Làng nghề truyền thống là “tài
nguyên” nổi bật của thị trường du lịch
nước ta. Nó đã và đang có những đóng
góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế
đất nước, đặc biệt là du lịch. Trong nhiều
năm qua, mỗi làng nghề đều “tự thân vận
động” là chủ yếu. Sự thành công của một
số làng nghề như Bát Tràng (Hà Nội),
Phú Vinh, Vạn Phúc (Hà Nội), Non Nước
(Đà Nẵng), Minh Long (Bình Dương) và
hàng trăm làng nghề khác trên cả nước,
đã thật sự sự cuốn hút du khách trong và
ngoài nước. Chính những làng nghề
truyền thống này đã trở thành địa điểm
du lịch thường xuyên.
Sự phát triển các làng nghề truyền
thống ở nông thôn đã và đang nhận được
sự quan tâm của Chính phủ, song sự phát
triển còn chậm, hiệu quả chưa cao, môi
trường sản xuất và tiêu thụ chưa đảm bảo
ổn định, chưa tương xứng với tiềm năng
vốn có của các địa phương nước ta.
Vì vậy, việc xây dựng các giải pháp
nhằm phát triển nhanh, mạnh, bền vững
các làng nghề truyền thống phục vụ cho
hoạt động du lịch là hết sức cần thiết.
Những giải pháp nêu ra trên đây nếu
được thực hiện nghiêm túc, kịp thời sẽ
góp phần làm thay đổi hoàn thiện cơ cấu
sản xuất nông thôn, bảo tồn nét văn hóa
truyền thống của các dân tộc, giải quyết
tốt việc làm cho người lao động nông
thôn và nâng cao chất lượng cuộc sống.
8 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 696 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp phát triển bền vững làng nghề truyền thống ở Việt Nam phục vụ du lịch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 35 năm 2012
_____________________________________________________________________________________________________________
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG LÀNG NGHỀ
TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM PHỤC VỤ DU LỊCH
PHẠM XUÂN HẬU*, TRỊNH VĂN ANH**
TÓM TẮT
Việt Nam hiện có khoảng hơn 2000 làng nghề truyền thống, nhiều làng nghề có hơn
100 tuổi gắn liền với truyền thống văn hóa của các dân tộc khác nhau. Sản phẩm của làng
nghề đa dạng, độc đáo đã tạo được sức hút với khách du lịch trong nước, quốc tế. Nhưng
nhiều năm qua sự phát triển làng nghề chưa ổn định. Vì vậy, cần có những giải pháp hợp
lí phát triển bền vững làng nghề truyền thống, phục vụ du lịch thời kì hội nhập.
Từ khóa: làng nghề, du lịch.
ABSTRACT
Measures for sustainable development of the traditional handicraft villages
in Vietnam to serve tourism
Nowadays there are more than 2000 traditional handicraft villages in Vietnam and
many of them are more than 100 years old with the cultural traditions of the different
ethnic groups. The diversity and uniqueness of the products in these villages attract many
domestic and international tourists. However, in the past years the development of the
villages wasn’t unstable. So, it’s essential to find some reasonable measures for
sustainable development of the traditional handicraft villages to serve tourism in the
integration period.
Keywords: handicraft village, tourism.
1. Đặt vấn đề
Việt Nam có 54 dân tộc cư trú trên
khắp các vùng lãnh thổ. Mỗi dân tộc đều
sở hữu những truyền thống riêng (sản
xuất, văn hóa, sinh hoạt, tổ chức hội hè
đình đám). Sự riêng biệt đó đã trở
thành những “tài nguyên” có thể tạo ra
những sản phẩm du lịch độc đáo có sức
cuốn hút mạnh mẽ với du khách trong và
ngoài nước. Đặc biệt, khi đầu tư khai thác
mạnh và hợp lí, nó sẽ góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, đa dạng
hóa sản phẩm, tăng thu nhập kinh tế quốc
dân địa phương, nâng cao chất lượng cuộc
* PGS TS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM
** ThS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM
sống dân cư. Bài viết này tập trung
nghiên cứu nội dung phát triển làng nghề
truyền thống phục vụ du lịch, một trong
những hoạt động đã được khai thác trong
nhiều năm qua dựa trên tiềm năng truyền
thống của các địa phương (chủ yếu là
vùng nông thôn) nước ta.
