưa ra cũng khá nhiều, trong đó mục tiêu lớn nhất công ty luôn đặt ra là lợi nhuận thu được từ hoạt động xuất nhập khẩu. Sự thành hay bại của mục tiêu này phụ thuộc vào việc nó có cụ thể linh hoạt, hợp lý, khả thi, nhất quán và hợp pháp hay không.
Đánh giá mục tiêu, phương hướng và kết quả đạt được trong thời gian qua cho thấy các chỉ tiêu mà Công ty đều đạt hoặc vượt kế hoạch chứng tỏ Công ty đã có sự nghiên cứu kỹ lưỡng khi đưa ra kế hoạch và mục tiêu, những kế hoạch này đã đảm bảo sự chính xác linh hoạt, có tính khả thi, phù hợp với khả năng của mình. Tại báo cáo tổng kết cuối năm 2006, Công ty đã đề ra phương hướng hoạt động cho năm 2007 và cho giai đoạn tiếp theo đến năm 2010, nếu hoạt động kinh doanh tốt sẽ tạo đà phát triển cho những năm sau như vươn lên giành thị phần, đưa kim ngạch xuất nhập khẩu tăng, qua đó tăng lợi nhuận.
Với hoạt động nhập khẩu Công ty đề ra chỉ tiêu cho cả vấn đề mở rộng thị trường và cơ cấu mặt hàng nhập khẩu, loại hình nhập khẩu theo hướng có hiệu quả cao nhất.
Về thị trường nhập khẩu: nhập khẩu chiếm tỉ trọng khá cao trong cơ cấu doanh thu của công ty nhưng lợi nhuận thu được từ hoạt động này không cao nên công ty ngoài việc duy trì mối quan hệ buôn bán với những thị trường truyền thống thì cũng tìm kiếm những thị trường mới có khả năng sinh lợi cao hơn.
Về quan hệ kinh doanh: Củng cố mối quan hệ kinh doanh với các nhà cung cấp truyền thống đồng thời tìm kiếm thêm nguồn hàng mới, nhà cung cấp mới.
Về loại hình nhập khẩu: Trong năm 2007, công ty sẽ chú trọng hơn tới việc phát triển hình thức nhập khẩu trực tiếp để tăng nhanh hơn lợi nhuận của hoạt động nhập khẩu đồng thời cũng gia tăng doanh thu từ hoạt động nhập khẩu uỷ thác.
Về cơ cấu mặt hàng nhập khẩu: Tăng tỷ trọng của nhóm hàng máy móc thiết bị phục vụ cho nhu cầu hiện đại hoá của các cơ quan, các doanh nghiệp, đa dạng hoá các mặt hàng nhập khẩu.
Về thị trường kinh doanh. Riêng trong lĩnh vực nhập khẩu, thị trường kinh doanh là thị trường trong nước. Định hướng và mục tiêu phát triển sẽ là: Mở rộng thị trường trong nước, có những chương trình, biện pháp quảng bá các sản phẩm nhập khẩu trên thị trường.
Mục tiêu phát triển nguồn nhân lực: Biên chế và cơ cấu lao động của Công ty năm 2006 là 107 người trong đó lao động có trình độ đại học chiếm tỉ lệ 50%, khá cao nhưng cũng đòi hỏi công ty cần có những biện pháp để nâng cao trình độ nhân viên trước yêu cầu ngày càng cao về hiệu quả hoạt động kinh doanh đặc biệt lại là lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu trong thời buổi hội nhập. Vì thế, Công ty đang có hướng đào tạo nâng cao trình độ cho toàn thể cán bộ công nhân viên, nhất là cán bộ thuộc phòng xuất nhập khẩu.
Mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu của Công ty
Căn cứ vào kết quả thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch các năm qua, sự đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong sản xuất kinh doanh năm 2006, Công ty phấn đấu thực hiện một số mục tiêu cụ thể như sau:
Về doanh thu nhập khẩu. Công ty đặt ra chỉ tiêu năm 2007 doanh thu lĩnh vực nhập khẩu đạt 220 tỷ trong đó nhập khẩu trực tiếp đạt 100 tỷ và nhập khẩu uỷ thác đạt 120 tỷ.
Lợi nhuận nhập khẩu năm 2007, Công ty đặt ra mục tiêu tăng lên 2.200.000.000đ
Kim ngạch nhập khẩu ước đạt 11.500.000 USD.
ĐÁNH GIÁ THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA CÔNG TY TRONG VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TRONG THỜI GIAN TỚI
Trong bối cảnh Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào đầu năm 2007 này, môi trường kinh doanh trong nước đã và sẽ có những thay đổi lớn lao, tác động đến hoạt động nhập khẩu của Công ty. Như vậy, trong thời gian tới mà cụ thể là năm 2007, việc nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu của Công ty sẽ có được những thuận lợi và gặp phải những khó khăn gì?
Thuận lợi
Tất cả các nước mà hiện nay là thị trường cung cấp của Công ty đều đã gia nhập WTO, do vậy, thuế nhập khẩu hàng hoá từ những thị trường này sẽ giảm mạnh từ đầu năm 2007 này. Thuế nhập khẩu chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng chi phí nên việc giảm mạnh thuế nhập khẩu đồng nghĩa với việc chi phí nhập khẩu cũng giảm đi nhiều. Hơn nữa, giảm thuế nhập khẩu cũng có nghĩa là giảm thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu phải nộp của Công ty vì thuế này được tính chồng lên thuế nhập khẩu, một lần nữa nó lại làm giảm chi phí cho doanh nghiệp. Ngoài ra, thuế phải nộp ít hơn nên giá bán hàng hoá cũng giảm đi sẽ đẩy nhanh việc tiêu thụ hàng hoá, điều này sẽ giúp tăng doanh thu, tăng số vòng quay vốn lưu động cho Công ty.
