Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần như hiện nay, mức độ cạnh tranh là rất quyết liệt. Sự tồn tại của cạnh tranh phải được chấp nhận nhưng không được lo sợ. Tôn trọng cạnh tranh không kể loại hình hay quy mô của nó là điều có lợi. Sự tôn trọng đó có thể tạo ra những suy nghĩ độc đáo, làm tăng hiệu quả sản xuất, tạo ra khả năng tiếp thị và nâng cao lợi nhuận. Có thể rút ra được những bài học từ cạnh tranh để phấn đấu và bảo đảm rằng sản phẩm và hoạt động của công ty mình tốt hơn đối thủ cạnh tranh.
Trong bối cảnh đó các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải chấp nhận cạnh tranh. Công ty may mặc xuất khẩu không phải là một ngoại lệ. Trong thời gian qua, công ty đã tham gia cạnh tranh ở nhiều thị trường khác nhau. Công ty đã đạt được một số kết quả như kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng, năm sau cao hơn năm trước, mẫu mã chủng loại hàng hoá ngày càng phong phú, một số mặt hàng tạo được những vị trí nhất định trên những thị trường lớn là EU, Mỹ, Nhật Bản. Tuy nhiên, so với hàng hoá các đối thủ trong và ngoài nước đang hoạt động trong lĩnh vực này thì sức cạnh tranh hàng hoá của công ty còn thấp. Điều này gây ra nhiều thiệt hại cho công ty.
Đề tài “Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm may mặc trên thị trường quốc tế của Công ty May Xuất Khẩu ” được nghiên cứu với mong muốn làm rõ các giải pháp chủ yếu để giúp công ty may xuất khẩu nói riêng và các doanh nghiệp Việt Nam nói chung nâng cao sức cạnh trạnh của hàng hoá xuất khẩu.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm may mặc trên thị trường quốc tế của công ty may xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch hàng mới. Ngoài ra, Công ty còn phải cạnh tranh với các nước đang phát triển khác, đặc biệt là các nước xuất khẩu mới ở Nam á, Asean ...
1.3- Sản phẩm cạnh tranh chủ yếu trên thị trường quốc tế :
Sản phẩm cạnh tranh chủ yếu của Công ty may xuất khẩu là các trang phục may mặc thời trang, trang phục may mặc thông thường, bảo hộ lao động và các sản phẩm sử dụng chất liệu tự nhiên...
2- Những lợi thế cạnh tranh :
- Là một Công ty xuất khẩu hàng may mặc có uy tín .
- Thuế nhập khẩu hàng may mặc của Việt Nam là 50 % nên khi giảm thuế nhập khẩu thì áp lực cạnh tranh tuy tăng song có thề nâng cao sức cạnh tranh của Công ty .
- Sản phẩm của Công ty sản xuất ra với giá nhân công rẻ .
3- Những bất lợi thế :
- Hàng may mặc của công ty có bất lợi đó là máy móc thiết bị nghành may mặc của công ty chủ yếu nhập khẩu từ các đối thủ cạnh tranh của mình như: ý, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc..., còn các nguyên liệu chính là các loại sợi, vải.. cũng được nhập khẩu từ các đối thủ cạnh tranh khác như: Thái Lan, Indonesia, Malasia, Trung Quốc...Thêm vào đó, các nước này lại phát triển trước Việt Nam từ 15 – 20 năm, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất hơn, cho nên hàng may mặc của các nước này có chất lượng cao hơn hàng may mặc công ty là một điều chắc chắn.
- Nếu xét về mặt giá cả, trước đây chúng ta thường tự hào rằng hàng may mặc của công ty nói riêng và của toàn nghành dệt may nói chung có khả năng cạnh tranh về giá cả do giá nhân công của ta thấp nhưng gần đây điều này không còn đúng nữa vì giá nhân công của Trung Quốc còn thấp hơn của ta, hơn nữa ta còn phải chịu chi phí cao vì phải nhập nguyên liệu và máy móc. Như vậy, giá của ta chỉ có thể cạnh tranh được với giá của Thái Lan, Indonesia, Malasia, Hàn Quốc, Hồng Kông. Tuy nhiên, sức cạnh tranh này cũng đang giảm dần vì sự sụt giá của đồng tiền của các nước này so với đồng đôla Mỹ trong khi đồng Việt Nam lại giảm rất ít.
- Điểm hạn chế của công ty chính là ở chỗ công ty chưa khẳng định được mình qua nhãn hiệu hàng hoá danh tiếng hay nghệ thuật marketing. Các sản phẩm của Công ty khi xuất ra nước ngoài chủ yếu là do được khách hàng thuê may gia công. Do đó Công ty may không được gắn nhãn hiệu của mình trên sản phẩm mà mình sản xuất. Các khách hàng thuê công ty gia công là lực lượng tiêu thụ chính mới là người có quyền gắn nhãn hiệu lên sản phẩm, đối với các sản phẩm bán theo giá FOB cũng chưa có ngoại lệ. Đây là một bất lợi rất lớn đối với sản phẩm của công ty vì công ty không thể tự quảng cáo cho sản phẩm của mình trên thị trường thế giới. Như vậy, so với các đối thủ cạnh tranh trên các thị truờng có khả năng thanh toán cao thì sản phẩm của công ty có sức cạnh tranh yếu, vì trên thị trường này yếu tố chất lượng và nhãn mác sản phẩm được chú ý hơn là giá cả.
II – Thực trạng sức cạnh tranh sản phẩm và ảnh hưởng của nó tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty :
1- Sức cạnh tranh về chất lượng sản phẩm :
Ngày nay, khi nhu cầu về tiêu dùng hàng may mặc càng cao thì một trong những yếu tố đầu tiên của hàng hoá được chú ý đến là chất lượng. Đây là nhân tố quan trọng để duy trì và phát triển thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng xuất khẩu. Nhận định được điều này, Công ty May Xuất Khẩu luôn phấn đấu nâng cao chất lượng sản phẩm ở trong nước cũng như nhập ngoại. Chất lượng sản phẩm không chỉ là thể hiện ở chất lượng vải mà còn ở những đường may. Nhờ những việc làm này mà sản phẩm của Công ty May Xuất Khẩu ngày càng tăng. Tuy nhiên để đáp ứng những đòi hỏi khắt khe của thị trường thì công ty còn phải cố gắng nhiều, vì so với những nước xuất khẩu hàng may mặc khác trên thế giới thì chất lượng sản phẩm may mặc của Công ty mới chỉ đạt mức trung bình.
2- Sức cạnh tranh về giá cả :
Giá cả là một trong những công cụ quan trọng để cạnh tranh trên thị trường. Thực tế hiện nay cho thấy, Công ty May Xuất Khẩu còn gặp nhiều khó khăn trong khâu tìm kiếm nguyên liệu. Nguyên liệu chủ yếu của Công ty phải nhập từ bên ngoài, đặc biệt là nguyên phụ liệu, do trong nước không đáp ứng được yêu cầu về mẫu mã cũng như chất lượng. Do đó đã đẩy giá thành các sản phẩm may mặc của công ty lên rất cao, điều này khiến sản phẩm của Công ty khó có khả năng canh tranh về giá được (mặc dù giá nhân công rẻ). Vì vậy, để cho có một mức giá đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của Công ty May Xuất Khẩu có thể phát triển, Công ty đã nghiên cứu kỹ lưỡng về giá mua ( hoặc giá gia công ) hàng hoá, chi phí vận chuyển, bốc xếp, lưu kho, chi phí bán hàng... và đã cố gắng giảm đến mức thấp nhất các chi phí đó. Trên cơ sở hạ giá thành sản phẩm hàng hoá và đưa ra một mức giá bán thích hợp .
