One of the major problems of water intakes is the movement and deposition of sediment at
entrances of intakes. Due to reducing the ability getting water of intakes, this issue directly affects
agricultural production and cost a lot to dredge annual. Therefore, it is very urgent to study and
propose solutions to prevent sediment deposition at entrances of intakes, especially of which in the
Red River where water sources have high concentrations of sediment.
In this paper, the authors present a solution using submerged vanes to control and minimize
sediment deposition at entrances of water intakes, applied for Cam Dinh water intake. The
authors also used a mathematical model to simulate the working process of submerged vanes and
to assess the effect of preventing sediment deposition, compared with the case of not using the
submerged vanes.
7 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 559 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp sử dụng hệ thống van ngầm kiểm soát bùn cát giảm thiểu bồi lắng tại các cửa lấy nước bên sông hồng Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 121
BÀI BÁO KHOA HỌC
GIẢI PHÁP SỬ DỤNG HỆ THỐNG VAN NGẦM KIỂM SOÁT BÙN CÁT
GIẢM THIỂU BỒI LẮNG TẠI CÁC CỬA LẤY NƯỚC
BÊN SÔNG HỒNG HÀ NỘI
Nguyễn Hữu Huế 1, Nguyễn Đình Trinh2
Tóm tắt: Một trong những vấn đề lớn mà các cửa lấy nước thường phải đối mặt là sự di chuyển và
bồi lắng bùn cát tại kênh dẫn vào cống lấy nước. Bùn cát bồi lắng gây ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu
quả lấy nước của công trình, khiến việc đưa nước vào phục vụ sản xuất khó khăn, ảnh hưởng đến
thời vụ và gây tốn kém kinh phí nạo vét hàng năm. Vì vậy việc nghiên cứu và đề xuất các giải pháp
giảm thiểu bồi lắng tại các cửa lấy nước là rất cấp thiết, đặc biệt đối với các hệ thống thủy lợi lấy
nước bên sông Hồng, nơi nguồn nước có nồng độ bùn cát lớn.
Trong bài báo này, tác giả trình bày giải pháp sử dụng hệ thống van ngầm kiểm soát bùn cát, giảm
thiểu bồi lắng do bùn cát di chuyển và lắng đọng tại kênh dẫn vào cống lấy nước, áp dụng cho cửa
lấy nước Cẩm Đình. Cũng trong nghiên cứu này, tác giả đã sử dụng mô hình toán để mô phỏng quá
trình làm việc và đánh giá hiệu quả giảm thiểu bồi lắng do hệ thống van ngầm đem lại, so sánh với
trường hợp không sử dụng hệ thống van ngầm.
Từ khóa: van ngầm kiểm soát bùn cát, bồi lắng cửa lấy nước, xói lở, bồi lắng.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, giải
pháp khắc phục bồi lắng phổ biến là nạo vét
(Nguyễn Đình Trinh, 2017). Về chống hay giảm
bồi lắng bên cạnh việc chọn vị trí cửa lấy nước
phù hợp thì các nước tiên tiến trên thế giới đã và
đang phát triển các công nghệ kiểm soát bùn cát
bằng các công trình đặt trên sông lái dòng bùn
cát, đặc biệt chủ động đẩy bùn cát ra xa cửa lấy
nước. Đồng thời bố trí các bẫy hay bể lắng để
lắng giữ bùn cát tương đối mịn không cho đi xa,
tránh không cho chúng bồi lắng trên hệ thống
kênh dẫn tưới.
Một trong những công trình kiểm soát bùn
cát được nghiên cứu và bước đầu ứng dụng rộng
rãi trên thế giới hiện nay là sử dụng các van
ngầm (submerged vanes) đẩy bùn cát ra xa cửa
lấy nước. Đây là một giải pháp rẻ tiền và hiệu
quả để ngăn chặn bồi lắng bùn cát tại các cửa
lấy nước (Jacob Odgaard, 2009).
