Đồng bằng sông Hồng là một vùng nằm quanh khu vực hạ lưu sông Hồng, với
điều kiện tự nhiên và xã hội phù hợp cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản.
Trong quá trình xây dựng nông thôn mới, vùng ĐBSH đã có nhiều xã đạt tiêu chuẩn
NTM, hệ thống điện cung cấp phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất khá đầy đủ, chất
lượng hệ thống giao thông phục vụ giao thương được nâng cấp, cơ sở hạ tầng thông tin
truyền thông được tăng cường, hệ thống kênh mương phục vụ tưới tiêu trong quá trình
sản xuất sản phẩm hàng hóa được bổ sung và hoàn thiện.
Bên cạnh đó, hệ thống tín dụng, ngân hàng từng bước được mở rộng mạng lưới
hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ sản xuất, chế biến tiếp cận tín dụng. Hệ
thống chợ phục vụ giao lưu hàng hóa được nâng cấp, đổi mới; các dịch vụ hỗ trợ ngày
càng đa dạng và kinh tế chuyển dịch theo chiều hướng tích cực hơn.
Trong liên kết chuỗi giá trị sản phẩm nông, lâm thủy sản ở khu vực ĐBSH các
tác nhân chính bao gồm người sản xuất là các hộ, các cơ sở và hợp tác xã; người thu
gom, chế biến và phân phối chủ yếu là các hộ, cơ sở chế biến, tổ hợp tác, hợp tác xã và
doanh nghiệp. Điểm nổi bật trong vùng là các hộ liên kết trong xây dựng cánh đồng
mẫu lớn, phục vụ chuyên môn hóa sâu trong sản xuất sản phẩm hàng hóa. Mối liên kết
được thực hiện bằng hai hình thức là ký kết hợp đồng cung cấp nguyên liệu, đầu vào
và bao tiêu sản phẩm đầu ra; và hợp đồng miệng. Số lượng các hộ, cơ sở và doanh
nghiệp chế biến sản phẩm nông, lâm, thủy sản tăng nhanh theo thời gian.
Hiệu quả của liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp trong xây dựng NTM ở khu vực
ĐBSH được thể hiện qua việc cơ cấu lại hình thức tổ chức theo hướng đa dạng hóa,
liên kết theo chuỗi giá trị, cơ cấu lại quy mô sản xuất theo hướng tăng cường quy mô
hàng hóa, ruộng đất được tích tụ thông qua khâu đột phá là dồn điền đổi thửa và xây
dựng được nhiều cánh đồng mẫu lớn để phục vụ sản xuất hàng hóa chuyên canh theo
chuỗi giá trị, tạo điều kiện cơ giới hóa và ứng dụng khoa học công nghệ thuận lợi hơn,
nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị của sản phẩm. Chuyên đề cũng giới thiệu 3
mô hình liên kết chuỗi giá trị thành công trên địa bàn đó là mô hình liên kết chuỗi giá
trị sữa bò tươi tại huyện Lý Nhân, mô hình liên kết sản xuất gạo sạch tại huyện Ý Yên,
tỉnh Hà Nam và mô hình liên kết chuỗi giá trị thịt lợn tại huyện Chương Mỹ, Hà Nội.
Từ thực trạng, chuyên đề chỉ ra một số hạn chế và nguyên nhân cản trở việc nâng cao
hiệu quả liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp trên địa bàn khu vực ĐBSH đó là sản xuất
nhỏ vẫn phổ biến, sản xuất hàng hóa chưa được chuyên môn hóa cao; vai trò của HTX
trong tăng cường và thúc liên kết chuỗi chưa thực sự hiệu quả ở nhiều nơi, việc ứng234
dụng khoa học công nghệ và cơ giới hóa vẫn còn hạn chế dẫn đến hiệu quả sản xuất
nói chung còn chưa cao.