Việt Nam gia nhập WTO mở ra một thị trường nhập khẩu rộng lớn với mức thuế thấp. Công ty sẽ có cơ hội lựa chọn mặt hàng nhập khẩu với chất lượng và giá cả hợp lý hơn. Điều này rõ ràng ảnh hưởng đến chi phí hàng nhập khẩu của Công ty do đó tác động đến tổng chi phí nhập khẩu và hiệu quả hoạt động nhập khẩu.
Thứ ba, cơ sở hạ tầng kỹ thuật đất nước ta đã có những tiến bộ đáng kể, hơn nữa các ngành dịch vụ như ngân hàng, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông đã có những thay đổi nhiều mặt theo hướng phục vụ khách hàng tốt hơn để đáp ứng yêu cầu của cạnh tranh trong thời buổi hội nhập. Những yếu tố này ngày càng tạo nhiều thuận lợi cho Công ty trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của mình, giúp tiết kiệm chi phí về thời gian, công sức và tiền bạc.
Để phù hợp hơn với những thông lệ quốc tế và những cam kết để gia nhập WTO, rất nhiều chính sách của Việt Nam đã thay đổi theo hướng thuận lợi hơn, thông thoáng hơn cho hoạt động của các doanh nghiệp. Điều này không chỉ giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí bằng tiền mà còn tiết kiệm được chi phí về thời gian. Do đó, nó góp phần vào việc giảm chi phí chung của Công ty.
Khó khăn
Khó khăn thấy rõ nhất phải nói đến đó là vấn đề cạnh tranh. Các mặt hàng kinh doanh của Công ty sẽ gặp phải sự cạnh tranh rất gay gắt trong thời gian tới. Cạnh tranh không phải chỉ từ các doanh nghiệp trong nước đang hoạt động, sắp hoạt động trong lĩnh vực này mà còn từ các nhà nhập khẩu ở những nước khác. Ngoài ra, trình độ sản xuất của các doanh nghiệp trong nước ngày càng tiến bộ và có sự góp mặt ngày càng nhiều của các nhà sản xuất nước ngoài đầu tư vào Việt Nam nhất là trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO, có những điều kiện thuận lợi và chính sách ưu đãi lớn để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hàng hoá sản xuất trong nước vì vậy có chất lượng và mẫu mã không thua kém hàng ngoại nhập lại không phải chịu thuế, chi phí vận chuyển nên giá cả cũng rất hợp lý. Mức độ cạnh tranh với các nhà nhập khẩu khác đã rất gay gắt, Công ty còn phải cạnh tranh với nền sản xuất trong nước. Mức độ cạnh tranh cao như vậy sẽ ảnh hưởng đến các chi phí để tiêu thụ hàng hoá, hơn nữa, giá bán hàng hoá giảm để tăng sức cạnh tranh sẽ tác động làm giảm doanh thu, lợi nhuận và dẫn đến làm giảm các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động nhập khẩu của Công ty.
Thị trường kinh doanh quốc tế mở rộng nhưng cũng tiềm ẩn ngày càng nhiều rủi ro kinh doanh trong khi trình độ, nghiệp vụ xuất nhập khẩu của cán bộ trong Công ty còn yếu. Đây thực sự là một khó khăn đối với Công ty vì việc nâng cao được trình độ, nghiệp vụ của cán bộ xuất nhập khẩu để đáp ứng được yêu cầu không thể diễn ra trong thời gian ngắn.
Một số nguyên nhân gây nên những hạn chế trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty trong thời gian vừa qua như cơ sở vật chất, hệ thống thông tin, phong cách làm việc của nhân viên xuất nhập khẩu, khả năng lãnh đạo của lao động quản lý, mạng lưới phân phối,…tiếp tục là những khó khăn trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu trong thời gian trước mắt bởi vì để thay đổi được trong thời gian ngắn là điều rất khó.
Trên đây đã phân tích một số thuận lợi và khó khăn mà Công ty sẽ gặp phải trong thời gian sắp tới. Nó giúp tạo cơ sở đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu làm sao để tận dụng tối đa những thuận lợi và khắc phục những khó khăn gặp phải.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN PHÁT TRIỂN XÂY DỰNG VÀ XUẤT NHẬP KHẨU SÔNG HỒNG
Trước những thực trạng hiệu quả hoạt động nhập khẩu và những khó khăn từ bản thân doanh nghiệp và từ môi trường kinh doanh như trên, Công ty cần tổ chức phối hợp thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp trong thời gian tới để cải thiện tình hình, giúp doanh nghiệp ngày càng phát triển, đi lên. Dưới đây là một số đề xuất về góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại Công ty.
Nâng cao hiệu quả thực hiện công việc, chú trọng nâng cao đời sống của cán bộ nhân viên
Nhân lực là yếu tố rất quan trọng. Suy cho cùng, nó là yếu tố cơ bản nhất quyết định đến hiệu quả kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào. Do vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu của Công ty, đầu tiên ta phải quan tâm đến vấn đề nhân lực.
Hiện nay, cán bộ nhân viên của Công ty đa số còn trẻ cả về tuổi đời lẫn tuổi nghề nên kinh nghiệm cũng còn một số hạn chế khi tiến hành hoạt động nhập khẩu. Vì thế, việc nâng cao trình độ nghiệp vụ ngoại thương cho đội ngũ cán bộ thông qua hình thức bồi dưỡng, đào tạo lại và tuyển dụng mới là hết sức cần thiết. Để làm được điều này Công ty cần có những biện pháp sau:
- Tiếp tục thực hiện việc cử các cán bộ, nhân viên đi học tập nghiên cứu ở các lớp đào tạo nghiệp vụ ngoại thương trong và ngoài nước, sau đó về truyền đạt lại cho các nhân viên khác. Tuy nhiên, lãnh đạo Công ty cần phải cân nhắc kỹ càng việc lựa chọn ai đi học. Thông thường những nhân viên trẻ ham thích học hỏi hơn, tiếp thu những cái mới nhanh hơn những nhân viên lớn tuổi. Nhưng nếu nhân viên trẻ quá thì sẽ gặp khó khăn trong việc truyền đạt lại cho những người khác. Do vậy, Công ty nên chọn nhân viên trẻ, có trình độ, ham học hỏi, nhiệt tình trong công việc và đã công tác trong ngành khoàng 7-10 năm. Như vậy, hiệu quả học tập rất có thể sẽ cao hơn.