1 Khoa Công trình - trường Đại học Thủy lợi; Email:
nguyenhuuhue@tlu.vn
2 Khoa Công trình - trường Đại học Thủy lợi; Email:
nguyendinhtrinh@tlu.vn
Hình 1. Công trình chống bồi lắng
(dạng van ngầm - submered vanes) tại cửa lấy
nước bên sông San Juan River- New Mexico
Do các công trình chống bồi lắng tại các cửa
lấy nước trên sông đòi hỏi sự đầu tư lớn nên ở
Việt Nam chưa có điều kiện áp dụng. Do vậy,
các nghiên cứu ở nước ta tập trung vào công
trình chắn cát tại cửa lấy nước như chắn cát kiểu
phao nổi, chắn cát dạng tường chắn mũi hắt,
chắn cát kiểu màn che di động, các giải pháp
này đã được ứng dụng ở cống Xuân Quan và
một vài cửa lấy nước nhỏ ở đồng bằng sông
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 122
Hồng. Thực tế vận hành cho thấy các giải pháp
mang tính chất tạm thời, vận hành thủ công,
hiệu quả chống bồi không cao nên không nhân
rộng được.
Để đáp ứng các yêu cầu mà thực tiễn đặt ra
trong vấn đề giảm thiểu bồi lắng bùn cát tại
các cửa lấy nước vào các hệ thống thủy lợi,
việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật,
trong đó ưu tiên nghiên cứu áp dụng hệ thống
van ngầm kiểm soát bùn cát là phù hợp với xu
thế hiện nay.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu đã sử dụng tổng hợp các phương
pháp sau:
+ Phương pháp tổng hợp, kế thừa: Thống
kê, tập hợp tất cả các tài liệu, nghiên cứu trong
và ngoài nước có liên quan đến giải pháp sử
dụng hệ thống van ngầm kiểm soát bùn cát,
giảm thiểu bồi lắng tại các cửa lấy nước bên
sông. Trên cơ sở các tài liệu thu thập, tác giả sẽ
kế thừa có chọn lọc các nghiên cứu sử dụng van
ngầm giảm thiểu bồi lắng tại các cửa lấy nước
có mối tương đồng với các cửa lấy nước bên
sông Hồng Hà Nội.
+ Phương pháp phân tích, thống kê: Tổng
hợp, phân tích các dữ liệu về thủy văn, bùn cát
bao gồm: mực nước, lưu lượng, nồng độ bùn
cát đáy, nồng độ bùn cát lơ lửng, đường kính
hạt bùn cát... tại cống Cẩm Đình làm cơ sở
phục vụ xây dựng mô hình toán và điều kiện
biên thiết kế.
+ Phương pháp mô hình toán: Tác giả sẽ
sử dụng mô hình toán 2 chiều để đánh giá hiệu
quả giảm thiểu bồi lắng bùn cát của giải pháp
đề xuất.
3. CÔNG NGHỆ KIỂM SOÁT BÙN CÁT
TẠI CÁC CỬA LẤY NƯỚC SỬ DỤNG HỆ
THỐNG VAN NGẦM (SUBMERGED VANES)
3.1. Nguyên lý làm việc của hệ thống van
ngầm kiểm soát bùn cát
Giải pháp sử dụng hệ thống van ngầm
(Submerged vanes) kiểm soát bùn cát tại các
khu vực cửa lấy nước bên sông lần đầu tiên
được đưa ra công bố năm 1983 bởi Odgaard,
Kennedy. Mục tiêu của việc xây dựng hệ thống
van ngầm là tạo ra một rãnh xói ngay phía trước
cửa lấy nước để ngăn chặn bùn cát đi vào trong
kênh (xem hình 3, hình 4), ngoài ra còn tạo một
lạch lấy nước đi sát cửa lấy nước, giúp việc lấy
nước trở nên thuận lợi hơn.
Để làm tạo ra được rãnh xói, nguyên lý làm
việc của hệ thống van ngầm như sau: Khi dòng
chảy đến và tiếp xúc với hệ thống van, một
vùng áp suất cao được hình thành tại mặt trước
(mặt tiếp xúc) của mỗi van, và một vùng áp suất
thấp cũng sẽ được hình thành tại mặt sau của
các van đó. Do sự chênh lệch áp suất giữa mặt
trước và mặt sau đã tạo thành một dòng chảy
xoáy xoắn ốc phía sau mỗi van.