Để thúc đẩy hiệu quả liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp, rất cần sự vào cuộc và nỗ
lực của nhiều bên liên quan đến chuỗi. Chuyên đề đã đề xuất bốn nhóm giải pháp, bắt
đầu từ xuất phát điểm của chuỗi đó là giải pháp từ phía chính những người sản xuất,
cho đến các tác nhân tham gia trong chuỗi như những cơ sở thu gom, chế biến, từ các
doanh nghiệp, các hợp tác xã và ngay cả các tác nhân có tác động đến chuỗi như các tổ
chức hỗ trợ kỹ thuật, chính quyền địa phương và trung ương.
33 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp thöc đẩy hiệu quả liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp trong xây dựng nông thôn mới ở đồng bằng sông Hồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n xuất nông nghiệp, và
chiếm 60,49% tổng diện tích dồn điền đổi thửa của toàn quốc.
Bảng 40 : Số xã và diện tích dồn điền đổi thửa
Xã thực hiện dồn
điền đổi thửa
Diện tích thực hiện dồn điền đổi
thửa
Tổng số
xã (xã)
Tỷ lệ
(%)
Tổng diện
tích thực
hiện
Tỷ lệ so với diện tích
đất sản xuất nông
nghiệp (%)
Cả nước 2.294 25,6 693.468,2 6,02
Đồng bằng sông Hồng 1.314 69,1 419.468,2 52,5
Nguồn: GSO, 2018
Những địa phương triển khai và thực hiện tốt việc dồn điền, đổi thửa đất sản
xuất nông nghiệp là: Thái Bình có 262 xã thực hiện, chiếm 98,1% số xã với diện tích
dồn điền, đổi thửa 84,2 nghìn ha, chiếm 89,8% diện tích đất nông nghiệp của tỉnh. Các
chỉ tiêu về dồn điền, đổi thửa tương ứng của Nam Định lần lượt là 184 xã, chiếm
94,9% và 76,7 nghìn ha, chiếm 83,9%; Hà Nam 90 xã, chiếm 91,8% và 34,9 nghìn ha,
chiếm 81,9%; Ninh Bình 102 xã, chiếm 84,3% và 38,6 nghìn ha, chiếm 62,7%; Hải
Dương 176 xã, chiếm 77,5% và 48,0 nghìn ha, chiếm 55,6%; Hà Nội 292 xã, chiếm
75,7% và 79,3 nghìn ha, chiếm 50,5%; Hưng Yên 97 xã, chiếm 66,9% và 29,7 nghìn
ha, chiếm 54,8%.
Nhờ dồn điền đổi thửa, diện tích bình quân một thửa đất sản xuất nông nghiệp
của toàn vùng đã tăng 115,4 m2 từ 489 m2 năm 2011 lên 604,4 m2 năm 2016. Diện
tích bình quân một thửa đất sản xuất nông nghiệp năm 2016 so với năm 2011 của một
số địa phương đã tăng lên đáng kể: Hà Nội tăng 44,4%; Hưng Yên tăng 35,9%; Ninh
Bình tăng 31,0%; Thái Bình tăng 23,7%.
218
Bảng 41 : Số thửa và diện tích bình quân một thửa đất sản xuất nông nghiệp
Đơn vị
tính
2011 2016 Năm 2016 so với 2011
Số lượng Tỷ lệ (%)
Số thửa đất sản xuất nông
nghiệp bình quân một hộ
thửa 3,4 2,6 -0,8 76,47
Diện tích bình quân một thửa
đất sản xuất nông nghiệp
m
2
489 604,4 115,4 123,6
Số thửa đất trồng lúa bình quân
một hộ
thửa 3,6 2,6 -1,0 72,1
Diện tích bình quân một thửa
đất trồng lúa
m
2
496,3 647,6 151,3 130,48
Nguồn: GSO, 2018
Diện tích bình quân một thửa tăng nên số thửa bình quân một hộ có sử dụng đất
sản xuất nông nghiệp đã giảm xuống. Đất sản xuất nông nghiệp bớt nhỏ lẻ, manh mún.
Kết quả là, số thửa đất sản xuất nông nghiệp bình quân một hộ của toàn vùng đã giảm
0,8 thửa/hộ từ 3,4 thửa năm 2011 xuống còn 2,6 thửa năm 2016.