3- Sức cạnh tranh trong thiết kế, mẫu mốt :
Ngày nay, kiểu dáng, mẫu mã hàng hoá rất được coi trọng đặc biệt là trong lĩnh vực may mặc và nó cũng là một trong những tiêu chuẩn đầu tiên của khách hàng khi quyết định mua hàng. Đối với Công ty May Xuất Khẩu, về cơ bản sản phẩm may mặc của Công ty mới chỉ có khả năng đáp ứng những nhu cầu tiêu dùng bình thường nên giá trị xuất khẩu chưa cao, mẫu mã sản phẩm may xuất khẩu còn đơn điệu, chủ yếu là những sản phẩm dễ làm và có yêu cầu kỹ thuật trung bình, thấp. Mặt khác, trong hoạt động xuất khẩu, chúng ta và những người nhập khẩu có những phong tục tập quán khác nhau, do đó có cảm nhận về cái đẹp trong ăn mặc khác nhau. Vì lẽ đó mà Công ty May Xuất Khẩu đã phải cố gắng rất nhiều trong việc tìm hiểu thông qua các loại sách, báo, tạp chí về thời trang và lối sống... Từ đây Công ty sẽ đưa ra các mẫu để chào hàng và thăm dò ý kiến của họ. Ngoài ra một số khách hàng sẽ đưa sẵn cho Công ty và từ đó Công ty đặt hàng theo đúng mẫu mã khách hàng yêu cầu và đã có nhiều cố gắng để hàng hoá xuất đạt được yêu cầu cao nhất của khác hàng cả về chất lượng và mẫu mã.
4- Cạnh tranh về đầu mối phân phối, mô hình marketing và xúc tiến thương mại :
4,1. Cạnh tranh về đầu mối phân phối :
Để đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, công ty đã cố gắng phát triển và thiết lập mạng lưới phân phối hàng hoá. Việc thiết lập còn phải căn cứ vào chính sách, chiến lược tiêu thụ sản phẩm mà doanh nghiệp đang theo đuổi, khả năng nguồn lực của doanh nghiệp. Căn cứ vào đặc tính của khách hàng, đặc tính của sản phẩm, các kênh của đối thủ cạnh tranh, mặt hàng thay thế luật pháp…
4.2. Mô hình marketing và xúc tiến thương mại :
* Mô hình marketing :
Nghiên cứu yêu cầu thị trường
ấn định sản phẩm
Chọn thị trường đích
Qui định sản phẩm hỗn hợp
Định giá bán
Định kênh phân phối
Định sức bán
Giao tiếp thương mại
Khuyếch trương bán
Nhu cầu mới
Sản phẩm mới của thị trương mới
Trong kinh doanh thương mại hiện nay, các doanh nghiệp sẽ không đạt được hiệu quả cao nếu chỉ nghĩ rằng: "Có hàng hoá chất lượng cao, giá rẻ là đủ để bán hàng". Nhưng giá trị của hàng hoá, dịch vụ, thậm chí cả những lợi ích đạt được khi tiêu dùng sản phẩm cũng phải được thông tin tới khách hàng hiện đại, khách hàng tiềm năng, cũng như những người có ảnh hưởng tới việc mua sắm. Để làm được điều đó các doanh nghiệp cần thực hiện tốt các hoạt động của xúc tiến thương mại.
Công tác tổ chức hoạt động xúc tiến là tập hợp nhiều nội dung khác nhau nhằm tăng khả năng tiêu thụ, mở rộng thị trường, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp...
* Công tác tổ chức hoạt độngxúc tiến gồm một số nội dung sau
- Quảng cáo.
- Khuyến mại
- Hội chợ triển lãm.
- Bán hàng trực tiếp.
- Quan hệ công chúng và các hoạt động khuyếch trương khác.
Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện truyền tin (Đài, báo, truyền hình..) về hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp đến người tiêu dùng nhằm làm cho khách hàng chú ý tới sự có mặt của doanh nghiệp và sản phẩm dịch vụ sẽ được cung cấp. Quảng cáo phải tạo ra sự khác biệt giữa hàng hoá của doanh nghiệp với hàng hoá hác trên thị trường, làm tăng giá của hàng hoá bán ra. Quảng cáo phải gây được ấn tượng cho khách hàng, tác động vào tâm lý khách hàng... để làm nảy sinh nhu cầu mua sắm của họ, từ đó làm tăng quy mô kinh doanh của doanh nghiệp (nhờ tăng lượng bán). Và một tác dụng nữa của quảng cáo là nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, là một phương tiện cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh.
Bên cạnh hoạt động trên, hiện nay các doanh nghiệp còn thực hiện các hoạt động như chiêu hàng, tham gia hội chợ, tổ chức hội nghị khách hàng... để giới thiệu về sản phẩm của doanh nghiệp mình.
Công tác tổ chức hoạt động xúc tiến tốt tác động mạnh đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Tổ chức hoạt động xúc tiến tốt giúp cho doanh nghiệp tăng lượng bán. tăng doanh thu, lợi nhuận, thu hồi vốn nhanh.
- Tổ chức hoạt động xúc tiến tốt sẽ tạo ra uy tín của sản phẩm trên thị trường, làm cho khách hàng biến đến và hiểu rõ kỹ năng công dụng của sản phẩm.
-Tổ chức tốt hoạt động xúc tiến giúp cho doanh nghiệp tìm được nhiều bạn hàng mới, khai thác được nhiều thị trường, kích thích sản xuất kinh doanh phát triển.
Công ty May Xuất Khẩu đã có một số hoạt động xúc tiến như cho ra đời các catalogue giới thiệu sản phẩm của Công ty, cử cán bộ đi tham dự các hội chợ, triển lãm quốc tế nhằm tìm kiếm thêm khách hàng, giới thiệu mặt hàng... và đã thu được một số kết quả đáng mừng.
5- ảnh hưởng của sức cạnh tranh sản phẩm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh
5.1-Tích cực :
Thứ nhất : Là ảnh hưởng đến nhận thức của đội ngũ cán bộ công nhân viên, họ đều nhận thức được rằng để tồn tại và phát triển được thì sản phẩm của Công ty phải có sức cạnh tranh trên thị trường. Do vậy mỗi người, mỗi phòng ban, mỗi đơn vị …phải làm tốt nhiệm vụ, chức nằng của mình để góp phần tạo ra sức cạnh tranh tốt hơn từ đó tạo kết quả hoạt động trong sản xuất kinh doanh của Công ty.
Thứ hai : Nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trong ngắn hạn giúp công ty đạt được hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, trong dài hạn tạo cho công ty có thế lực trong thương trường từ đa tạo lập một hiệu quả kinh doanh tốt.
Trong cạnh tranh và cạnh tranh sản phẩm nói riêng thì hiệu quả đạt được trong sản xuất – mà cụ thể là nhất là lợi nhuận thu về – là nền móng cho sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Lợi nhuận tác động tới mọi hoạt động của doanh nghiệp, nó ảnh hưởng trực tiếp tới mọi hoạt động tài chính của doanh nghiệp là điều kiện quan trọng để đảm bảo cho sự phát triển của doanh nghiệp một cách vững chắc. Do đó cạnh tranh thúc đẩy công ty tìm tòi sáng tạo cải tiến, nâng cao năng suất sản xuất, tạo động lực cho sự phát triển của công ty. Nói cách khác cạnh tranh là để duy trì và phát triển lợi nhuận. Chỉ có bằng con đường cạnh tranh mới giúp Công ty May Xuất Khẩu và các công ty nói chung phát triển và tiếp tục phát triển được. Kết quả mà công ty đạt được trong những năm qua đã thể hiện hướng đi đúng của Nhà nước, của cán bộ, lãnh đạo, công nhân viên Công ty trong đó có chiến lược về cạnh tranh và cạnh tranh sản phẩm
5.2- Những hạn chế và tiêu cực :
Thứ nhất: Việc sử dụng nguồn vốn chủ sở hữu và tài sản cố định chưa hiệu quả gây lãng phí và thất thoát làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
Thứ hai: Công tác nghiên cứu, quản lý thị trường chưa được quan tâm đầy đủ, chưa có nhũng cải tiến đáng kể về công nghệ sản xuất, đầu tư cho hoạt động khuếch trương sản phẩm.
Thứ ba: Do phải nhập nguyên phụ liệu nên giá thành sản phẩm còn cao, khả năng cạnh tranh về giá cả công ty so với các đối thủ trong và ngoài nước còn yếu
Thứ tư: Công tác thiết kế mẫu mốt, thời trang của công ty còn yếu, công ty không có phòng thiết kế mẫu riêng mà chủ yếu làm hàng theo đơn đặt hàng của bạn hàng, dẫn đến không có mẫu nhiều, đa dạng để chào bán trên thị trường nước ngoài, do vậy hoạt động xuất khẩu chủ yếu của công ty là do phía bạn hàng đặt hàng( mẫu đối mẫu ) mà chưa có mặt hàng chào hàng chủ động.