2. Động lực và tiềm năng phát triển
làng nghề
Hàng năm, Việt Nam đón khoảng 3
- 4 triệu khách du lịch quốc tế, hàng chục
triệu khách nội địa. Những làng nghề
mang bản sắc văn hóa dân tộc, thể hiện
những nét đặc trưng của con người ở mỗi
vùng miền. Nét đặc thù của làng nghề
Việt Nam là sự kết hợp các lễ hội, phong
10
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phạm Xuân Hậu và tgk
_____________________________________________________________________________________________________________
tục tập quán của các dân tộc, làm tăng
khả năng lựa chọn của du khách với
những sản phẩm độc đáo, hợp sở thích và
nhu cầu (đặc biệt là khách quốc tế).
Phát triển làng nghề có vai trò quan
trọng đối với các ngành tiểu thủ công
nghiệp, hoàn thiện cơ cấu kinh tế công -
nông nghiệp, góp phần làm tăng tỉ trọng
giá trị hàng xuất khẩu, tăng thu nhập, giải
quyết việc làm cho người lao động (lao
động nông nghiệp nông thôn), quảng bá
hình ảnh đất nước và con người Việt
Nam - quảng bá du lịch.
Nhờ gắn bó chặt chẽ với tập quán,
phong tục và truyền thống văn hóa, đời
sống sinh hoạt hàng ngày của người dân
các địa phương, các loại làng nghề có thể
phát triển rất đa dạng về số loại và nhiều
về số lượng, có giá trị sử dụng cao. Đặc
biệt, khá nhiều sản phẩm từ làng nghề đã
có thương hiệu trên thị trường trong nước
và quốc tế, như: tranh Đông Hồ, lụa Vạn
Phúc, đá mĩ nghệ Non Nước, cây cảnh
Cái Mơn, gốm sứ Biên Hòa, Bát Tràng
Hiện nay, cả nước có hơn 2000 làng
nghề truyền thống đã và đang được đầu
tư phát triển, gồm có: Vùng đồng bằng
sông Hồng (hơn 886 làng nghề), Đông
Bắc Bắc Bộ (khoảng 164), Tây Bắc Bắc
Bộ (247), Bắc Trung Bộ (342), Nam
Trung Bộ (87), Đông Nam Bộ (101),
Đồng bằng sông Cửu Long (khoảng 211).
Sản phẩm từ làng nghề đã mang lại
nguồn thu nhập khá lớn cho địa phương
và cả nước. Riêng Tây Nguyên là vùng
có nhiều tiềm năng, nhưng đến nay các
làng nghề chưa thực sự được đầu tư phát
triển đúng với tiềm năng. Vì vậy, sự đóng
góp lợi ích kinh tế cho phát triển địa
phương còn hạn chế.
Về cơ cấu làng nghề, trên cả nước
hiện có: nghề sản xuất các sản phẩm từ
cói (khoảng 281 làng), sơn mài (31), mây
tre (713), gốm sứ (61), thêu ren (341), dệt
(432), gỗ (342), đá (45), giấy (8), in
khuôn gỗ (4), kim khí (204), các sản
phẩm khác (509).
3. Phát triển làng nghề truyền thống
phục vụ du lịch
3.1. Đẩy mạnh phát triển các nhóm
làng nghề
Từ lâu, làng nghề truyền thống là
nơi cung cấp cho khách những sản phẩm
độc đáo với nhiều ý nghĩa (làm vật kỉ
niệm, phục vụ vui chơi giải trí, ăn uống
sinh hoạt, truyền bá nghề nghiệp). Đặc
biệt, từ khi du lịch phát triển mạnh, làng
nghề trở nên có vị trí quan trọng, tăng
nhanh tốc độ phát triển, đa dạng hóa,
nâng cao chất lượng sản phẩm. Hầu hết
các làng nghề đã trở thành các điểm tham
quan hấp dẫn đối với du khách, đặc biệt
là du khách quốc tế.