Số thửa bình quân một hộ sử dụng đất sản xuất nông nghiệp giảm ở hầu hết các
địa phương trong cả vùng. Năm 2016, Hà Nội có số thửa bình quân một hộ sử dụng
đất sản xuất nông nghiệp là 2,6 thửa, giảm 1,5 thửa so với năm 2011; Hải Dương 2,1
thửa, giảm 1,0 thửa; Bắc Giang 3,5 thửa, giảm 0,7 thửa.
Dồn điền, đổi thửa được tiến hành mạnh mẽ đối với đất trồng lúa nên diện tích
bình quân một thửa đất trồng lúa tăng lên. Diện tích bình quân một thửa tăng nên số
thửa đất trồng lúa bình quân một hộ giảm giảm 1,0 thửa/hộ, từ 3,6 thửa/hộ năm 2011
xuống còn 2,6 thửa/hộ năm 2016.
Mô hình cánh đồng lớn xuất hiện và ngày càng được nhân rộng ở nhiều địa
phương. Tính đến 01/7/2016, cả nước đã xây dựng được 2.262 cánh đồng lớn. Trong
đó, 1.661 cánh đồng lúa; 162 cánh đồng rau; 95 cánh đồng mía; 50 cánh đồng ngô; 38
cánh đồng chè búp và 256 cánh đồng lớn trồng các loại cây khác. Trong đó, Đồng
bằng sông Hồng với 705 cánh đồng, chiếm 31,2% tổng số cánh đồng lớn của cả nước.
Tổng diện tích gieo trồng trong 12 tháng trước thời điểm 01/7/2016 của tất cả cánh
đồng lớn trong vùng Đồng bằng sông Hồng 67,9 nghìn ha, chiếm 11,7%.
Đồng bằng sông Hồng có 125 cánh đồng lớn trồng rau, chiếm 17,7% tổng số
cánh đồng lớn của vùng và chiếm 77,2% tổng số cánh đồng lớn trồng rau của cả nước.
Tại thời điểm 01/7/2016, những địa phương đạt được kết quả nổi bật về xây dựng
cánh đồng lớn là: Nam Định 188 cánh đồng với diện tích gieo trồng 15,1 nghìn ha.
Thái Bình 142 cánh đồng lớn với diện tích gieo trồng 11,3 nghìn ha. Hà Nội 141 cánh
đồng lớn với diện tích gieo trồng 25,4 nghìn ha.
219
Bảng 42 : Một số chỉ tiêu về cánh đồng lớn
Số cánh đồng
(Cánh đồng)
Diện tích gieo trồng
(ha)
Đồng bằng sông Hồng 705 67.556
Trồng lúa 487 44.038
Trồng ngô 19 1.143
Trồng mía 1 110
Trồng rau 125 15.992
Trồng chè búp 18 3.563
Cây trồng khác 5 142
Nguồn: GSO, 2018
4.4 . Ứng dụng khoa học công nghệ trong liên kết theo chuỗi giá trị có bước
phát triển mới
Những năm vừa qua, ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông, lâm
nghiệp và thủy sản đã được nhiều địa phương triển khai tích cực với những hoạt động
thiết thực, hiệu quả, trong đó có việc áp dụng Quy trình thực hành sản xuất nông
nghiệp tốt (VietGAP); sử dụng nhà lưới, nhà kính trong trồng trọt và việc xác lập liên
kết sản xuất theo chuỗi giá trị nông, lâm, thủy sản.
Bảng 43 : Số đơn vị được cấp chứng nhận VietGAP và tương đương
Tổng số
(đơn vị)
Chia ra
Hộ cá thể Nhóm liên kết Hợp tác xã DN Khác
Cả nước 1.495 540 551 199 200 5
Đồng bằng sông
Hồng
124 14 32 50 24 4
Nguồn: GSO, 2018
Tại thời điểm 01/7/2016, vùng ĐBSH có 124 đơn vị được cấp chứng nhận
VietG P và tương ương, trong đó số HTX được cấp chứng nhận VietG P và tương
đương lớn nhất là 50 hợp tác xã, chiếm 40%; tiếp đến nhóm liên kết đạt 32 chứng
nhận, chiếm 25,8%. Có 14 đơn vị là hộ cá thể, chiếm 11,3% tổng số đơn vị được cấp
chứng nhận; 24 doanh nghiệp, chiếm 19,4% và 4 đơn vị thuộc loại hình khác, chiếm
3%.