Hình 2. Dòng chảy xoáy xoắn ốc hình thành
xung quanh của van
Dòng chảy xoáy đã làm thay đổi vận tốc
dòng chảy đáy, thay đổi ứng suất tiếp và thay
đổi hình thái lòng dẫn của các khu vực xung
quanh các van ngầm. Cụ thể, dòng chảy xoáy
(dòng thứ cấp) đã tạo ra ứng suất nằm ngang lên
đáy lòng dẫn sông, kéo theo sự vận chuyển bùn
cát theo phương ngang theo chiều dòng chảy.
Bùn cát do dòng chảy xoáy tạo ra sẽ chuyển
động và bồi lắng về phía mặt có áp lực cao.
Cuối cùng, một rãnh xói được tạo thành phía hạ
lưu của van.
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 123
Hình 3. Rãnh xói phía trước cửa
lấy nước trong mô hình thí nghiệm vật lý
của Jacob Odgaard (2009)
Hình 4. Ảnh minh họa quá trình làm việc
của van ngầm kiểm soát bùn cát
(Nguyễn Đình Trình, 2016)
3.2. Các thông số thiết kế của van ngầm
kiểm soát bùn cát
Các thông số chính ảnh hưởng đến hiệu quả làm
việc của van ngầm kiểm soát bùn cát bao gồm: số
lượng hàng van (n) được đặt song song nhau; góc
của van (α); chiều cao van (HV), chiều dài van (d);
khoảng cách giữa hai van theo chiều dọc ( S );
khoảng cách giữa hai van theo chiều ngang ( n );
khoảng cách từ van đến đường bờ cửa lấy nước
( b ). Để tìm ra được giá trị tối ưu của từng thông
số thiết kế, các nhà nghiên cứu trên thế giới điển
hình như: S. Abdel-Haleem và Helal, Y. Esam
(2008), Jacob Odgaard (2009)... đã tiến hành nhiều
thí nghiệm trên các mô hình vật lý. Trên cơ sở kết
quả thí nghiệm, các giá trị hợp lý của các thông số
thiết kế van ngầm được đề xuất như sau:
Bảng 1. Bảng phạm vi giá trị các thông số thiết kế hệ thống van ngầm kiểm soát bùn cát
Các
thống
số
Góc của
van
hướng
dòng
(α)
Chiều cao
van
(HV)
Chiều
dài van
(d)
Khoảng
cách giữa
hai van theo
chiều dọc
( S )
Khoảng
cách giữa
hai van theo
chiều ngang
( n )
Khoảng cách
từ van đến
đường bờ
cửa lấy nước
( b )
Vùng
giá trị
đề xuất
15< α<45 0,2<
V
M
H
h
<0,5 2HV÷3HV 8HV÷10 HV 2HV÷3HV 3HV
Giá trị
đề xuất
lựa
chọn
30 0,3÷0,4 3HV 8HV 2HV 3HV
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 124
Hình 5. Hình ảnh thể hiện cách xác định các
thông số thiết kế của hệ thống van ngầm
4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. Thực trạng bồi lắng tại cống Cẩm Đình
Cống Cẩm Đình thuộc cụm công trình đầu
mối Hát Môn - Đập Đáy được khởi công xây
dựng năm 2002 và hoàn thành vào năm 2004.
Theo phản ánh của Ban Quản lý công trình phân
lũ sông Đáy, cống Cẩm Đình sau khi hoàn thành
và đưa vào sử dụng mới chỉ được nạo vét một
lần duy nhất vào năm 2008. Khối lượng nạo vét
khoảng 22*103 m3. Đây là khối lượng bùn cát
quá lớn, gây ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng
lấy nước thực tế của cống.
Hình 6: Kênh dẫn vào cống Cẩm Đình bị bồi
lấp nghiêm trọng (Lê Văn Hùng, 2013)
Quá trình điều tra, khảo sát thực địa tại cống
Cẩm Đình cho thấy: vào vụ Đông Xuân cống
Cẩm Đình không thể vận hành lấy nước phục vụ
sản xuất nông nghiệp. Chỉ trong vụ Hè Thu, khi
có lũ tiểu mãn trên sông Hồng thì cống Cẩm
Đình mới có khả năng lấy nước vào sông Đáy.