- Thứ hai, đào tạo chuyên môn cho đội ngũ mới vào nghề, giúp họ nhanh chóng nắm bắt, nâng cao trình độ nghiệp vụ xuất nhập khẩu từ công tác chuẩn bị hồ sơ ban đầu đến thực hiện tốt nghiệp vụ giao nhận hàng hoá.
Bên cạnh việc nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ nhân viên, Công ty cũng cần chú trọng đến việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho họ. Mức lương hiện nay ở Công ty ở mức trung bình so với các doanh nghiệp khác. Trong điều kiện giá cả các loại hàng hoá liên tục tăng như hiện nay, việc tăng lương cho cán bộ nhân viên là lẽ tất nhiên để giúp họ đảm bảo được cuộc sống, nhưng Công ty có thể tăng lương cao hơn một chút so với mức tăng chung của các doanh nghiệp trong ngành. Đương nhiên, tăng lương là tăng chi phí nhưng xét thấy tác động của việc tăng lương như vậy có thể mang lại lợi ích nhiều hơn những chi phí mà Công ty phải bỏ ra. Phong cách làm việc trì trệ, còn mang tính hành chính bao cấp là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến hiệu quả hoạt động nhập khẩu không cao. Việc tăng lương cho cán bộ nhân viên cao hơn mức tăng chung của xã hội sẽ làm tăng động lực lao động cho nhân viên, họ sẽ làm việc tích cực hơn, hiệu quả hơn và kết quả tạo ra nhiều hơn trong khi chi phí lại giảm đi.
Bên cạnh đó, việc phát hiện, bồi dưỡng và “giữ chân” người tài là một vấn đề mà lãnh đạo Công ty cần chú ý. Lãnh đạo Công ty cần có sự quan sát, phân tích kỹ càng, phát hiện những người có trình độ, năng lực, có phong cách làm việc, tư cách đạo đức tốt, có uy tín đối với đồng nghiệp để có chế độ đãi ngộ thích hợp như khen thưởng, thăng chức, tăng lương, thưởng, bồi dưỡng nghiệp vụ,…thể hiện sự trọng dụng họ từ đó ràng buộc họ với Công ty. Những chính sách như vậy sẽ tạo động lực cho họ phấn đấu, cống hiến hết mình cho Công ty. Ngoài ra, với chính sách trọng dụng nhân tài như vậy cùng với sự cống hiến của những người tài đã được trọng dụng sẽ như tấm gương cho những nhân viên khác nỗ lực làm việc. Tuy nhiên, để chính sách đạt được hiệu quả, cần phải có sự công bằng trong việc xem xét ai là người tài và chính sách đãi ngộ như thế nào là phù hợp.
Ban lãnh đạo Công ty có thể đặt ra các mục tiêu hoạt động cho các phòng ban hoặc để họ tự đặt ra mục tiêu phấn đấu cho tháng tiếp theo dựa vào chỉ tiêu các năm trước và kế hoạch năm nay của Công ty. Việc hoàn thành hay không hoàn thành mục tiêu, nguyên nhân sẽ được trưởng phòng trình bày trước ban giám đốc vào cuối tháng. Có thưởng, có phạt trước toàn Công ty để tạo ra phong trào thi đua làm việc giữa các phòng, ban.
Phong cách làm việc kém năng động, vẫn còn mang dấu ấn hành chính bao cấp là một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng hoạt động kém hiệu quả của công ty. Do đó, biện pháp thay đổi phong cách làm việc của nhân viên trong công ty là điều rất cần thiết. Chính những người có tài, những nhân viên trẻ, năng động, nhiệt tình rất có thể tạo nên phong cách làm việc mới cho cả Công ty hay nói cách khác tạo nên văn hoá kinh doanh trong Công ty, ở đó tất cả nhân viên đều cống hiến hết mình vì lợi ích của Công ty. Nếu làm được như vậy, chắc chắn không chỉ hiệu quả hoạt động nhập khẩu mà hiệu quả hoạt động kinh doanh của cả Công ty sẽ tăng lên rất nhanh.
Về vấn đề huy động vốn và sử dụng vốn
Vốn là yếu tố rất quan trọng, thiếu vốn hàng hóa lưu thông chậm, kinh doanh bị đình trệ. Đây cũng là một điểm yếu của Công ty. Trong những năm qua, vốn vay chiếm tỉ lệ cao trong nguồn vốn kinh doanh của Công ty, tuy nhiên nó vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu kinh doanh. Việt Nam gia nhập WTO chắc chắn sẽ tạo thuận lợi lớn cho Công ty trong vấn đề huy động vốn kinh doanh. Thêm rất nhiều ngân hàng, Công ty tài chính quốc tế mở chi nhánh tại Việt Nam, các Ngân hàng trong nước cũng liên tục tăng vốn điều lệ, nâng cao chất lượng phục vụ để tăng khả năng cạnh tranh. Như vậy, nguồn cung ứng vốn trên thị trường tăng, chất lượng phục vụ được nâng cao sẽ tạo thuận lợi hơn trong việc vay vốn kinh doanh của Công ty. Số lượng vốn vay bị giới hạn bởi hạn mức tín dụng của ngân hàng, chính vì vậy Công ty cần thiết lập những mối quan hệ thật tốt với các Ngân hàng, tổ chức tài chính. Điều này không chỉ giúp Công ty vay vốn với số lượng lớn, nhanh chóng mà còn thuận lợi trong vấn đề thanh toán quốc tế, ví dụ như khoản ký quỹ mở thư tín dụng có thể giảm đi, những lỗi chứng từ dù nhỏ mà có thể trở thành rủi ro sẽ được ngân hàng thông báo,…
Việc huy động vốn để đảm bảo đủ vốn duy trì hoạt động kinh doanh là rất cần thiết nhưng phải làm sao để sử dụng vốn cho có hiệu quả, không để vốn ứ đọng gây lãng phí bởi vì tiền doanh nghiệp đi vay phải trả lãi, đó là một khoản chi phí rất lớn. Để có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng tốc độ vòng quay vốn và các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn khác, Công ty cần có biện pháp xúc tiến bán hàng, đầy nhanh tốc độ luân chuyển hàng hoá, tránh để tình trạng ứ đọng hàng hoá, chậm trễ trong khâu giao nhận hàng.