Thứ năm: Do trang thiết bị của công ty còn khá lạc hậu so với nhu cầu ngày càng nâng lên của khách hàng, dẫn đến việc phải làm đi làm lại, thậm chí không ký kết được hợp đồng do năng lực có hạn (nhất là năng lực nhuộm hoàn tất rất yếu).
Chương iii
Phương hướng và biện pháp nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm may mặc của công ty may xuất khẩu
i – Dự báo thị trường may mặc của Việt nam đến 2005 - 2010 và định hướng, mục tiêu hiệu quả kinh doanh của công ty
1 - Dự báo thị trường may mặc của Việt Nam đến 2005 - 2010
Sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá của nước ta đang đứng trước những thời cơ và thách thức mới. Đi lên từ một nước nghèo, sau một thời gian thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu thì may mặc Việt Nam vẫn đang là một ngành đem lại nhiều lợi thế. Chính vì vậy, mặt hàng may mặc được xem là một mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta và trong tương lai, đây sẽ là mặt chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng Kim ngạch xuất khẩu của cả nước (năm 2000 Kim ngạch xuất khẩu của ngành may mặc đạt 1,815 tỷ USD, đứng thứ hai trong tổng Kim ngạch xuất khẩu của cả nước sau dầu thô). Mặt khác trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, khi đề cập đến vấn đề định hướng phát triển kinh tế đối ngoại có nói "Tổng Kim ngạch xuất khẩu cả nước trong 5 năm 2001 - 2005 đạt khoảng 114 tỷ USD, tăng 16%. năm. Nhóm hàng công nghiệp, TTCN chiếm 70% tổng Kim ngạch xuất khẩu, tăng bình quân hàng năm là 15,9%, trong đó nhóm hàng công nghiệp tiêu dùng và tiểu thủ công nghiệp chiếm 43% Kim ngạch xuất khẩu công nghiệp tăng bình quân hàng năm 22% ". Đồng thời trong định hướng quan tâm nhiều và Văn kiện có nói: Chú trọng tìm kiếm và mở rộng thị trường trong nước, nước ngoài nhờ đầu tư vào sản xuất xơ, sợi, nguyên liệu, phụ liệu để nâng cao giá trị gia tăng các sản phẩm xuất khẩu. Với tầm quan trọng như trên của ngành May mặc cùng với những chỉ tiêu, định hướng phát triển công nghiệp, định hướng đẩy mạnh xuất khẩu của văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX nêu trong chiến lược phát triển nghành công nghiệp May mặc nước ta đến năm 2010. Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ là lấy mục tiêu xuất khẩu làm trọng tâm. Với mục tiêu đó từ việc phân tích thực trạng, tiềm năng và xu hướng phát triển công nghiệp may mặc Việt Nam trong những năm tới ngành May mặcViệt Nam đưa ra các chỉ tiêu có tính chất định hướng phát triển ngành công nghiệp may mặc cho toàn ngành như sau:
- Toàn ngành có mức tăng trưởng 13%/năm (vào năm 2005) và 14%/năm (vào năm 2010)
- Tạo công ăn việc làm cho khoảng 2,5 đến 3 triệu lao động xã hội vào năm 2005, 4 - 4.5 triệu lao động xã hội vào năm 2010 với mức thu nhập bình quân khoảng 100USD/người/tháng
- Nâng cao trình độ công nghệ đạt mức tiên tiến của khu vực hiện nay và năm 2010 thì tương đương với Hồng Kông và Thái Lan hiện nay.
- Kim ngạch xuất khẩu đạt 5000 triệu USD năm 2005 và 8000 triệu USD năm 2010.
Mục tiêu phát triển ngành May mặc Việt Nam đến năm 2010
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Năm 2005
Năm 2010
1
Vải thành phần
Triệu m2
1.330
2000
2
Sản phẩm may mặc
Triệu SP
780
1200
- Xuất khẩu
Triệu SP
510
820
- Nội địa
Triệu SP
270
380
3
Kim ngạch xuất khẩu
Triệu USD
5000
8000
- Hàng may mặc
Triệu USD
3200
6000
4
Tỷ lệ nội địa hoá
Trên sản phẩm may
%
50
75
Ngoài ra, thị trường xuất khẩu sản phẩm may mặc đến năm 2005 của toàn ngành may mặc Việt Nam được dự báo như sau:
Dự báo thị trường xuất khẩu sản phẩm may mặc đến 2005.
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Năm 2005
Tổng sản lượng xuất khẩu
Triệu SP
630
Trong đó
- Xuất khẩu sang EU
Triệu SP
125
- Xuất khẩu sang SNG
Triệu SP
70
- Xuất khẩu sang Nhật Bản
Triệu SP
95
- Xuất khẩu sang Mỹ và Bắc Mỹ
Triệu SP
265
- Xuất khẩu sang các nước khác
Triệu SP
75
Kim ngạch xuất khẩu
Triệu SP
3000
(Nguồn: Quy hoạch phát triển Dệt - May Việt Nam đến 2005)
2 – Mục tiêu và phương hướng hoạt động của Công ty May Xuất Khẩu giai đoạn 2005 – 2010
2.1 - Về hoạt động xuất khẩu
Chiến lược "tăng tốc" của Công ty May Xuất Khẩu đặt ra từ nay cho đến năm 2010 là: Đưa sản lượng sản phẩm của công ty không ngừng tăng,kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc lên 40tỷ vào năm 2005 và 70tỷ năm 2010. Với chiến lược mạnh mẽ này của Công ty, Công ty cũng phải có những kế hoạch phát triển riêng của mình để thực sự trở thành một thành phần đắc lực về xuất khẩu hàng may mặc trong thời kỳ 2000 - 2010.
Quán triệt đường lối của Đảng, góp phần ổn định nền kinh tế, Công ty May Xuất Khẩu sẽ cố gắng khai thác triệt để tiềm năng, chuẩn bị hành trang để từng bước hội nhập khu vực và thế giới, nâng cao hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh, tăng kim ngạch xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, tạo công ăn việc làm, tăng thêm tu nhập cho người lao động... Trên tinh thần đó, Công ty May Xuất Khẩu phấn đấu thực hiện chỉ tiêu kế hoạch như sau:
- Sản phẩm may quy chuẩn:
+ Năm 2005: 680.000sp
+ Năm 2010: 920.000sp
- Giá trị xuất khẩu hàng may :
+ Năm 2005: 40tỷ
+ Năm 2010: 60tỷ
Những con số trên chứng tỏ kế hoạch của Công ty là rất táo bạo, báo hiệu cho một thời kỳ tăng tốc phát triển cho toàn nghành may mặc cũng như góp thêm sức mạnh cho nghành may mặc thực hiện tốt những mục tiêu trong chiến lược "tăng tốc" của mình. Trước những mục tiêu đó Công ty yêu cầu các phòng phải lập kế hoạch kinh doanh cụ thể cho từng quý và cả năm. Đồng thời cụ thể hoá từng mặt hàng kinh doanh, chú ý tập trung vào những mặt hàng trọng điểm nhằm thực hiện tốt mục tiêu của Công ty. Ngoài ra ban lãnh đạo Công ty sẽ bàn các giải pháp xuất khẩu cho từng phòng, từng mặt hàng và hướng tới tất cả các phòng kinh doanh đều làm xuất khẩu. Từng phòng sẽ lên phương án kinh doanh, nguồn vốn cần thiết cho hoạt động đó và các nhu cầu cần hỗ trợ từ phía Công ty.
Để tăng khả năng cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu của Công ty, Công ty đã đưa ra phương hướng khai thác nguồn nguyên liêu, nguồn hàng từ nhiều phía để chuyển dịch sang hình thức FOB, đưa ra giá cạnh tranh trên thị trường.
2.2 - Về phát triển thị trường
Trong thời đại ngày nay khi ngành may mặc rất phát triển và mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt thì nhiệm vụ hàng đầu của mỗi doanh nghiệp là luôn luôn phải giữ vững những khách hàng truyền thống, đồng thời phải tích cực trong công tác thu hút thêm khách hàng mới. Mở rộng, phát triển thị trường là hình thức làm tăng thêm khách hàng cho Công ty, tạo thêm tên tuổi, nhãn mác về hàng hoá cũng như chính Công ty trên những thị trường mới, khách hàng mới. Thông qua đó danh tiếng của Công ty sẽ có được biết đến một cách rộng rãi hơn. Mức độ quen thuộc sẽ tăng lên và từ đó có thể làm thay đổi nhãm mác hàng hoá tiên dùng của họ.