Các làng nghề truyền thống của các
địa phương ở nước ta có thể khai thác
phục vụ du lịch theo các nhóm như sau:
- Làng nghề đúc đồng: Nghề đúc
đồng hình thành và phát triển từ nhu cầu
ban đầu là chế tác công cụ lao động sản
xuất, sinh hoạt, binh khí bảo vệ cuộc
sống. Càng về sau, nhiều sản phẩm được
tạo ra với những đường nét tinh xảo phục
vụ nhu cầu kinh tế, tín ngưỡng, tôn
giáo. Tiêu biểu là các làng nghề: Ngũ
Xá (bên hồ Trúc Bạch, Hà Nội), Đại Bái
(Bắc Ninh), Dương Xuân (Huế), Cầu
Nôm (Hưng Yên), Phước Kiều (Quảng
11
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 35 năm 2012
_____________________________________________________________________________________________________________
Nam), Tân Hòa Đông, Hòa Hưng (TP Hồ
Chí Minh).
Những sản phẩm nổi tiếng từ nghề
đúc đồng còn lưu truyền đến ngày nay
phải kể đến như: tượng phật chúa Quỳnh
Lâm (Đông Triều - Quảng Ninh), tháp
Bảo Thiên (Thăng Long, Hà Nội),
chuông Quy Điền ở chùa Diên Hựu (chùa
Một Cột, Hà Nội), vạc Phổ Minh (Thiên
Trường, Nam Định). Trong số những sản
phẩm này, có những sản phẩm đã không
còn nguyên vẹn (chuông Quy Điền và
vạc Phổ Minh) nhưng vẫn còn giá trị.
- Làng nghề kim hoàn (chạm vàng,
bạc): Nghề kim hoàn xuất hiện rất sớm ở
nước ta, những sản phẩm chạm vàng bạc
được ưa chuộng không chỉ ở thị trường
trong nước mà còn trên phạm vi thế giới,
vì sản phẩm đã đạt được trình độ tinh xảo
làm hấp dẫn khách du lịch.
Các làng nghề kim hoàn điển hình
như: làng nghề vàng bạc Châu Khê (Bình
Giang, Hải Dương), làng nghề chạm bạc
Đồng Xâm (Kiến Xương, Thái Bình),
làng dát vàng Kiêu Kị (Gia Lâm, Hà
Nội).
Sản phẩm nổi tiếng từ nghề kim
hoàn được sử dụng trong các đình, chùa,
lăng tẩm, là những nơi trang trọng, linh
thiêng. Ngoài ra, các sản phẩm này còn
được dùng làm đồ trang trí và trang sức.
- Làng nghề gốm, sành sứ: Là nghề
có từ lâu và gắn bó mật thiết với đời sống
của nhân dân, nghề gốm phát triển khá
rộng trên phạm vi cả nước, gần như tỉnh
nào cũng có. Tuy nhiên, để nghề này còn
hưng thịnh đến ngày nay thì không phải
địa phương nào cũng duy trì được.
Những làng nghề gốm sứ nổi tiếng
đã và đang tạo được sự hấp dẫn với
khách du lịch trong và ngoài nước phải
kể đến là: Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội),
Hương Canh (Vĩnh Phúc), Đông Thành
(Đông Triều, Quảng Ninh), Bầu Trúc
(Ninh Phước, Ninh Thuận), Biên Hòa
(Đồng Nai), Lái Thiêu, Minh Long (Thủ
Dầu Một, Bình Dương), Vân Sơn (Nhơn
Hậu, Bình Định), Thái Đen (Mường
Chanh, Sơn La), Chu Đậu (Nam Sách,
Hải Dương)
Sản phẩm của nghề gốm sứ là
những dụng cụ gia đình và những tác
phẩm nghệ thuật đặc sắc dùng trang trí
nơi công cộng, chốn cung đình, đường
phố, góp phần tạo nên những vẻ đẹp thu
hút lòng người (con đường gốm sứ).