Trong kinh doanh chắc chắn còn có khoản phải thu của khách hàng (hay phần vốn bị khách hàng chiếm giữ) và phải trả người bán (phần vốn doanh nghiệp chiếm giữ của nhà cung cấp). Tăng cường các khoản phải trả người bán và giảm tối thiểu khoản phải thu của khách hàng là một biện pháp nhưng thực hiện được điều này là rất khó. Sự xa cách về mặt địa lý và những khác biệt trong môi trường kinh doanh nên uy tín của Công ty với nhà cung cấp là điều quan trọng nhất, do đó Công ty luôn phải thanh toán đúng hạn. Đối với các nhà cung cấp truyền thống, Công ty có thể đề nghị một số biện pháp như mở L/C trả chậm hoặc chuyển tiền trả sau để tạm chiếm dụng vốn, có tiền quay vòng. Tuy nhiên áp dụng biện pháp này phải chú ý đến tác động của tỷ giá hối đoái nếu không sẽ “lợi bất cập hại”. Đối với khách hàng của Công ty, họ cũng kinh doanh nên luôn muốn chiếm dụng vốn của nhà cung cấp. Do đó, công ty cần tìm hiểu, phân tích khả năng thanh toán của khách hàng, khi kí kết hợp đồng Công ty cần thoả thuận rõ về thời gian thanh toán và khoản tiền phạt thanh toán chậm, chiết khấu khi thanh toán nhanh. Ngoài ra, khoản ký quỹ ngân hàng tuy được hưởng lãi suất tiền gửi nhưng thấp, nếu có được uy tín, mối quan hệ tốt với ngân hàng thì Công ty có thể được giảm khoản tiền kỹ quỹ này, tăng lượng tiền đưa vào lưu thông.
Về vấn đề quản lý nhân sự
Trong thời gian qua, việc quản lý ở Công ty chưa thực sự đạt được hiệu quả, nó là một trong những nguyên nhân gây nên hạn chế trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại Công ty. Tuy nhiên, lãnh đạo Công ty mới chỉ quan tâm đến vấn đề bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên mà chưa quan tâm đến việc nâng cao trình độ quản lý cho lao động quản lý. Vì vậy, trong thời gian tới, lãnh đạo Công ty nên có biện pháp để khắc phục vấn đề này.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng lao động, Công ty cần có sự rõ ràng trong phân công công việc, trách nhiệm, quyền hạn của mỗi phòng ban. Trong mỗi phòng ban cũng có sự phân công rõ ràng như vậy cho từng nhân viên. Năng lực của người lãnh đạo được thể hiện qua khả năng tổ chức, lãnh đạo các nhân viên thực hiện tốt nhiệm vụ còn năng lực của nhân viên được thể hiện qua mức độ hoàn thành công việc được giao. Giao nhiệm vụ rõ ràng cho từng phòng ban, từng cá nhân nhưng không có nghĩa là tách rời họ, các phòng ban phải có sự phối hợp với nhau, thông tin cho nhau trong công việc. Tổ chức bộ máy phải đảm bảo được hai mặt của một vấn đề đó là phân công rõ ràng và phối hợp nhuần nhuyễn, như vậy chắc chắc sẽ nâng cao được hiệu quả hoạt động nhập khẩu, hiệu quả hoạt động kinh doanh cho Công ty. Qua việc giám sát, đôn đốc nhân viên hoàn thành nhiệm vụ, lãnh đạo có thể phát hiện ra những người có tài, có uy tín để có chính sách đãi ngộ thích hợp.
Bên cạnh đó, lãnh đạo Công ty cần nghiên cứu áp dụng tiêu chuẩn quản lý nhân sự ISO – tiêu chuẩn quản lý tiên tiến trên thế giới và đã được nhiều doanh nghiệp Việt Nam áp dụng thành công.
Nâng cao trình độ quản lý sẽ giúp Công ty khai thác tốt hơn nguồn nhân lực của mình, đạt hiệu quả sử dụng lao động cao hơn, tiết kiệm chi phí quản lý doanh nghiệp.
Đầu tư vào vấn đề nghiên cứu thị trường
Nghiên cứu thị trường trong nước
Nghiên cứu thị trường trong nước nhằm phát hiện nhu cầu về sản phẩm cần nhập khẩu. Đây là một nhiệm vụ hết sức cần thiết và cần được đặt lên hàng đầu. Nghiên cứu thị trường trong nước phục vụ cho hoạt động nhập khẩu vì đây chính là thị trường tiêu thụ. Hoạt động nghiên cứu thị trường trong nước tốt sẽ giúp công ty có được những thông tin về cung, cầu trên thị trường, nhu cầu về chủng loại hàng nào và số lượng bao nhiêu và đưa ra được chiến lược nhập khẩu thích hợp, tránh tình trạng nhập khẩu nhiều mặt hàng điện dân dụng như năm 2006 dẫn đến tình trạng định giá thấp hơn giá thị trường để thu hồi vốn. Công ty có thể lựa chọn cách mua các kết quả nghiên cứu thị trường của các công ty chuyên về nghiên cứu thị trường hoặc sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu thị trường như thông qua phỏng vấn, bảng hỏi, quan sát, sách báo, tạp chí, internet,…
Ngoài ra, để tiếp cận với khách hàng công ty cũng nên tiến hành các hoạt động quảng cáo cho công ty đặc biệt là một số sản phẩm mà công ty là nhà phân phối độc quyền tại Việt Nam. Một chính sách quảng cáo tốt không những sẽ làm tăng doanh số hoạt động kinh doanh nội địa mà còn làm cho khách hàng biết đến tên tuổi của công ty, tin tưởng khả năng kinh doanh của công ty và như vậy sẽ làm tăng sự tin tưởng của khách hàng uỷ thác cho Công ty nhập các hàng hoá cần thiết cho họ. Bên cạnh đó, công ty cũng có thể tìm hiểu kỹ nhu cầu về những mặt hàng mà công ty vốn nhận nhập khẩu uỷ thác trong những năm qua để có kế hoạch nhập khẩu trực tiếp và kinh doanh, nâng cao tỷ suất lợi nhuận chứ không chỉ dừng lại ở nhập khẩu uỷ thác và hưởng phí uỷ thác.