Đối với Công ty, thị trường chính về hàng may mặc hiện nay là EU, Canađa, Đài Loan, Đông Nam á, Mỹ... trong những thị trường này, thị trường EU, Canađa và Đài Loan là những thị trường ổn định và có xu hướng tăng nhanh. Kim ngạch của những thị trường này luôn chiếm tỷ trọng chính trong kim ngạch xuất khẩu của Công ty. Số lượng các nước thuộc khu vực này nhập khẩu hàng hoá của Công ty cùng với kim ngạch nhập khẩu của họ tăng đều qua các năm, điều này chứng tỏ đây là một thị trường lớn và ngày càng lớn mạnh hơn nữa nếu ta biết cách thu hút sự quan tâm của họ trong hoạt động nhập khẩu. Vì những lẽ đó, cần duy trì và phát triển hơn nữa thị trường này.
Đông Nam á và Mỹ là những thị trường mới của Công ty tuy có Kim ngạch xuất khẩu chưa cao nhưng đây là những thị trường đầy triển vọng. Nhất là Mỹ, từ sau hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết, mở ra một tương lai mới cho hàng may mặc nói chung và hàng may mặc thời trang nói riêng. Riêng Công ty luôn chú trọng nhiều vào thị trường Mỹ vì đây là thị trường có nhu cầu về hàng may mặc cao, chất lượng không phải là khâu quan trọng nhất trong yêu cầu của họ và giá cả hàng may mặc nhập khẩu cũng khá cao, tuy nhiên việc phát triển thị trường này sẽ gặp không ít khó khăn vì đến năm 2004 chế độ hạn ngạch sẽ được xoá bỏ và đối thủ Trung Quốc sẽ có cơ hội xuất khẩu nhiều hơn, khiến việc cạnh tranh của Công ty lại thêm phần gay gắt.
Ngoài những thị trường trên Công ty luôn cố gắng tìm thêm những thị trường mới khác nữa thông qua việc giới thiệu của những khách hàng cũ, qua mạng, qua báo chí và qua các nguồn thông tin khác. Theo dõi sát sao hạn ngạch phân bổ cho những nước nhập khẩu hàng hoá của Công ty, đồng thời khéo léo tìm thêm những nguồn hạn ngạch mới để đáp ứng số lượng hàng đã ký, khéo léo trong khâu thuyết phục khách hàng
2.3 - Về tổ chức, đào tạo
Trong lĩnh vực xuất khẩu Công ty luôn tập trung nâng cao trình độ nghiệp vụ trong hoạt động xuất khẩu và những yếu tố khác có liên quan. Công tác này bao gồm:
- Mở rộng các hình thức và nội dung đào tạo, mở rộng đối tượng đào tạo sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ tin học, ngoại ngữ, Marketing phục vụ cho hoạt động xuất khẩu. Củng cố, tăng cường đầy đủ nguồn nhân lực có trình độ, đủ khả năng đáp ứng nhanh nhất những yêu cầu của hoạt động kinh doanh, đồng thời đủ khả năng thiết kế mẫu và may mẫu chào hàng, khắc phục dần tình trạng bị động trong vấn đề mẫu mã.
- Tiếp tục đầu tư về nhân lực và sự chỉ đạo đối với phòng kế hoạch thị trường, đẩy mạnh các hoạt động Marketing , thâm nhập thị trường trong và ngoài nước bằng các hình thức thông tin, quảng cáo, tham gia hội chợ hoặc tham quan trực tiếp... Mở rộng hình thức kinh doanh xuất nhập khẩu và dịch vụ, đa dạng hoá sản phẩm xuất nhập khẩu.
- Có kế hoạch đào tạo nhân lực và cán bộ cho những năm tiếp theo cả về chuyên môn và lý luận chính trị. Không ngừng tăng cường phát huy sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, Chính quyền, Công đoàn, Đoàn thanh niên để tạo ra sức mạnh tổng hợp cho công ty.
- Ngoài việc nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, cần trang bị thêm những kiến thức về hệ thống chất lượng hàng hoá cho một số cán bộ của Công ty nhằm thực hiện tốt việc kiểm tra chất lượng hàng hoá tại nơi sản xuất, góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng tốt mọi nhu cầu của khách hàng, xây dựng thương hiệu của Công ty trên thị trường EU, Mỹ...
- Có kế hoạch tổ chức các cuộc hội thảo, nói chuyện về hoạt động kinh doanh của Công ty để mỗi cán bộ có thể thấy rõ vai trò, nhiệm vụ của mình, từ đó làm cho họ làm việc một cách có tâm huyết hơn với Công ty, có sự linh hoạt trong công việc.
- Đề khuyến khích cán bộ, công nhân viên làm việc có hiệu quả, trách nhiệm, Công ty cần có chế độ tiền lương thoả đáng, chế độ thưởng, phạt rõ ràng và những chế độ đãi ngộ khác như trợ cấp ốm đau, nghỉ phép, đi nghỉ mát...
2.4 - Phương hướng nâng cao sức cạnh tranh của Công ty trong hoạt động xuất khẩu hàng may mặc
Công cuộc cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của Công ty trong tương lai ngày càng có nhiều khó khăn, thách thức. Để đứng vững trong guồng quay liên tục, nền kinh tế thị trường hiện nay và nhất là trong hoạt động xuất khẩu hàng may mặc thì Công ty cần có những phương hướng cụ thể nhằm nâng cao sức cạnh tranh của mình.
2.4.1- Về chất lượng hàng may mặc xuất khẩu : Trong thời gian tới Công ty sẽ tiếp tục nâng cao để ngày càng phù hợp hơn với nhu cầu của khách hàng, tạo ra lợi thế mạnh về chất lượng so với các đối thủ trong nước và cố gắng theo kịp một số đối thủ mạnh trên thế giới xuất khẩu. Hiện nay chất lượng sản phẩm hàng may mặc xuất khẩu của Công ty chưa cao, chỉ thâm nhập vào đoạn thị trường cấp trung bình và thấp trong các năm tới sẽ cố gắng nâng cao chất lượng để thâm nhập vào một số thị trường cao hơn. Sở dĩ Công ty có đưa ra mục tiêu như vậy vì ngày nay khi đang tiến dần vào thị trường tự do hoá, chất lượng sản phẩm được xem là lợi thế cạnh tranh cơ bản, là chìa khoá để đảm bảo sự hội nhập vững chắc vào thị trường thế giới và khu vực.
2.4.2- Về mẫu mốt: Để việc nghiên cứu mẫu mốt phát triển thực sự trở thành vũ khí sắc bén Công ty đã có những kế hoạch tập trung cho công tác này như tuyển thêm cán bộ làm công tác thiết kế mẫu. Công ty đang hướng tới việc tạo ra những sản phẩm mang thương hiệu riêng của Công ty, có chất lượng tốt mẫu, mã đẹp, được nhiều khách hàng ưu thích. Phát triển tốt công tác này là một điều kiện giúp phát triển Công ty theo hướng tự chủ, không phụ thuộc vào nhà máy sản xuất cũng như khách đặt hàng nước ngoài. Nhờ đó có thể nâng cao khả năng kinh doanh của Công ty, nhanh chóng chuyển sang xuất khẩu trực tiếp.
2.4.3-Giá cả : Yếu tố giá cả là một yếu tố rất nhạy bén với rất nhiều khách hàng nên Công ty phải đưa ra mức giá có tính cạnh tranh trên thị trường. Yếu tố này có tính chất tổng hợp vì nó liên quan đến nhiều khâu, nhiều công đoạn từ sản xuất đến tiêu thụ hàng hoá. Trong thời gian tới Tổng công ty sẽ tập trung khai thác, tìm kiếm thêm những nguồn vải tốt, giá cả phải chăng để sản xuất nhằm nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Đồng thời thông qua các công tác nhập khẩu để có được một số loại nguyên liệu, phụ liệu, thuốc nhuộm và hoá chất mà trong nước không có hoặc có giá bán cao để phục vụ cho việc gia công hàng xuất khẩu. Tựu chung của những việc làm này là để có được những hàng hoá khi đưa ra thị trường có giá cả phù hợp với chất lượng, phù hợp với nhu cầu khách hàng và có khả năng trở thành một vũ khí cạnh tranh tốt cho Công ty.