Qua thực trạng nêu trên cho thấy: bồi lắng
bùn cát tại cống Cẩm Đình đã ảnh hưởng
nghiêm trọng đến khả năng lấy nước, cần
sớm có các giải pháp nạo vét, khắc phục tình
trạng trên.
4.2. Xác định các thông số thiết kế cho hệ
thống van ngầm kiểm soát bùn cát tại cống
Cẩm Đình
1) Số lượng hàng van (n)
Trong nghiên cứu này, tác giả lựa chọn giải
pháp tối ưu là xây dựng hệ thống hai hàng van
ngầm kiểm soát bùn cát song song nhau. Việc
kết hợp hai hàng van sẽ tạo ra rãnh xói có phạm
vi rộng hơn so với rãnh xói được tạo ra trong
trường hợp chỉ có một hàng van; đồng thời dòng
chảy xoáy xoắn ốc được tạo ra cũng mạnh hơn
giúp giảm thiểu tối đa bùn cát dịch chuyển và
bồi lắng tại kênh dẫn vào cống lấy nước.
2) Độ sâu nước thiết kế (hM)
Các cửa lấy nước bị bồi lấp chủ yếu vào mùa
lũ, vì vậy giải pháp sử dụng van ngầm kiểm soát
bùn cát được sử dụng để giảm thiểu bồi lắng
bùn cát vào mùa lũ. Do đó, việc lựa chọn độ sâu
nước thiết kế hệ thống van ngầm sẽ lấy theo
mực nước vào mùa lũ. Độ sâu nước thiết kế tác
giả đề xuất là ứng với mực nước mùa lũ trung
bình nhiều năm (P=80% ) để đảm bảo 80%
khoảng thời gian làm việc trong mùa lũ van
ngầm luôn ngập dưới nước.
Hình 7. Đường tần suất mực nước trung bình
nhiều năm tại cửa cống lấy nước Cẩm Đình
Căn cứ trên cơ sở tài liệu đo đạc địa hình năm
2017, cao độ đáy lòng dẫn tại khu vực cửa kênh
dẫn vào là: +3,00 (m) và mực nước mùa lũ trung
bình năm ứng với tần suất 80% sẽ là Hthiết kế =
7,10 (m), xác định được độ sâu nước thiết kế hM
= Hthiết kế – ZĐịa hình = 7,10 - 3,00 = 4,10 (m).
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 125
3) Góc của van hướng dòng (α)
Một số tác giả (Fahmy, S. Abdel-Haleem và
Helal, Y. Esam; Wang và Odgaard...) trên thế
giới đã nghiên cứu về góc tối ưu và nhiều tác
giả cùng đưa ra kết quả về góc tối ưu α = 300
(độ). Vì vậy, nghiên cứu đã lựa chọn góc hướng
dòng là 30 độ.
4) Chiều cao van (HV): 0,3
4,10
V V
M
H H
h
=>
HV = 1,23. Chọn HV = 1,30 (m).
5) Chiều dài van (d): d=3* HV = 3*1,30 =
3,90 (m).
6) Khoảng cách giữa hai van
( S ): S =8*HV = 8*1,30 = 10,40 (m).
7) Khoảng cách giữa hai van theo chiều
ngang ( n ): n =2*HV = 2*1,30 = 2,60 (m).
8) Khoảng cách từ van đến đường bờ cửa
lấy nước ( b ): b =3*HV = 3*1,30 = 3,90 (m).
Bảng 2. Bảng giá trị các thông số thiết kế hệ thống van ngầm
chống bồi cống lấy nước Cẩm Đình
Các
thống
số
Góc của
van hướng
dòng
(α)
Chiều cao
van
(HV)
Chiều
dài van
(d)
Khoảng cách
giữa hai van
theo chiều
dọc ( S )
Khoảng cách
giữa hai van
theo chiều
ngang ( n )
Khoảng cách
từ van đến
đường bờ cửa
lấy nước ( b )
Giá trị 30 1,30 m 3,90 m 10,40 m 2,60 m 3,90 m
Số lượng van ngầm trong hệ thống van ngầm
kiểm soát bùn cát tại cống lấy nước Cẩm Đình
gồm: 21 van/hàng x 2 hàng = 42 van.