Nghiên cứu thị trường nước ngoài
Đây là nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa đặc biệt đối với công ty, tuy nhiên trong hoạt động của mình, Công ty cũng đã chú ý tới khâu này nhưng mới chỉ tiến hành ở mức độ chung khái quát như nắm tình hình chung về kinh tế, chính trị, xã hội ở thị trường nhập khẩu đó, về bạn hàng cũng chỉ nắm sơ qua loại hình doanh nghiệp của họ, về bên đại diện của họ, mối quan hệ của họ với mình. Do đó, kết quả đem lại chưa cao, vẫn có trường hợp hàng hoá nhập khẩu với giá cao hơn mà lẽ ra Công ty có thể mua với giá thấp hơn của nhà cung ứng khác với cùng mặt hàng và chất lượng.
Trong thời gian tới, Công ty cần đẩy mạnh hơn công tác này, cần đi vào nghiên cứu cụ thể hơn, cần nắm bắt nhu cầu của thị trường đó, nắm rõ uy tín, cơ sở vật chất kĩ thuật và nhất là tình hình kinh doanh nội tại của bạn hàng cần giao dịch, xác định rõ phạm vi, trách nhiệm và quyền hạn của người đứng tên giao dịch của bên bạn hàng...nếu làm tốt những việc này công ty sẽ tránh được những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình.
Nghiên cứu thị trường thế giới sẽ giúp cho công ty tìm được những bạn hàng mới, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, chủ động kí kết hợp đồng trực tiếp với các hãng trực tiếp sản xuất, các đại lý cấp 1, hạn chế giao dịch hợp đồng qua các trung gian nhằm giảm bớt các chi phí về giá không cần thiết.
Thời gian qua Công ty mới chỉ quan hệ với một số thị trường Châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Inđônêxia, Ấn Độ,… và khối EU thì có Anh, Pháp, Na Uy,… Trong những năm tới vấn đề mở rộng quan hệ với thị trường khu vực Bắc Mỹ là rất cần thiết trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO như hiện nay nếu không Công ty sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh trên thị trường này.
Công ty có thể thu thập thông tin về thị trường nước ngoài thông qua sách báo, internet, qua đại sứ quán của nước dự định nhập khẩu tại Việt Nam hoặc Đại sứ quán Việt Nam tại nước đó, cũng có thể thông qua các mối quan hệ quen biết, các doanh nghiệp Việt Nam đã có kinh nghiệm kinh doanh trên thị trường đó,…
Việc nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước một cách bài bản sẽ giúp doanh nghiệp có được một hệ thống thông tin chính xác, cập nhật tạo điều kiện nắm bắt tốt hơn cơ hội kinh doanh và có được những kế hoạch ứng phó kịp thời nếu có những biến động không tốt xảy ra.
Về vấn đề phân phối
Hoạt động phân phối chiếm giữ vị trí rất quan trọng bởi vì có phân phối tức là có sự tiêu thụ hàng hoá thì mới tạo kết quả cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Hoạt động phân phối tốt thì doanh thu sẽ lớn, lợi nhuận sẽ cao, tốc độ quay vòng vốn tăng lên. Việc tiêu thu hàng hoá của Công ty trong những năm qua đã gặp phải một số khó khăn, do đó, để phát triển hoạt động phân phối, Công ty có thể thực hiện một số biện pháp dưới đây.
Nâng cấp các đại lý
Hiện nay, các đại lý phân phối của Công ty có cơ sở vật chất cũ kỹ, tuy có địa thế khá đẹp nhưng cách bài trí chưa bắt mắt, chưa thu hút được sở thích tham quan mua sắm của người tiêu dùng nên việc tiêu thụ hàng hoá gặp nhiều hạn chế. Để khắc phục tình trạng này Công ty có thể đầu tư cho các cửa hàng như sau: sơn sửa, trang trí lại cửa hàng sao cho nhìn thật ấn tượng, có thể sử dụng màu sơn, bảng hiệu giống nhau, giữa các cửa hàng để tăng phần thu hút và dễ nhớ với khách hàng. Ngoài ra, Công ty nên hướng dẫn các chủ đại lý cách bài trí các mặt hàng để nhìn bắt mắt hơn. Cách này sẽ dễ gây được sự chú ý với khách hàng hơn mà chi phí của hoạt động này cũng không cao, tạo điều kiện đẩy nhanh việc tiêu thụ hàng hoá.
Mở rộng hệ thống phân phối
Các mặt hàng nhập khẩu của Công ty hiện nay chủ yếu được tiêu thụ ở thị trường miền Bắc, tập trung ở Hà Nội, thị trường miền Nam và thị trường miền Trung còn ít. Công ty cần nghiên cứu mở rộng thị trường ra các tỉnh lân cận Hà Nội, các tỉnh miền Trung và đặc biệt là miền Nam. Thị trường miền Nam nhất là thành phố Hồ Chí Minh là một thị trường đông dân với mức sống khá cao. Đây thực sự là một thị trường tiêu thụ hấp dẫn bởi vì một số sản phẩm điện gia dụng cao cấp Công ty lại là nhà phân phối độc quyền trên toàn quốc, do đó với những sản phẩm này, Công ty không có đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Tuy Công ty đã thiết lập hợp đồng đại lý với một số cửa hàng tại đây nhưng lượng tiêu thụ hàng năm vẫn thấp. Công ty nên chú trọng đến thị trường này, tìm hiểu rõ nguyên nhân, nghiên cứu kỹ nhu cầu thị trường và có thể có các biện pháp quảng cáo, thiết lập thêm các cửa hàng đại lý tại khu vực này nếu có cơ hội kinh doanh.