2.4.4-Đẩy mạnh công tác xúc tiến tiếp thị: Để giữ khách hàng truyền thống và thu hút thêm khách hàng mới. Hàng năm Công ty sẽ trích ra một phần kinh phí hỗ trợ cho các đoàn đi thăm qua hội chợ triển lãm ở trong nước và nước ngoài, để giới thiệu, chào bán hàng hoá. Dự kiến trong năm nay Công ty sẽ ra đời cửa hàng bán quần áo, đồng thời trưng bày những mặt hàng xuất khẩu của Công ty để giới thiệu cho khách hàng. Ngoài ra, Công ty sẽ đẩy mạnh công tác thị trường, phát triển mạng lưới thông tin để có được những thông tin cần thiết về nhu cầu, thị hiếu khách hàng, về tình hình biến động của thị trường xuất khẩu, về chủ trương, chính sách của Chính phủ liên quan đến hoạt động xuất khẩu hàng may mặc một cách nhanh chóng, cập nhật nhất.
2.4.5-Dịch vụ , phương pháp phục vụ khách hàng : Đảm bảo cung cấp hàng hoá cho khách hàng theo đúng hợp đồng về số lượng, chất lượng, mẫu mã, thời gian, địa điểm giao hàng. Tạo điều kiện thật thuận lợi cho khách hàng trong việc vận chuyển, thanh toán. Những việc làm này sẽ tạo ra tâm lý thoải mái, tin tưởng cho khách hàng khi làm việc với Công ty, từ đó có thể nâng cao niềm tin, uy tín, hình ảnh của Công ty với khách hàng - đây là một trong nhưng yếu tố nhằm giữ khách hàg truyền thống và lôi kéo khách hàng mới cho Công ty.
2.4.6-Nguồn lực tài chính: Để nâng cao sức cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của Công ty, cùng với những việc làm trên đây công tác tài chính của Công ty sẽ góp thêm một phần vào mục tiêu đó. Công tác tài chính sẽ cần được chú trọng hơn nhằm cân đối hợp lý các quỹ, nguồn vốn và chi phí để ưu tiến phục vụ mục tiêu mũi nhọn của Công ty trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
ii - một số biện pháp nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm may mặc của công ty may xuất khẩu
1 - Về phía Công ty
a) Vấn đề huy động vốn để nâng cao năng lực sản xuất
- Để huy động vốn, hiện nay lãi suất ngân hàng đã giảm nhiều so với trước nhưng tỷ lệ cho vay trung và dài hạn trong tổng dư nợ thấp nên các doanh nghiệp không có điều kiện vay vốn để đầu tư chiều sâu. Một nguồn vốn khác có thể huy động là vốn tự có của doanh nghiệp được tích luỹ từ lãi của hoạt động sản xuất kinh doanh thì cũng còn nhỏ, chỉ có thể cải tiến, nâng cấp điều kiện lao động chứ để đầu tư chiều sâu là khó. Công ty cũng có thể huy động vốn bằng cách hợp tác với người nước ngoài. Đầu tư nước ngoài trực tiếp sẽ mang lại không chỉ vốn mà kèm theo đó còn là công nghệ tiên tiến và công nghệ quản lý hiện đại, hứa hẹn một sự phát triển vượt bậc nếu theo hướng đầu tư này.
b) Vấn đề đổi mới công nghệ
Song song với công tác thiết kế, việc đầu tư đổi mới công nghệ cũng rất quan trọng trong vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm. Công ty cần có những kế hoạch cụ thể trong việc đầu tư đổi mới công nghệ cũng như việc cải tiến nâng cấp máy móc thiết bị nhằm có thể khai thác tối đa công suất thiết kế, nâng cao năng suất lao động. Đây là một yếu tố giúp công ty có thể giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm.
c) Nâng cao trình độ đội ngũ lao động
Cùng với việc đầu tư đổi mới máy móc kỹ thuật công ty nên dành một phần nguồn vốn của mình để đâù tư vào đội ngũ lao động của công ty. Bởi người tiêu dùng thường không quan tâm tới việc sản phẩm đó được sản xuất ra bằng dây chuyền công nghệ nào mà quan trọng là sản phẩm đó như thế nào. Sức sáng tạo của con người là vô hạn nên công ty phải khuyến khích kịp thời khả năng sáng tạo và lòng nhiệt tình của người lao động. Hay nói cách khác đầu tư cho con người là rất quan trọng. Nâng cao trình độ đội ngũ CBCNV và hoàn thiện bộ máy tổ chức của doanh nghiệp.
d ) Nâng cao chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm luôn là yếu tố hàng đầu trong mối quan tâm của khách hàng ở trên bất cứ thị trưòng nào. Công ty cần nâng cao chất lượng sản phẩm không chỉ đơn thuần là việc làm cho sản phẩm của doanh nghiệp bền hơn mà còn bao gồm việc làm cho sản phẩm đẹp hơn, đa dạng phong phú hơn, phù hợp với yêu cầu sở thích của khách hàng. Để nâng cao chất lượng sản phẩm công ty cần tiến hành các công việc sau:
Không ngừng ứng dụng các thiết bị khoa học mới, hiện đại hoá trang thiết bị cho doanh nghiệp dệt may để từng bước nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, giữ chữ tín với khách hàng.
Kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên phụ liệu đầu vào, tạo bạn hàng cung cấp nguyên phụ liệu ổn định, đúng thời hạn, đảm bảo chất lượng.
Tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của bên đặt hàng về nguyên liệu, quá trình sản xuất, tiêu chuẩn kỹ thuật, quy trình kiểm tra chất lượng hàng trước khi xuất khẩu qua hệ thống kiểm tra chất lượng bắt buộc.
Đảm bảo yêu cầu về thời gian giao hàng, chủ động trong vận chuyển bốc xếp hàng hoá.
e )Về vấn đề giá cả sản phẩm.
- Doanh nghiệp cần xây dựng một chiến lược giá hợp lý, linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng khách hàng, phù hợp với từng sản phẩm.
-Đối với các khách hàng quen thuộc, doanh nghiệp nên giảm giá để giữ được lượng khách hàng ngày một ổn định. Doanh nghiệp cũng có thể đưa ra các chính sách khuyến khích khách hàng tuỳ thuộc vào từng thời điểm, mục tiêu và khả năng của mình.
-Đồng thời công ty nên tiến hành đổi mới máy móc thiết bị nâng cao năng suất lao động hạ giá thành sản phẩm. Làm được điều này, doanh nghiệp có thể tăng dần được tỷ trọng xuất khẩu trong doanh thu của mình, thu được nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp.
g)Vấn đề hình ảnh uy tín của sản phẩm.
ở Công ty may xuất khẩu hiện nay, sản phẩm chỉ được biết là được sản xuất tại Việt Nam thông qua vài dòng chữ ghi trên conteiner, mà đặc biệt không có chút thông tin nào về sản phẩm. Nhưng trong tương lai, để làm cho hình ảnh của sản phẩm(bán FOB) và công ty có trong tiềm thức của người tiêu dùng, sản phẩm của công ty phải mang nhãn hiệu, tên hoặc biểu tuợng của công ty.Việc ghi nhãn và bao bì giúp nguời tiêu dùng có đủ thông tin trung thực về chất lượng và nguồn gốc của sản phẩm. Đối với công ty, việc sản xuất gia công và gắn tên, mác nuớc ngoài có thể có thuận lợi cho công ty không phải lo lắng trong khâu tiêu thụ trực tiếp với người tiêu dùng, nhưng có bất lợi là về lâu dài công ty không khẳng định được mình trên thị trường. Để thâm nhập vào thị trường nước ngoài, nhất là thị trường các nước công nghiệp phát triển, công ty cần phải khắc phục những khó khăn đó trong phạm vi cố thể.
- Kỹ thuật: hàng hoá đã đăng ký nhãn hiệu phải đảm bảo chất lượng ổn định, công ty không nên để tính chất lao động thủ công ảnh hưởng tới chất lượng của sản phẩm.