- Làng nghề chạm khắc đá, gỗ,
tranh sơn mài: Sản phẩm từ nghề chạm
khắc đá rất đa dạng, là những vật dụng
trong đời sống hàng ngày của người dân
như cối, chày, bàn; những đồ trang sức
như nhẫn, vòng hạt đeo cổ; những con
vật tương trưng cho 12 con giáp và cả
những bức tượng được coi là vật linh
thiêng trong các chùa, nhà thờ Đối với
khách du lịch bốn phương thì đó là những
vật kỉ niệm quý, có sức thu hút mạnh mẽ.
Các làng nghề chạm khắc đá tiêu
biểu: Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng), Bửu
Long (Biên Hòa, Đồng Nai), Nhồi (Đông
Sơn, Thanh Hóa), Ninh Vân (Hoa Lư,
Ninh Bình)
Các làng chạm khắc gỗ nổi tiếng
với chất lượng cao, mẫu mã độc đáo, giá
trị sử dụng cao, thị trường tiêu thụ lớn là:
Phú Khê, Đồng Kị (Từ Sơn, Bắc Ninh),
Du Nam (TP Vũng Tàu, Bà Rịa - Vũng
12
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phạm Xuân Hậu và tgk
_____________________________________________________________________________________________________________
Tàu), Nhân Hiền (Thường Tín, Hà Nội),
Sơn Đồng (Hoài Đức, Hà Nội), Dư Dụ
(Thanh Oai, Hà Nội), Đất Thủ (Bình
Dương), Thanh Thủy (Quốc Oai, Hà
Nội), Thiết Ứng, Cổ Châu (Đông Anh,
Hà Nội), Phú Thọ (Bình Dương), Bảo Hà
(Hải Phòng), La Xuyên (Ý Yên, Nam
Định), Mỹ Xuyên (Phong Điền, Thừa
Thiên - Huế), Hội An (Quảng Nam)
Các làng tranh sơn mài nổi tiếng
với những sản phẩm độc đáo là: Tương
Bình Hiệp (Bình An, Bình Dương), Hạ
Thái (Thường Tín, Hà Nội), Triều Sơn,
Địa Linh (Tiên Nôn, TP Huế).
- Làng nghề dệt lụa, thổ cẩm, thêu
ren, dệt chiếu cói
Trên cả nước hiện nay có nhiều
làng nghề dệt lụa, thổ cẩm và thêu ren
truyền thống có khả năng khai thác phục
vụ du lịch, ngoài giá trị kinh tế cho địa
phương, sản phẩm được tạo ra từ các dân
tộc khác nhau của các làng nghề này đã
tạo được sự cuốn hút khách du lịch bởi
tính đa dạng, phong phú về chủng loại và
màu sắc rực rỡ.
Các làng nghề tiêu biểu là: các làng
dệt lụa Vạn Phúc (Hà Đông, Hà Nội),
Tân Châu (Tân Châu, An Giang), Mã
Châu (Duy Xuyên, Quảng Nam), Chăm
(Phan Rang, Tháp Chàm, Ninh Thuận),
Vân Phương (xã Liên Phương, TP Hưng
Yên); các làng thêu ren Quất Động
(Thường Tín, Hà Nội), Văn Lâm (Hoa
Lư, Ninh Bình), Huế (Thừa Thiên -
Huế)
Các làng nghề dệt chiếu cói điển
hình là: Hoài Nhơn (Bình Định), Tư
Nghĩa (Quảng Ngãi), Bàn Thạch (Quảng
Nam), Hới (Thái Bình), Cẩm Nê (Đà
Nẵng), Mỹ Trạch (Ninh Hòa, Khánh
Hòa), Lật Dương (Tiên Lãng, Hải
Phòng), Thủy Tú (Nha Trang, Khánh
Hòa), Kim Sơn (Ninh Bình), Phú Tân
(Tuy An, Phú Yên).