Đối với loại mặt hàng vật liệu xây dựng nhập khẩu trực tiếp, đây là mặt hàng hiện nay có nhu cầu rất cao do xây dựng cơ bản trên cả nước gia tăng mạnh. Công ty nên thiết lập thêm, duy trì và phát triển các mối quan hệ với các cửa hàng vật liệu xây dựng trên địa bàn Hà Nội và các tỉnh khác. Ngoài ra, Công ty nên thiết lập mối quan hệ với các nhà thầu xây dựng, họ sẽ là những khách hàng lớn của Công ty về vật liệu nhập khẩu trực tiếp và nếu tạo được uy tín tốt, rất có thể Công ty sẽ nhận được các hợp đồng nhập khẩu uỷ thác máy móc thiết bị xây dựng.
Quảng cáo, xúc tiến bán hàng
Hoạt động quảng cáo, xúc tiến bán hàng có vai trò rất quan trọng trong việc đẩy nhanh tiêu thụ hàng hoá thông qua thúc đẩy cung và cầu gặp nhau, gợi mở nhu cầu của người tiêu dùng. Hiện nay, hoạt động quảng cáo, xúc tiến bán của Công ty chưa được chú trọng đúng mức nhưng để cạnh tranh được trong điều kiện hiện nay, Công ty buộc phải có những biện pháp tích cực hơn nữa để tăng lượng hàng hoá tiêu thụ.
Đối với các sản phẩm điện gia dụng, nhất là những sản phẩm mà chưa phổ biến trên thị trường như máy rửa hoa quả bằng ozone, máy làm đá siêu tốc,…Công ty cần có các chương trình quảng cáo thích hợp. Nhiều sản phẩm điện gia dụng của Công ty là những sản phẩm mới trên thị trường hoặc có đặc điểm nổi bật là bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng như máy rửa hoa quả bằng ozone (do có tính năng loại bỏ các chất bảo quản, thuốc sâu trong hoa quả nên giúp bảo vệ người tiêu dùng), hơn nữa, kinh phí của Công ty còn hạn hẹp nên Công ty có thể lựa chọn quảng cáo trên các báo, tạp chí về công nghệ hoặc các báo về sức khỏe , phụ nữ,…nếu có thể thì quảng cáo cả ở các báo có lượng ấn bản lớn nhưng thường chi phí quảng cáo ở các báo này cao, do vậy nó ảnh hưởng đến chi phí. Công ty cũng nên thuê không gian quảng cáo trên các Website có số lượng người truy cập lớn, hoặc các trang chuyên về tư vấn sức khoẻ, công nghệ,…
Đặc điểm hàng điện tử gia dụng của Công ty là hàng có giá trị không cao, phù hợp với khả năng thanh toán của nhiều người nhưng sản phẩm này lại chưa được biết đến nhiều. Do đó, Công ty có thể áp dụng hình thức quảng cáo qua cataloge, gửi đến các công sở, gia đình. Cataloge cần được thiết kế đẹp, giới thiệu được những ưu điểm nổi bật của sản phẩm. Công ty có thể trực tiếp hoặc qua các đại lý thiết lập một đội ngũ nhân viên kinh doanh đông đảo làm bán thời gian có nhiệm vụ tư vấn các sản phẩm của Công ty, hưởng lương theo số sản phẩm bán ra.
Với các sản phẩm vật liệu xây dựng như đá Granit, Marble, ván sàn,…Công ty cũng có thể quảng cáo thông qua cataloge, website của Công ty. Những cataloge này được gửi đến các cửa hàng và các nhà thầu xây dựng.
Thay vì việc quảng bá các sản phẩm trên các website, Công ty có thể tiết kiệm chi phí bằng cách chỉ quảng cáo trang web của Công ty trên các website khác và giới thiệu tất cả các mặt hàng kinh doanh nhập khẩu của mình trên trang web của Công ty. Cách này tuy có chi phí thấp, giới thiệu được tất cả mặt hàng kinh doanh với khách hàng nhưng lại có sức thu hút kém hơn các biện pháp trên, do đó Công ty có thể kết hợp các biện pháp với nhau nhằm đạt được hiệu quả quảng cáo cao nhất với chi phí thấp nhất. Ngoài ra, Công ty nên thường xuyên gửi các đơn chào hàng kèm cataloge đến cho các khách hàng tiềm năng, có thể sử dụng chào hàng băng thư thông thường hoặc chào hàng trên internet.
Việc quảng cáo không chỉ giúp đẩy nhanh việc tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu trực tiếp, nó còn giúp gia tăng uy tín, vị thế của Công ty trên thương trường từ đó giúp tăng các đơn hàng nhập khẩu uỷ thác.
Bên cạnh hoạt động quảng cáo, Công ty cần có biện pháp tạo lập và duy trì mối quan hệ tốt với khách hàng nhằm tạo được lòng tin và sự trung thành của khách hàng trong việc tiêu thụ hàng hoá của Công ty. Ngoài ra, Công ty còn có thể thu được những phản hồi về ưu, nhược điểm của hàng hoá, góp phần hỗ trợ thông tin cho việc nghiên cứu lựa chọn nguồn hàng.
Ứng dụng thương mại điện tử
Thương mại điện tử được coi là nền thương mại của tương lai, nó rất phát triển ở các quốc gia tiên tiến, nó cũng đã hình thành và đang phát triển ở Việt Nam. Do đó, việc quan tâm, ứng dụng, khai thác những lợi thế của nó là điều hết sức cần thiết. Cơ sở vật chất kỹ thuật của Việt Nam ngày càng phát triển, số người sử dụng internet ngày càng nhiều. Đây là cơ hội cho Công ty phát triển phương thức kinh doanh vẫn còn khá mới mẻ này.