4.3. Đánh giá hiệu quả giảm thiểu bồi lắng
do hệ thống van ngầm đem lại trên cơ sở kết
quả mô hình toán
Kịch bản tính toán: Cửa lấy nước bên
sông Hồng nói chung và cống Cẩm Đình nói
riêng bị bồi lấp chủ yếu vào mùa lũ do bùn cát
đáy và bùn cát lơ lửng trong nước lũ gây ra.
Như vậy, cống lấy nước chủ yếu bị bồi lấp vào
mùa lũ khi mực nước sông dâng cao và trong
trường hợp cống không làm việc. Do đó, kịch
bản tính toán được lựa chọn sẽ là trận lũ điển
hình trên sông Hồng vào tháng 08/1996 khi
cống Cẩm Đình không thực thực hiện lấy nước.
Tài liệu địa hình: Tài liệu địa hình khu
vực cống Cẩm Đình được đo đạc năm 2017.
Kích thước ô lưới: Kích thước mỗi cạnh ô
lưới tam giác là 10m đối với khu vực lòng sông
Hồng, là 5m đối với khu vực cửa lấy nước và
kênh dẫn thượng lưu cống Cẩm Đình.
Kết quả khai báo hệ thống van ngầm vào
mô hình toán
Số lượng van ngầm được khai báo vào mô
hình toán khu vực cống Cẩm Đình gồm: 21
van/hàng x 2 hàng = 42 van. Riêng van ngầm
được mô phỏng theo dạng Structure/dikes, có
cao trình đỉnh không đổi là +4.30m; chiều dài,
khoảng cách giữa các van... theo theo đúng giá
trị ghi trong bảng 2.
Hình 8. Hệ thống van ngầm được khai báo
vào mô hình toán khu vực cống Cẩm Đình
Các thông số bùn cát
+ Đường kính hạt trung bình:
D50 = 0,22 mm.
+ Nồng độ bùn cát mùa lũ: tb = 1037 g/m3.
Kết quả
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 126
Hình 9. Biến đổi địa hình lòng dẫn khu vực
cửa vào cống Cẩm Đình sau trận lũ 08/1996 –
(Trường hợp bố trí hệ thống van ngầm)
Hình 10. Biến đổi địa hình lòng dẫn khu vực
cửa vào cống Cẩm Đình sau trận lũ 08/1996 –
(Trường hợp không bố trí hệ thống van ngầm)
Đánh giá hiệu quả giảm thiểu bồi lắng
do hệ thống van ngầm đem lại
Qua kết quả mô phỏng biến đổi địa hình lòng
dẫn khu vực cửa vào cống Cẩm Đình sau trận lũ
kéo dài từ 08/08/1996 ÷ 20/08/1996 trong hai
trường hợp cho thấy:
- Trường hợp có bố trí hệ thống van ngầm
gồm 24 van phía trước cửa lấy nước: Kết quả
mô phỏng biến đổi lòng dẫn cho thấy, địa hình
khu vực cửa vào gần như không bị bồi lắng,
hiện trạng địa hình kênh dẫn vào vẫn được giữ
nguyên. Có xuất hiện một số khu vực bị bồi
lắng nhiều nhưng ở phía hạ lưu cửa lấy nước
nên sẽ không ảnh hưởng đến hiệu quả lấy nước
của cống khi làm việc.
- Trường hợp không bố trí hệ thống van
ngầm phía trước cửa lấy nước: Kết quả mô
phỏng biến đổi lòng dẫn cho thấy, địa hình khu
vực cửa vào bị bồi lắng khá lớn. Khu vực bồi
lắng nằm chặn ngay cửa vào kênh dẫn thượng
lưu, gây cản trở quá trình lấy nước của cống khi
vận hành làm việc.