Ngoài ra, còn khá nhiều làng nghề
dệt thêu khác ở các địa phương thuộc Tây
Nguyên, miền núi phía Bắc, đồng bằng
sông Cửu Long, nhưng chưa được đầu tư
phát triển đúng với thế mạnh vốn có của
nó trong quá khứ và hiện tai.
- Làng nghề sản xuất giấy dó, tranh
dân gian: Sản xuất giấy dó phát triển
sớm ở nhiều địa phương, song chỉ được
duy trì ở một số nơi có kĩ thuật tốt như:
Yên Thái (làng Bưởi, Hà Nội), Phong
Khê (Yên Phong, Bắc Ninh), An Cốc
(Phú Xuyên, Hà Nội), Nghĩa Đô (Từ
Liêm, Hà Nội)
Bên cạnh những làng nghề làm giấy
dó là nghề làm tranh dân gian. Sản phẩm
tranh dân gian được sử dụng trong những
gia đình bình dân và trong các gia đình
quyền quý ở kinh thành bởi tính độc đáo
và dân dã của chúng.
Các làng tranh điển hình tạo được
ấn tượng và sức cuốn hút với khách du
lịch là: Đông Hồ (Bắc Ninh), Hàng Trống
(Hà Nội).
- Làng nghề mây tre đan: Sản phẩm
mây tre đan như: bàn, ghế, túi xách, khay
đựng hoa quả, lọ và lẵng cắm hoa, giày
dép đi trong khách sạn ngày càng xuất
hiện nhiều và được khách du lịch ưa
chuộng
Các làng nghề mây tre đan không
chỉ là nơi sản xuất ra sản phẩm hàng hóa
mà còn là nơi trình diễn kĩ thuật thủ công
13
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 35 năm 2012
_____________________________________________________________________________________________________________
và bàn tay khéo léo của người thợ với
khách du lịch.
Các làng nghề tiêu biểu là: Phú
Vinh (Chương Mỹ, Hà Nội), Ninh Sở
(Thường Tín, Hà Nội), Tăng Tiến (Việt
Yên, Bắc Giang), Xuân Lai (Gia Bình,
Bắc Ninh).
Có thể nói, phát triển ngành nghề
truyền thống có vai trò quan trọng trong
quá trình phát triển kinh tế nông thôn, hộ
gia đình, nó không chỉ tạo công ăn việc
làm lúc nông nhàn, tăng thu nhập cho
nông dân mà còn tạo dấu ấn bản sắc văn
hóa riêng của dân tộc, phát triển nông
thôn mới.
Thực hiện đổi mới phát triển kinh tế
thời kì hội nhập, Chính phủ đã ra Quyết
định 132/2000/QĐ-TTg về chính sách
khuyến khích phát triển ngành nghề nông
thôn, nông nghiệp nước ta. Tiếp theo là
Nghị định 90/CP ngày 23-11-2001 đã tạo
cơ hội cho các doanh nghiệp trong các
làng nghề vay vốn, cấp đất mở rộng cơ sở
sản xuất và được phép xuất khẩu trực
tiếp. Từ quyết định, nghị định này, nhiều
nghề truyền thống được khôi phục. Cùng
với phong trào “mỗi làng một sản phẩm”,
nhiều làng nghề đã tạo được khối lượng
sản phẩm lớn, thể loại đa dạng, chất
lượng cao cung cấp cho thị trường trong
và ngoài nước. Hiện nay đã có hơn 40%
sản phẩm của làng nghề nông thôn được
đưa đến thị trường của hơn 100 nước trên
thế giới.
3.2. Một số vấn đề đặt ra trong phát
triển làng nghề ở nước ta
Với số lượng hơn 2000 làng nghề
truyền thống có từ 100 năm tuổi trở lên,
các làng nghề đã sản xuất ra hàng ngàn
loại sản phẩm có giá trị sử dụng trong
nhiều lĩnh vực, đóng góp cho thị trường
xuất khẩu, thu nguồn ngoại tệ đáng kể.