Ngay từ bây giờ, Công ty cần có những chuẩn bị làm tiền đề cho phương thức kinh doanh này. Đầu tiên phải có được đội ngũ nhân viên có chuyên môn cả về công nghệ thông tin và thương mại điện tử. Thứ hai là cơ sở hạ tầng công nghệ của Công ty phải được nâng cấp, đảm bảo tính hiện đại, đáp ứng được yêu cầu. Các công việc khác như lựa chọn phương thức thanh toán qua tài khoản, thanh toán online, hoặc thanh toán trực tiếp; thiết lập đội ngũ giao hàng,…
Công ty có thể ứng dụng thương mại điện tử trong cả hoạt động mua hàng hoá nhập khẩu và tiêu thụ hàng hoá trong nước.
Lựa chọn mặt hàng kinh doanh
Từ năm 2007 Việt Nam đã gia nhập WTO, thuế rất nhiều mặt hàng sẽ giảm, công ty sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt hơn do gia tăng số lượng nhà nhập khẩu. Vì thế sẽ khó hoàn thành kế hoạch đặt ra nếu như không tính toán kỹ lưỡng, xác định được cơ cấu nhập khẩu hợp lý cũng như sự thay đổi về nhu cầu của mỗi sản phẩm. Việc đa dạng hoá mặt hàng sẽ giúp Công ty đáp ứng đầy đủ hơn nhu cầu thị trường đồng thời giảm rủi ro khi có biến động xấu trên thị trường, nâng cao được tên tuổi, địa vị, uy tín của Công ty. Tuy vậy, với mặt hàng được coi là truyền thống cần có sự đổi mới, nắm bắt tình hình, đón trước nhu cầu thị trường để đảm bảo việc nhập khẩu được liên tục, khai thác các lợi thế cạnh tranh của công ty, tránh việc để mất thị trường vào tay đối thủ cạnh tranh.
Trong hoạt động nhập khẩu, công ty có thể tăng giá trị mặt hàng nhập khẩu uỷ thác nhưng để tăng lợi nhuận nhanh hơn thì công ty cần chú ý hơn đến các mặt hàng nhập khẩu trực tiếp vì loại hình này có tỉ lệ lợi nhuận cao hơn so với loại hình nhập khẩu uỷ thác. Trước hết cần phải có được những thông tin chính xác từ hoạt động nghiên cứu thị trường, dự đoán cung cầu trong giai đoạn tiếp theo và đưa ra kế hoạch nhập khẩu.
Do vậy, Công ty cần phải hiểu rõ mục tiêu chiến lược của mình để lựa chọn mặt hàng chủ lực và có thể kinh doanh thêm một số mặt hàng khác nhằm giảm bớt rủi ro trong kinh doanh, tăng thêm lợi nhuận cho Công ty. Để kinh doanh thêm mặt hàng mới Công ty phải nghiên cứu kỹ nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng như thị trường nước ngoài.
Ngoài những yếu tố trên, công ty cần quan tâm đến chu kỳ sống của sản phẩm nhập khẩu, xác định nó đang nằm trong giai đoạn nào để có những chiến lược Marketing thích hợp, không bị lãng phí chi phí hay mua sản phẩm không ngang bằng giá trị của nó.
Công ty hiện nay phải chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các nhà nhập khẩu khác và các nhà sản xuất trong nước. Do vậy, Công ty nên nghiên cứu các phân đoạn thị trường có mức cạnh tranh bớt gay gắt hơn, ví dụ việc lựa chọn nhập khẩu các mặt hàng mà trong nước không có lợi thế về sản xuất sẽ giúp giảm sự cạnh tranh về mặt hàng này từ các nhà sản xuất trong nước.
Từ trước tới nay, Công ty mới chỉ phát triển nhập khẩu hàng hoá, chưa chú ý đến nhập khẩu dịch vụ. Trong khi xu hướng phát triển chung hiện nay là gia tăng tỷ trọng ngành dịch vụ, do vậy Công ty có thể nghiên cứu nhu cầu các loại hình dịch vụ ở Việt Nam để có kế hoạch kinh doanh phù hợp nhằm đa dạng hoá mặt hàng, giảm rủi ro kinh doanh, tăng thu lợi nhuận.
Lựa chọn thị trường nhập khẩu
Việc lựa chọn thị trường nhập khẩu cần dựa chủ yếu vào những thông tin thu thập được từ phòng kế hoạch thị trường. Việc lựa chọn thị trường nhập khẩu phải được cân nhắc về các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh của nước đó như tình hình kinh tế, những vấn đề về chính trị, đảng phái lãnh đạo đất nước, luật pháp, tôn giáo và đặc biệt là văn hoá kinh doanh của họ. Tất cả cần được xem xét kỹ càng để có kế hoạch phòng ngừa rủi ro kinh doanh. Ngoài ra, khi quyết định lựa chọn thị trường nào, Công ty không thể bỏ qua việc xem xét nước đó có cùng nằm trong các khu vực ưu đãi thuế quan với Việt Nam không, khoảng cách địa lý,...
3.2.9 Lựa chọn nhà cung cấp
Việc lựa chọn nhà cung cấp của Công ty vẫn còn nhiều bất cập, Công ty thường quan hệ buôn bán với các nhà cung cấp truyền thống ở những thị trường truyền thống, điều này đảm bảo an toàn cho Công ty, tránh được những rủi ro thường gặp bởi vì hai bên đã tạo được uy tín lẫn nhau. Việc kí kết hợp đồng với các đối tác này chủ yếu qua Fax, không có sự gặp gỡ trực tiếp, điều này giúp giảm chi phí giao dịch. Nhưng trên thực tế, các công ty không phải lúc nào cũng làm ăn thuận lợi, do đó để tránh những rủi ro, Công ty cũng cần thường xuyên kiểm tra tài chính, khả năng cung ứng hàng hoá của công ty bạn.