- Tài chính: chi phí cho các hoạt động quảng cáo, xúc tiến ...là rất cao, do đó công ty cần sử dụng và kết hợp chi tiêu một cách hợp lý và có hiệu quả.
- Cung cấp: sản phẩm đã có nhãn hiệu phải đảm bảo lúc nào cũng cung cấp đủ nhu cầu thị trường, nếu chỉ vắng bóng trên thị trường một thời gian vì một lý do nào đó sẽ bị lu mờ và bị sản phẩm khác thế chỗ.
Vị trí của những người đến sau thường thấp và không có được thị phần lớn. Nhưng khi đã có đủ điều kiện, công ty cần mạnh dạn gắn nhãn mác riêng của mình lên sản phẩm, bước đầu có thể gặp khó khăn do chưa được người mua tin tưởng, song nếu không có bước đầu đó công ty sẽ không bao giờ đến được với khách hàng bằng chính tên tuổi của mình .
h)Nâng cao hiệu quả của hoạt động Marketing.
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt thì hoạt động Marketing góp phần không nhỏ vào việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá. Đối với công ty thì vấn đề hiện nay là phải nâng cao hiệu quả hoạt động Marketing, muốn vậy công ty cần làm tốt các mặt sau:
Quảng cáo.
Quảng cáo cho sản phẩm và cho công ty tại các thị trường mục tiêu như EU, Nhật Bản, Mỹ. Ngoài quảng cáo giới thiệu chung về công ty, cần phải có nội dung quảng cáo chi tiết về sản phẩm mũi nhọn. Tuỳ vào yêu cầu khuyếch trương sản phẩm và khả năng tài chính có thể có các phương thức quảng cáo thích hợp từ các ấn phẩm, các của hàng đại lý đến các phương tiện phát thanh truyền hình...
Về hoạt động yểm trợ sản phẩm.
Đây là những hoạt động có liên quan đến các dịch vụ sản phẩm và các thông tin mà công ty cung cấp thêm cho khách hàng. Các dịch vụ sản phẩm chủ yếu là catalogue, xuất bản phẩm về công ty, phim ảnh (cung cấp thông tin bằng những hình ảnh sống cho khách hàng nước ngoài).
Các công tác xúc tiến bán hàng.
Công ty cần duy trì và phát huy tác dụng của hoạt động xúc tiến bán hàng thông qua các hội chợ thời trang tiêu dùng bằng những mẫu mã luôn thay đổi, phong phú nhưng thích hợp với thị hiếu tiêu dùng từng thời kỳ. Hoạt động này thực sự có ý nghĩa đối với công ty trong việc nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, vì thị trường may mặc đang có sức cạnh tranh gay gắt giữa các nhà sản xuất, các sản phẩm tương đối giống nhau về chất lượng giá cả, khối lượng hàng bán lại phụ thuộc vào mức độ quen biết giữa công ty với khách hàng. Các hình thức chủ yếu của xúc tiến bán hàng là thay đổi hình thức mẫu mã sản phẩm, khuyến khích mua hàng (giảm giá, tặng quà, bán trả góp...), trưng bày catalogue tại điểm bán hàng. Ngoài ra các cửa hàng bán lẻ của công ty phải được trang hoàng đẹp, đầy đủ về mẫu mã, việc thử hoặc đổi hàng phải được tạo điều kiện thuận lợi nhất.
Về các kênh phân phối sản phẩm.
Vấn đề tìm kênh tiêu thụ sản phẩm cũng là vấn đề hết sức quan trọng đối với công ty, bởi vì sau khi loại bỏ hình thức gia công theo đơn đặt hàng, công ty sẽ phải lỗ lực hoàn toàn từ khâu tìm nguyên liệu đến khâu sản xuất sản phẩm. Việc thâm nhập thị trường quốc tế lại rất khó khăn vì khả năng tiếp xúc trực tiếp bằng sản phẩm và con người của công ty với khách hàng mục tiêu sẽ gặp phải những hạn chế về tập quán giao dịch quốc tế, ngôn ngữ. Vì vậy trong thời gian tới công ty cần phối hợp với các công ty dệt may trong nước và ngoài nước để tạo lập các kênh phân phối trên các thị trường chủ yếu bằng cách lập các chi nhánh, văn phòng đại diện tại các nước EU, Nhật Bản, Mỹ, hoặc thông qua các hãng, các tập đoàn dệt may lớn đã có quan hệ làm ăn lâu dài để phân phối sản phẩm tiêu dùng của mình tới người tiêu dùng quốc tế, hoặc thông qua các thương nhân Việt Nam ở nước ngoài để tạo lập từng bước, quan hệ với từng khu vực thị trường-đặc biệt là các thị trường mới đầy tiềm năng như Bắc Mỹ.
i)Đa dạng hoá sản phẩm và xây dựng mặt hàng chiến lược.
Hiện nay, hàng dệt may của công ty may xuất khẩu chủ yếu sang thị trường EU, Nhật Bản, Mỹ, Đông Âu...Những yêu cầu về sản phẩm khác nhau của các thị trường này cũng là một yếu tố khách quan đòi hỏi doanh nghiệp phải đa dạng hoá sản phẩm. Nhật bản và EU là những thị trường có đòi hỏi cao về chất lượng. Thị trường Nhật có yêu cầu rất cao về chất lượng sản phẩm, chỉ một vết xước nhỏ trên mặt vải cũng đủ để coi sản phẩm là hỏng tại thị trường này, nên cần hết sức chú trọng đến chất lượng sản phẩm, tập trung xuất khẩu hàng cao cấp có giá trị lớn. Tại thị trường EU, do phải sản xuất theo hạn ngạch nên cũng cần thiết phải chú trọng đến chất lượng để nâng cao giá trị sản phẩm nhưng có thể đưa vào các sản phẩm bình dân phục vụ những người có thu nhập trung bình thấp. Hơn nữa, khi EU xoá bỏ chế độ hạn ngạch với Việt Nam 1/1/2005 thì việc đưa vào thị trường này những sản phẩm bình dân bên cạnh các sản phẩm cao cấp là hợp lý nhằm tận dụng khả năng sản xuất trong nước và khai thác triệt để thị trường. Với thị trường Mỹ, đa dạng hoá sản phẩm là cần thiết vì đây là thị trường có nhu cầu hết sức đa dạng. Mỹ là một đất nước đa sắc tộc, người Mỹ có phong cách thoải mái, sống thực dụng nên thị trường này chấp nhận từ những trang phục sang trọng phục vụ các nhà tư bản giàu có đến những bộ quần áo bình dân phục vụ những người dân lao động. Do vậy, đây là thị trường rất lớn để doanh nghiệp khai thác với nhiều mặt hàng khác nhau, từ cao cấp đến bình dân.
Tuy nhiên, đa dạng hoá sản phẩm không phải là mỗi doanh nghiệp có thể sản xuất tất cả các mặt hàng. Tại mỗi doanh nghiệp, bên cạnh khả năng sản xuất đa dạng, cần phải xây dựng lấy một vài sản phẩm mũi nhọn để làm đầu tầu kéo các sản phẩm khác của doanh nghiệp phát triển theo. Sản phẩm mũi nhọn còn có tác dụng như một vũ khí mang tính chiến lược, đặc biệt là khi xâm nhập một thị trường mới. Trong xây dựng một sản phẩm mũi nhọn, cần chú trọng nghiên cứu, lựa chọn xây dựng các sản phẩm dựa trên truyền thống sản xuất, nhu cầu thị trường và lợi thế so sánh của doanh nghiệp, tạo dựng được nhãn hiệu hàng hoá, xây dựng được hình tượng của đơn vị. Ngoài ra, cần chú ý nghiên cứu các nguyên liệu mới, công nghệ sản xuất mới nhằm tìm ra được các sản phẩm có giá trị kinh tế cao, có tính độc đáo. Trên cơ sở đó mà chiếm lĩnh được thị phần nhất định trên thị trường. Khi có sản phẩm mới ra, cần bắt tay ngay để nghiên cứu tiếp tục có những sản phẩm mới, làm hậu phương vững chắc trong tiếp cận và chiếm lĩnh thị trường
j) Đẩy mạnh nghiên cứu thiết kế mẫu mốt, sản xuất thử mặt hàng mới.