Tuy nhiên, nhìn nhận khách quan thì việc
phát triển làng nghề truyền thống ở nước
ta còn bộc lộ nhiều vấn đề cần phải được
quan tâm, để có thể phát triển đúng với
tiềm năng hiện có, cụ thể là:
- Phát triển ngành nghề trong các
làng nghề nông thôn còn mang tính tự
phát, công nghệ lạc hậu, máy móc thiết bị
chưa hiện đại, vốn đầu tư ít (80% cơ sở
không đủ điều kiện đầu tư vốn cải tiến
trang thiết bị công nghệ hiện đại).
- Sản xuất thiếu ổn định, nguồn
nguyên liệu cho sản xuất còn thụ động,
chất lượng nguyên liệu bảo quản chưa
đáp ứng yêu cầu.
- Các doanh nghiệp tham gia vào các
khâu sản xuất nâng cao chất lượng, đưa
sản phẩm trở thành thương hiệu có khả
năng thu lợi ích kinh tế lớn, nhưng vẫn
chưa thực sự chủ động được nguồn vốn
vay làm ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất
và cung cấp sản phẩm.
- Sự liên kết giữa các làng nghề,
nghệ nhân, thợ thủ công và các doanh
nghiệp trong việc cung cấp thông tin thị
trường, tiêu thụ sản phẩm, truyền nghề,
chưa thường xuyên và chưa chặt chẽ.
- Chất lượng nhiều sản phẩm chưa
cao, việc cải tiến mẫu mã, kiểu dáng,
đăng kí thương hiệu còn rất hạn chế,
chưa khai thác hiệu quả thị trường trong
nước, xuất khẩu và tiềm năng du lịch
chưa được khai thác tốt.
- Công tác đào tạo nâng cao tay nghề
và truyền nghề chưa được chú ý. Việc
giữ gìn, tôn vinh và tuyên truyền bản sắc
14
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phạm Xuân Hậu và tgk
_____________________________________________________________________________________________________________
văn hóa dân tộc trên các sản phẩm truyền
thống chưa được coi trọng.
- Cơ sở hạ tầng và dịch vụ không
đồng bộ; môi trường sản xuất và sinh
hoạt ô nhiễm nặng làm ảnh hưởng đến
môi trường sống của dân cư và khách du
lịch.
4. Giải pháp phát triển làng nghề
truyền thống phục vụ du lịch
4.1. Quan điểm
Để chấn hưng và phát triển làng
nghề, trước hết cần phải có quy hoạch
thống nhất về sự phát triển làng nghề trên
cả nước và từng địa phương, làm nền
tảng cho các cơ sở chủ động đầu tư lâu
dài, mở rộng quy mô, trang bị kĩ thuật
hiện đại để nâng cao chất lượng sản
phẩm. Bên cạnh đó, cần có nhận thức
đúng như :
- Chấn hưng làng nghề là bảo tồn văn
hóa, là chuyển đổi cơ cấu sản xuất ở nông
thôn, là tham gia xóa đói giảm nghèo;
- Việc cải tiến mẫu mã, kiểu dáng,
đăng kí và quảng bá thương hiệu, sản
xuất số lượng nhiều, giá thành và giá bán
thấp, chất lượng tốt phù hợp với đối
tượng tiêu thụ là công việc quan trọng
phải được thực hiện đồng bộ;
- Phát triển loại hình du lịch làng
nghề và làng nghề du lịch là nhằm mục
tiêu khai thác tối đa tiềm năng truyền
thống của địa phương.
4.2. Giải pháp phát triển
Xây dựng chiến lược quy hoạch,
chính sách và định hướng phát triển
ngành nghề, làng nghề nông thôn
- Chú trọng quy hoạch phát triển các
làng nghề gắn với các cụm công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp, chiến lược thị
trường, phát triển nguồn nhân lực, kế
hoạch bảo tồn trước mắt và lâu dài.