Trong quá trình hoạt động phát triển, Công ty không thể chỉ có quan hệ buôn bán với các nhà cung cấp truyền thống mà cần phải mở rộng quan hệ với các nhà cung cấp khác để tìm kiếm thêm những hợp đồng mới với giá cả hợp lý hơn và tìm kiếm thêm mặt hàng kinh doanh mới. Do khoảng cách về địa lý, khác biệt về môi trường kinh doanh nên Công ty cần phải tìm hiểu thật kỹ về nhà cung cấp, uy tín trong kinh doanh trên thị trường trong nước và nước ngoài của họ, năng lực sản xuất của họ,…để tránh những rủi ro kinh doanh, bởi vì tiềm lực tài chính của Công ty có hạn, chỉ một vụ kinh doanh gặp rắc rối có thể dẫn đến hậu quả khôn lường.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỚI NHÀ NƯỚC
Để gia nhập WTO, Nhà nước đã hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật liên quan đến thương mại cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật của chúng ta vẫn còn nhiều điều bất hợp lý, thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà. Chính vì vậy trong thời gian tới, Nhà nước cần tiếp tục có những biện pháp nhằm tạo ra một hành lang pháp lý đầy đủ công bằng và thông thoáng nhưng vẫn đảm bảo tính chặt chẽ trong việc quản lý, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động. Nhà nước cũng cần đơn giản hoá các thủ tục hành chính, thực hiện chính sách một cửa một dấu, áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý như việc quản lý, xử lý các đơn thư của doanh nghiệp thông qua Internet. Những thủ tục này nếu được giảm đi sẽ giúp giảm chi phí và thời gian cho doanh nghiệp.
Gia nhập WTO, Nhà nước không thể có những chính sách bảo hộ các doanh nghiệp trong nước vì sẽ vi phạm nguyên tắc cơ bản của WTO. Tuy nhiên, Nhà nước hoàn toàn có thể hỗ trợ theo một cách khác. Đầu tiên là hỗ trợ về thông tin thị trường, Nhà nước có thể cung cấp công khai các thông tin trên các phương tiện thông tin như sách, báo,tạp chí, truyền hình, truyền thanh và đặc biệt là Internet các thông tin về thị trường, về doanh nghiệp mà đặc biệt là các doanh nghiệp nước ngoài, thị trường nước ngoài đồng thời cảnh báo trong trường hợp có biến động xấu trên thị trường trong nước và quốc tế, các cảnh báo về những rủi ro khi kinh doanh trên một thị trường nào đó.
Một cách khác, hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đang thiếu những người có trình độ, năng lực trong lĩnh vực kinh doanh quốc tế, do vậy ngay từ khâu đào tạo tại các trường đại học, các bài giảng cần đi sát hơn với yêu cầu thực tế. Nhà nước có thể mở ra các lớp nghiệp vụ do những người thực sự có năng lực, trình độ, kinh nghiệm hoặc có thể thuê cả các giảng viên nước ngoài để phục vụ nhu cầu đào tạo cán bộ xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp Việt Nam.
KẾT LUẬN
Từ khi thành lập đến nay đã gần 50 năm tồn tại và phát triển, cùng với sự phát triển không ngừng của đất nước, Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng đã có được những bước đi vững chắc, đạt được những thành công lớn trong việc phát triển hoạt động kinh doanh, nâng cao đời sống của cán bộ nhân viên trong Công ty. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, Công ty vẫn còn rất nhiều những tồn tại trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và trong hoạt động nhập khẩu nói riêng. Trong bối cảnh hội nhập như ngày nay, vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu với Công ty lại càng trở nên bức thiết. Nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu tại Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng” đã giúp em hiểu được những hoạt động nhập khẩu rất thực tế tại Công ty, bổ sung cho những kiến thức lý luận em đã được trang bị. Với vốn kiến thức còn ít ỏi của mình, trong bài viết này, em xin đưa ra một số giải pháp để giải quyết những tồn tại trong hoạt động nhập khẩu nhằm giúp Công ty nâng cao được hiệu quả nhập khẩu để có thể ngày càng đứng vững, phát triển, khẳng định vị thế và uy tín của mình trên thương trường. Đồng thời trong chuyên đề này, em cũng đưa ra một số kiến nghị với cơ quan Nhà nước về chính sách vĩ mô nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động.
Do giới hạn về thời gian và khả năng của bản thân, bài viết chắc chắn có nhiều sai xót, em rất mong nhận được những ý kiến nhận xét quý báu của thầy cô để em có thể hoàn thiện hơn nữa chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Nguyễn Thị Hường (2004), giáo trình “Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”, tập 2, NXB Thống Kê.
2. PGS Đinh Xuân Trình (2002), Giáo trình thanh toán quốc tế trong ngoại thương, NXB Giáo Dục.
3. Website:
4. Website:
5. Nguyễn Thị Thanh Nhàn (2005), “Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu của công ty Thương mại và sản xuất vật tư thiết bị Giao Thông Vận Tải (TMT)”, Luận văn tốt nghiệp, ĐH Kinh Tế Quốc Dân, Hà Nội.
6. Hoàng Thị Hồng Vân (2004), “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả nhập khẩu tại công ty sản xuất và thương mại Châu Á”, Luận văn tốt nghiệp, ĐH Kinh Tế Quốc Dân, Hà Nội.
7. Lê Thị Thanh Minh (2004), “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá tại Công ty sản xuất và thương mại Châu Á”, Luận văn tốt nghiệp, ĐH Kinh Tế Quốc Dân, Hà Nội.
8. Hà Huy Thành (2006), “Hoàn thiện công nghệ Marketing nhập khẩu tại Công ty cổ phần phát triển xây dựng và xuất nhập khẩu Sông Hồng”, Luận Văn Tốt Nghiệp, ĐH Thương Mại, Hà Nội.
7. Phạm Quý Hùng (2001), “Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh ở công ty xuất nhập khẩu Hà Tĩnh”, Luận Văn Thạc sỹ, ĐH Kinh Tế Quốc Dân, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1 27.DOC