Đối với hàng dệt may, ngoài tiêu chuẩn tốt, bền, giá rẻ thì tính thời trang, kiểu dáng của sản phẩm có vai trò rất quan trọng. Thực tế ở nhiều thị trường, cả trong nước và thế giới, người tiêu dùng rất coi trọng đến mẫu mã hàng dệt may, họ sẵn sàng bỏ nhiều tiền hơn để chi trả cho một sản phẩm có chất lượng như các sản phẩm khác nhưng có kiểu dáng vượt trội.
Để cải thiện khả năng thiết kế mẫu thời trang, doanh nghiệp cần chủ động phối hợp với các cơ sở nghiên cứu thông qua đặt các đơn hàng, vừa tạo điều kiện để các cơ sở này nâng cao năng lực của mình, vừa đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp vì làm mẫu tại cơ sở chuyên nghiệp chắc chắn sẽ rẻ hơn tự doanh nghiệp xây dựng cho mình một đội ngũ thiết kế mẫu. Bởi lẽ các cơ sở này nắm bắt thường xuyên hơn nhu cầu, thị hiếu trên thị trường, có đội ngũ nhân lực lành nghề trong lĩnh vực tạo mốt , có những thiết bị chuyên dụng... Ngoài ra, khi có được mẫu mốt cần mạnh dạn tổ chức triển khai sản xuất thử và khi thành công thì nhanh chóng đưa ra để chiếm lĩnh thị trường. ở đây, cũng cần có sự hỗ trợ tích cực của chính phủ trong việc bảo hộ bản quyền, kiểu dáng công nghiệp, chống hàng giả... nhằm tránh tình trạng doanh nghiệp phải bỏ ra nhiều kinh phí vào việc tìm ra một sản phẩm mới nhưng chỉ sau khi lô hàng đầu tiên được đưa ra thì đã bị làm giả, làm nhái, gây thiệt hại không nhỏ. Đây có lẽ cũng là một lý do khiến doanh nghiệp ngại không đầu tư vào thiết kế mẫu. Song trong tương lai, doanh nghiệp nên có kế hoạch xây dựng một phòng thiết kế mẫu cho riêng mình. Bởi lẽ, trong cơ chế thị trường, một doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại bằng chính thực lực và sự am hiểu thị trường của chính mình, tránh những thông tin giả của đối thủ cạnh tranh tung ra.
2 - Về phía nhà nước
Để nâng cao sức cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp, bên cạnh những lỗ lực của doanh nghiệp cần có những sự hỗ trợ từ phía nhà nước.
Chính sách về thị trường.
Để có được chính sách thị trường thích hợp, thúc đẩy sự phát triển để xuất khẩu của ngành may mặc trước hết cần thấy được các yếu tố ảnh hưởng tới thị trường. Đó là:
Uy tín của sản phẩm.
Quan hệ chính trị ảnh hưởng tới quan hệ thương mại.
Từ những yếu tố ảnh hưởng trên, để nâng cao hiệu quả cạnh tranh cho hàng may mặc Việt Nam, Nhà Nước cần có các chính sách về thị trường như:
Nhà nước mà trực tiếp là Bộ Thương Mại cầng xây dựng được tiến trình gia nhập WTO có hiệu quả
Nhà nước tích cực tham gia các diễn đàn quốc tế và khu vực để Việt Nam nhanh chóng trở thành thành viên của WTO.
Quan hệ tốt với các thị trường lớn nhhư EU, Bắc Mỹ, tạo dựng được khuôn khổ pháp lý tốt đối với các thị trường này để sản xuất hàng tiêu dùng Việt Nam nói chung và hàng dệt may nói riêng được hưởng các ưu đãi đặc biệt như hạn ngạch, tối huệ quốc... và có điều kiện để xuất khẩu với khối lượng lớn.
Tạo điều kiện cho ngành dệt may tham gia vào các hoạt động quốc tế, các diễn đàn chuyên ngành của khu vực để có điều kiện tham gia vào sự phân công lao động quốc tế.
Thực hiện nghiêm túc công ước quốc tế về quyền sở hữu trí tuệ công nghiệp để các sản phẩm dệt may có chất lượng cao mang nhãn hiệu " made in Việt Nam" giữ được uy tín ,trên thị trường.
Có quy chế phù hợp (bao gồm trách nhiệm và quyền lợi) về hoạt động của các nhân viên thương vụ của các đại sứ quán của Việt Nam ở nước ngoài trong việc cung, cấp thông tin, giúp ngành dệt may mở rộng thị trường.
Chính sách tài chính
Để đáp ứng nhu cầu về vốn đầu tư, các chính sách tài chính cần có là:
Nhà nước đảm bảo cấp vốn đầu tư ban đầu và vốn lưu động cho các doanh nghiệp nhà nước theo đúng luật định.
Cho phép ngành dệt may được sử dụng một phần quỹ bảo hiểm rủi ro của nhà nước ở những công trình trọng điểm
Kéo dài thời gian miễn thuế thu nhập cho các công trình đầu tư mới hoặc đầu tư mở rộng tạo tiền đề cho việc trả lãi vay.
Chính sách phát triển nguồn nguyên liệu.
- Chính phủ phê duyệt quy hoạch vùng nguyên liệu các loại sơ thiên nhiên cho ngành dệt may bao gồm vùng trồng bông, vùng trồng dâu nuôi tằm, vùng trồng đay...Từ đó, có các chính sách hợp lý trong việc bảo đảm cung cấp lương thực và các nhu yếu phẩm khác cho nông dân các vùng này, đồng thời có cơ chế thích hợp trong việc khai thác, bảo toàn và phát triển vùng nguyên liệu lâu dài.
Cho phép trích tỷ lệ % trong doanh thu để lấy nguồn bù đắp cho quy hoạch và phát triển vùng nguyên liệu.
Giảm hoặc miễn thuế GTGT đối với sản phẩm được sản xuất từ nguyên liệu trong nước ( bông, đay, tơ tằm) để ngành dệt may dùng số tiền đó đầu tư cho các hộ cung cấp nguyên liệu.
Đẩy nhanh qua trình xây dựng các khu công nghiệp hoá dầu, làm tiền đề cho việc sản xuất các loại sơ sợi tổng hợp, góp phần tạo thế chủ động về nguyên liệu cho ngành.
Chính sách hỗ trợ xuất khẩu.
Hiện nay, Việt Nam chưa thành lập được quy bảo hiểm xuất khẩu cũng như quỹ hỗ trợ xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn tham gia hoạt động này, nhất là trong điều kiện thị trường thế giới đầy biến động. Để hỗ trợ tích cực hơn nữa trong hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp, nhà nước cần sớm thực hiện các giải pháp sau:
Thành lập quỹ bảo hiểm và quỹ hỗ trợ xuất khẩu chung cho cả nước và cho phép công ty doanh nghiệp Hà Nội thành lập quỹ hỗ trợ khi giá cả thị trường thế giới có nhiều biến động, gặp nhiều rủi ro trong việc thực hiện hợp đồng ngoại thương, trong quá trình vận chuyển hàng xuất khẩu.
Chính Phủ sớm ra quyết định thành lập hiệp hội dệt may Việt Nam nhằm tập hợp và hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu. Đồng thời nhanh chóng xúc tiến việc thành lập cơ quan xúc tiến thương mại chuyên về thị trường xuất khẩu, trong đó có thị trường hàng dệt may
Chính phủ cần tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu như: hỗ trợ vốn, cho vay vốn với lãi xuất thấp đối voí các doanh nghiệp thiếu vốn để sản xuất hoặc thực hiện hợp đồng khi đã có thị trường và đối tác để xuất khẩu hoặc doanh nghiệp mở rộng hoặc tham gia vào thị trường mới...
Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho các vệ tinh cung ứng dịch vụ, nguyên phụ liệu cho hàng dệt may xuất khẩu: chính sách cho vay vốn, trợ giúp về mặt KHKT đối với nông dân vùng nguyên liệu, với các hộ gia đình sản xuất phụ liệu...
Đổi mới hoàn thiện chính sách thuế.