- Mỗi địa phương, làng nghề cần
thực hiện quy hoạch chi tiết phát triển cơ
sở hạ tầng (giao thông, công trình điện
nước, mặt bằng xây dựng), đặc biệt
chú ý đến bảo vệ môi trường sản xuất và
sinh hoạt.
- Điều tra, khảo sát toàn bộ hệ thống
làng nghề truyền thống, đánh giá toàn
diện, phân tích chi tiết tiềm năng của
từng ngành nghề truyền thống ở từng địa
phương (nếu nhiều địa phương cùng có
thì phải so sánh và tìm ra những nổi trội
riêng biệt) để có kế hoạch phát triển phù
hợp, hiệu quả cao.
Điều chỉnh cơ chế, chính sách
khuyến khích phát triển làng nghề
- Bổ sung, điều chỉnh kịp thời chính
sách khuyến khích phát triển làng nghề
trong các lĩnh vực: cơ chế quản lí đầu tư
vốn, đào tạo nhân lực, quyền sử dụng đất,
xuất nhập khẩu, công bằng lợi ích.
- Tăng cường hỗ trợ các doanh
nghiệp nhỏ, doanh nghiệp ngoài quốc
doanh và hộ gia đình về chính sách đầu
tư, xúc tiến quảng bá sản phẩm, cung cấp
thông tin thị trường, thiết kế mẫu mã phù
hợp nhu cầu thị trường.
- Đãi ngộ xứng đáng về vật chất với
các nghệ nhân, nhà nghiên cứu văn hóa -
lịch sử tham gia nghiên cứu, đánh giá và
phổ biến giá trị văn hóa của sản phẩm,
xây dựng kế hoạch bảo tồn sản phẩm.
Tăng cường áp dụng khoa học công
nghệ, cải tiến mẫu mã, nâng cao chất
lượng sản phẩm
- Chủ động đầu tư và đầu tư lớn cho
các cơ sở nghiên cứu khoa học - công
15
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 35 năm 2012
_____________________________________________________________________________________________________________
nghệ; sử dụng vật liệu mới, tạo ra sản
phẩm mới nhằm nâng cao chất lượng,
tính thẩm mĩ, độ bền và khả năng sử
dụng lâu dài của sản phẩm.
- Đẩy mạnh liên kết, hợp tác giữa các
làng nghề với các tổ chức, chuyên gia
trong và ngoài nước để trao đổi, học hỏi
kinh nghiệm cải tiến mẫu mã, kiểu dáng
sản phẩm, quảng bá sản phẩm, tìm kiếm
thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Củng cố chặt chẽ thường xuyên mối
quan hệ giữa“các nhà”
- Tăng cường mối quan hệ giữa các
nhà như: “nhà nước”, “nhà sản xuất”,
“nhà khoa học”, “nhà kinh doanh”, “nhà
văn hóa”, “nhà thiết kế”, “nhà du lịch”
nhằm phát triển toàn diện làng nghề
truyền thống.
Phát triển mạng lưới liên kết các
làng nghề
- Liên kết các làng nghề để hỗ trợ lẫn
nhau trong các lĩnh vực: sản xuất, nhân
lực trình độ cao, cơ sở hạ tầng, tạo dòng
sản phẩm, xúc tiến quảng bá sản phẩm
tạo sức cạnh tranh trên thị trường thế
giới.
- Đẩy mạnh hơn nữa việc liên kết
phát triển du lịch làng nghề nhằm giới
thiệu, tôn vinh văn hóa dân tộc, thông
qua những thao tác, kĩ năng thể hiện của
các nghệ nhân trên sản phẩm.
Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao
- Cần kết hợp đồng thời và duy trì
thường xuyên việc truyền nghề với việc
nâng cao trình độ lực lượng lao động
- Đào tạo kịp thời đội ngũ lao động
trẻ kế cận có khả năng tiếp thu nhanh,
vận dụng hiệu quả tay nghề trong sản
xuất.
- Chú ý đào tạo bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ quản lí chung và chuyên sâu cho
các bộ phận thiết kế mẫu và xúc tiến
thương mại.
Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến
thương mại
- Khuyến khích cá nhân, cơ sở, hiệp
hội ngành nghề, các tổ chức kết hợp với
nhau mở các website và xuất bản những
ấn phẩm (sách, sổ tay, tờ rơi) tạo thành
mạng lưới thông tin; tăng cường sử dụng
các phương tiện thông tin đại chúng để
quảng bá giới thiệu sản phẩm làng nghề,
giá cả, thị trường tiêu thụ...
- Tổ chức thường xuyên các hội chợ
triển lãm nhằm tôn vinh các làng nghề,
giới thiệu nhãn hiệu hàng hóa các làng
nghề, các sản phẩm đặc sắc mang đậm
nét văn hóa của các dân tộc.
Xây dựng, triển khai các dự án phát
triển làng nghề
- Kế hoạch phát triển cần thực hiện
theo chiến lược lâu dài gắn chặt với các
hoạt động du lịch, phù hợp với chiến lược
phát triển tổng thể kinh tế địa phương.
- Đặc biệt chú ý thiết lập hệ thống xử
lí, bảo vệ môi trường trong các cơ sở sản
xuất và toàn thể làng nghề, vận dụng tốt
kinh nghiệm “mỗi làng, một sản phẩm”
nhằm khai thác tối đa tiềm năng địa
phương.
5. Kết luận
Làng nghề truyền thống là “tài
nguyên” nổi bật của thị trường du lịch
nước ta. Nó đã và đang có những đóng
góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế
đất nước, đặc biệt là du lịch. Trong nhiều
16
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phạm Xuân Hậu và tgk
_____________________________________________________________________________________________________________
năm qua, mỗi làng nghề đều “tự thân vận
động” là chủ yếu. Sự thành công của một
số làng nghề như Bát Tràng (Hà Nội),
Phú Vinh, Vạn Phúc (Hà Nội), Non Nước
(Đà Nẵng), Minh Long (Bình Dương) và
hàng trăm làng nghề khác trên cả nước,
đã thật sự sự cuốn hút du khách trong và
ngoài nước. Chính những làng nghề
truyền thống này đã trở thành địa điểm
du lịch thường xuyên.
Sự phát triển các làng nghề truyền
thống ở nông thôn đã và đang nhận được
sự quan tâm của Chính phủ, song sự phát
triển còn chậm, hiệu quả chưa cao, môi
trường sản xuất và tiêu thụ chưa đảm bảo
ổn định, chưa tương xứng với tiềm năng
vốn có của các địa phương nước ta.
Vì vậy, việc xây dựng các giải pháp
nhằm phát triển nhanh, mạnh, bền vững
các làng nghề truyền thống phục vụ cho
hoạt động du lịch là hết sức cần thiết.
Những giải pháp nêu ra trên đây nếu
được thực hiện nghiêm túc, kịp thời sẽ
góp phần làm thay đổi hoàn thiện cơ cấu
sản xuất nông thôn, bảo tồn nét văn hóa
truyền thống của các dân tộc, giải quyết
tốt việc làm cho người lao động nông
thôn và nâng cao chất lượng cuộc sống.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2008), “Áp dụng kinh nghiệm “mỗi làng một sản phẩm”
trong phát triển ngành nghề nông thôn ở Việt Nam”, Tuần tin Kinh tế - Xã hội, (9).
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2008), “Du lịch làng nghề Việt Nam thực trạng và tiềm
năng phát triển”, Tuần tin Kinh tế - Xã hội, (14).
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2009), Kinh nghiệm quốc tế về phát triển làng nghề nông
nghiệp và nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, Đặc san số 55.
4. Nguyễn Đình Hòe (2001), Du lịch bền vững, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Nguyễn Minh Tuệ (chủ biên) & nnk (2010), Địa lí Du lịch Việt Nam, Nxb Giáo dục
Việt Nam.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 19-9-2011; ngày chấp nhận đăng: 06-4-2012)
17
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giai_phap_phat_trien_ben_vung_lang_nghe_0662.pdf