- Qua kết quả mô phỏng trên mô hình toán có
thể khẳng định được hiệu quả giảm thiểu bồi
lắng do hệ thống van ngầm đem lại là hết sức rõ
ràng đối với cống Cẩm Đình. Cũng qua kết quả
mô phỏng trên mô hình toán cho thấy: mô hình
có khả năng mô phỏng và phản ánh đúng thực
trạng biến đổi lòng dẫn khi khai báo hệ thống
van ngầm làm việc vào trong mô hình tính
toán. Tuy nhiên, mô hình vẫn chưa đủ khả
năng để mô phỏng và tạo ra được rãnh xói
xung quanh hệ thống van ngầm giống như
trong các mô hình thí nghiệm vật lý tạo ra mà
chỉ có khả năng tạo ra một khu vực xói xunh
quanh hệ thống van ngầm.
5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Trong nghiên cứu này, tác giả đã nêu tóm tắt
về công nghệ kiểm soát bùn cát tại các cửa lấy
nước sử dụng hệ thống van ngầm (submerged
vanes). Bộ thông số thiết kế cho hệ thống van
ngầm và phạm vi giá trị đề xuất của từng thông
số thiết kế cũng đã được đưa ra. Tác giả đã áp
dụng các lý thuyết tính toán để tính toán hệ
thống van ngầm kiểm soát bùn cát cho khu vực
cống lấy nước Cẩm Đình. Qua kết quả tính toán
cho thấy hiệu quả giảm thiểu bồi lắng do hệ
thống van ngầm đem lại là hết sức rõ ràng.
Trong điều kiện cho phép, việc áp dụng giải
pháp van ngầm kiểm soát bùn cát giảm thiểu bồi
lắng cho các cửa lấy nước cụ thể nên tiến hành
kiểm đánh giá hiệu quả của giải pháp trên mô
hình vật lý trước khi triển khai xây dựng ngoài
thực tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Odgaard A J and Kennedy J F (1983), River bend bank protection by submerged vanes. J. Hydraulic
Eng. ASCE 109(8): 1161–1173.
A. Jacob Odgaard, Ph.D., P.E. (2009), River Training and Sediment Management with Submerged
Vanes, ASCE PressISBN (print): 978-0-7844-0981-7ISBN (PDF): 978-0-7844-7236-1.
KHOA HỌC KỸ THUẬT THỦY LỢI VÀ MÔI TRƯỜNG - SỐ 61 (6/2018) 127
Fahmy, S. Abdel-Haleem, Helal, Y. Esam, Ibrahim, S. A., and Sobeih, M. F. (2008), Minimizing the
diverted sediment at lateral intakes using submerged vanes.
Odgaard A J and Spoljaric A (1986), Sediment control by submerged vanes. J. Hydraulic Eng.
ASCE 112(12): 1164–1181.
S. Emamgholizadeh and H. Torabi, Shahrood University (2008), Experimental Investigation of the
Effects of Submerged Vanes for Sediment Diversion in the Veis (Ahwaz) Pump Station, Journal of
Applied Sciences 8: 2396-2403, ISSN 1812-5654.
Fahmy, S. Abdel-Haleem, Helal, Y. Esam, Ibrahim, S. A., and Sobeih, M. F. (2008), Minimizing the
diverted sediment at lateral intakes using submerged vanes, Engineering Research Journal, Vol.
31, No. 4 October 2008, PP 401-405.
Abstract:
SOLUTIONS OF USING SUBMERED VANES FOR LIMITING SEDIMENT
DEPOSITION AT ENTRANCES OF LATERAL WATER INTAKES IN THE RED RIVER
One of the major problems of water intakes is the movement and deposition of sediment at
entrances of intakes. Due to reducing the ability getting water of intakes, this issue directly affects
agricultural production and cost a lot to dredge annual. Therefore, it is very urgent to study and
propose solutions to prevent sediment deposition at entrances of intakes, especially of which in the
Red River where water sources have high concentrations of sediment.
In this paper, the authors present a solution using submerged vanes to control and minimize
sediment deposition at entrances of water intakes, applied for Cam Dinh water intake. The
authors also used a mathematical model to simulate the working process of submerged vanes and
to assess the effect of preventing sediment deposition, compared with the case of not using the
submerged vanes.
Keywords: Submerged vanes, water intakes, entrances of intakes, sediment deposition.
Ngày nhận bài: 27/5/2018
Ngày chấp nhận đăng: 21/6/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36480_117953_1_pb_98_2070352.pdf