Hệ thống thuế Việt Nam trong những năm qua mặc dù đã được sửa đổi song còn tồn tại nhiều điểm bất hợp lý có ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Do đó, vấn đề đặt ra là phải bổ sung và sửa đổi một số luật thuế:
Thuế xuất khẩu:
Cũng như các ngành xuất khẩu khác, ngành dệt may xuất khẩu cũng phải chịu thuế xuất khẩu. Hiện nay, ngành dệt may xuất khẩu chịu thuế xuất khẩu là 0%. Như vậy trên thực tế, hàng dệt may xuất khẩu được miễn thuế xuất khẩu. Tuy có lợi thế là nguyên vật liệu nhập khẩu sau khi xuất khẩu được sản phẩm sẽ được hoàn thuế nhập khẩu nhưng thuế xuất nhập khẩu quá cao, thời gian hoàn thuế lâu làm cho giá thành sản xuất cao lên, dẫn tới không có lợi thế cạnh tranh về giá. Đối với các doanh nghiệp thì đây là một khó khăn lớn vì hầu hết nguyên liệu phục vụ cho ngành dệt may đều phải nhập khẩu. Thuế xuất của nhiều loại nguyên liệu nhập khẩu lên đến 40-60%, chỉ có một số ít nguyên liệu chính là có thuế suất thấp hoặc được miễn thuế.
Đối với ngành dệt may, quy định thời hạn tạm miễn thuế nhập khẩu cho sản xuất hàng xuất khẩu là 9 tháng cho hàng gia công may mặc là tương đối dài, phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của ngành, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc ký kết hợp đồng, tổ chức sản xuất và xuất khẩu sản phẩm. Tuy nhiên, việc hoàn thuế nhập, tái xuất và thuế nhập khẩu nguyên liệu lại quá chậm. Nguyên nhân chủ yếu là do thủ tục rườm rà, cơ quan thu thuế và cơ quan hoàn thuế không phối hợp với nhau gây thiệt hại và mất thời gian cho doanh nghiệp. Để khắc phục những vướng mắc và tạo điều kiện cho ngành dệt may phát triển hoạt động xuất khẩu, về thuế xuất nhập khẩu có một số kiến nghị sau:
áp dụng thuế suất 0% đối với các nguyên liệu chính như bông, các loại sợi, phụ kiện...
Phải hoàn thuế cho các doanh nghiệp tham gia cung ứng nguyên phụ kiện đầu vào
Đối với vải nhập khẩu thì thuế suất 40-60% là rất cao. Chính phủ nên xem xét vấn đề này
Việc hoàn thuế tái xuất cần tiến hành nhanh hơn.
Thuế GTGT: Từ 1/1/1999, hệ thống thuế doanh thu không được sử dụng mà thay vào đó là thuế GTGT nhăm tránh đánh thuế trùng lặp và chấn trỉnh công tác hạch toán kế toán.
Hànậomy mặc xuất khẩu thuộc dạng khuyến khích xuất khẩu, chịu thuế GTGT ở mức 0%, đồng thời còn được thoái thuế GTGT các khâu sản xuất trước.
Chính sách về hạn ngạch và giấy phép xuất khẩu hàng dệt may.
a-Về hạn ngạch
Đối với hạn ngạch xuất khẩu nhằm đưa việc giao hạn ngạch hàng năm vào nề nếp và khuyến khích các doanh nghiệp không ngừng đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, Liên Bộ Công Nghiệp- Kế hoạch đầu tư-Thương mại đã ban hành thông tư số 29/1999/TTLB về việc giao hạn ngạch năm 2000. Chính sách này đã sự linh hoạt, mang nhiều tính ưu tiên cho những doanh nghiệp có khả năng sản xuất hàng xuất khẩu, sử dụng nhiều nguyên liệu trong nước song vẫn có những kiến nghị cần giải quyết sau:
Cần phân bổ hạn ngạch sớm từ đầu năm để các doanh nghiệp có kế hoạch sản xuất kinh doanh chủ động
Việc phân bổ hạn ngạch phải căn cứ vào năng lực sản xuất kinh doanh thực sự của các doanh nghiệp, đảm bảo công bằng nghiêm minh không phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp
Nâng tỷ lệ hạn ngạch phân bố theo hình thức thưởng lên 50% và tiến tới 100% hạn ngạch sẽ được phân bổ theo thành tích xuất khẩu vào thị trường phi hạn ngạch. Đồng thời đưa mặt hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường phi hạn ngạch vào danh sách các mặt hàng được trợ cấp nóng.
Theo dõi chặt chẽ thường xuyên việc thực hiện hạn ngạch ở các doanh nghiệp đảm bảo cho việc thực hiện hạn ngạch có hiệu quả.
b-Về việc cấp giấy phép.
Đây là một trong những công cụ quan trọng của nhà nước để quản lý và điều tiết hoạt động xuất khẩu. Trong những năm qua, nhờ cải cách trong thủ tục hành chính, cũng như điều kiện được cấp hạn ngạch song việc xin cấp giấy phép cho từng chuyến hàng làm các doanh nghiệp mất nhiều thời gian. Bên cạnh đó là nạn quan liêu, cửa quyền trong khi làm thủ tục hải quan cũng làm cho doanh nghiệp tốn không ít thời gian chi phí tiền bạc.
Kết luận
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần như hiện nay, mức độ cạnh tranh là rất quyết liệt. Sự tồn tại của cạnh tranh phải được chấp nhận nhưng không được lo sợ. Tôn trọng cạnh tranh không kể loại hình hay quy mô của nó là điều có lợi. Sự tôn trọng đó có thể tạo ra những suy nghĩ độc đáo, làm tăng hiệu quả sản xuất, tạo ra khả năng tiếp thị và nâng cao lợi nhuận. Có thể rút ra được những bài học từ cạnh tranh để phấn đấu và bảo đảm rằng sản phẩm và hoạt động của công ty mình tốt hơn đối thủ cạnh tranh.
Trong bối cảnh đó các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải chấp nhận cạnh tranh. Công ty may mặc xuất khẩu không phải là một ngoại lệ. Trong thời gian qua, công ty đã tham gia cạnh tranh ở nhiều thị trường khác nhau. Công ty đã đạt được một số kết quả như kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng, năm sau cao hơn năm trước, mẫu mã chủng loại hàng hoá ngày càng phong phú, một số mặt hàng tạo được những vị trí nhất định trên những thị trường lớn là EU, Mỹ, Nhật Bản. Tuy nhiên, so với hàng hoá các đối thủ trong và ngoài nước đang hoạt động trong lĩnh vực này thì sức cạnh tranh hàng hoá của công ty còn thấp. Điều này gây ra nhiều thiệt hại cho công ty.
Đề tài “Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm may mặc trên thị trường quốc tế của Công ty May Xuất Khẩu ” được nghiên cứu với mong muốn làm rõ các giải pháp chủ yếu để giúp công ty may xuất khẩu nói riêng và các doanh nghiệp Việt Nam nói chung nâng cao sức cạnh trạnh của hàng hoá xuất khẩu.
Với khả năng của công ty và sự hỗ trợ từ phía nhà nước hi vong rằng trong thời gian tới, sức cạnh tranh các mặt hàng chủ yếu của công ty sẽ tăng lên.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình kinh doanh quốc tế, TS. Nguyễn Thị Hường (chủ biên), NXB thống kê - 2001.
Giáo trình quản trị dự án đầu tư quốc tế và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, GS. PTS. Tô Xuân Dân (chủ biên), NXB thống kê - 1998.
Chiến lược cạnh tranh, M.E. Porter, NXB khoa học kỹ thuật, 1996.
Chìa khoá để nâng cao năng lực tiếp thị và sức mạnh cạnh tranh các doanh nghiệp Việt Nam, Trần Xuân Kiên, NXB thống kê, 1998.
Báo cáo xuất nhập khẩu của Công ty May Xuất Khẩu các năm.
Marketing ( đề cương bài giảng ), trường ĐH Thương Mại.
Để thành công trong cạnh tranh sản phẩm, Trần Đình Thêm, NXB TPHCM, 1994.
Đề cương bài giảng kinh tế thương mại, trường ĐHTM.
Kinh tế học vĩ mô, Robert S.Pindyck and Danien R.Rubinseld, NXB khoa học, trường ĐH Ngoại Thương, 1999.
Tạp chí công nghiệp Viêt Nam, tháng 4 năm 2002
Thời báo kinh tế Việt Nam, số 75 năm 2001.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- J0049.doc