Tuy số lượng đơn vị được cấp chứng nhận VietG P và tương đương của vùng
ĐBSH chiếm tỷ trọng nhỏ so với cả nước, chỉ đạt 8,3% về số đơn vị, nhưng mức độ
liên kết giữa các đơn vị này với các hộ trong hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp và
thủy sản lại đạt mức 10287 hộ so với 25.279 hộ của toàn quốc, chiếm tỷ trọng cao nhất
220
cả nước là 40,7%. Trong đó, có 112 đơn vị trong lĩnh vực trồng trọt, chiếm 90,3% tổng
số đơn vị được cấp chứng nhận của vùng; chăn nuôi 11 đơn vị, chiếm 8,9%; thủy sản 1
đơn vị, chiếm 0,8%. Hà Nội là một trong những địa phương có nhiều đơn vị được cấp
chứng nhận nhất cả nước.
Bảng 44 : Số đơn vị được cấp chứng nhận, số hộ tham gia VietGAP và tương đương
Tổng số
(đơn vị)
Trong đó
Số hộ tham
gia (hộ) Trồng trọt Chăn nuôi Thủy sản
Cả nước 1.495 1.200 101 194 25.279
Đồng bằng
sông Hồng
124 112 11 1 10.287
Nguồn: GSO, 2018
4.5 Cơ giới háa sản xuất được đẩy mạnh, thúc đẩy quá trình liên kết chuỗi
Cùng với việc tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, trong những năm vừa
qua, sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản còn đẩy mạnh cơ giới hóa sản xuất, góp
phần quan trọng thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị nông, lâm nghiệp và thủy sản. Khắp nơi
trong vùng, máy móc, thiết bị được sử dụng tương đối đa dạng với số lượng tăng đáng
kể. Nhiều loại máy móc, thiết bị chuyên dụng được đầu tư mua sắm thay thế sức người
và góp phần tăng năng suất lao động như máy kéo, máy gieo sạ, máy gặt đập liên hợp,
máy gặt cầm tay, máy gặt xếp hàng và máy gặt khác, máy tuốt lúa có động cơ, máy
sấy sản phẩm nông, lâm, thủy sản, máy chế biến lương thực, máy chế biến thức ăn gia
súc, máy chế biến thức ăn thủy sản, máy sục khí ao hồ nuôi trồng thủy sản, máy đảo
nước nuôi trồng thủy sản, máy bơm nước, máy vắt sữa; máy ấp trứng gia cầm, tàu
thuyền vận tải có động cơ.
Bên cạnh đó, các công cụ, dụng cụ lao động và hỗ trợ cơ khí hóa cũng được
quan tâm và đầu tư mua sắm như bình phun thuốc trừ sâu có động cơ, v.v.
5. MỘT SỐ MÔ HÌNH THÀNH CÔNG TRONG LIÊN KẾT CHUỖI GIÁ TRỊ
NÔNG NGHIỆP TRONG XÂY DỰNG NTM Ở ĐBSH TRONG THỜI GIAN QUA
5.1 .Mô hình liên kết chuỗi giá trị sữa bò tươi tại huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam
-Điều kiện tự nhiên
Lý Nhân là một huyện thuộc tỉnh Hà Nam, được phù sa bồi đắp bởi sông Hồng và
sông Châu Giang nên đất nơi đây rất màu mỡ, cây cối tốt tươi. Đặc biệt huyện cũng nằm
gần nhà máy sữa Dutch Lady Việt Nam đây là điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản
phẩm sữa trên địa bàn, mà sản phẩm chính là sữa bò của ngành chăn nuôi bò sữa.
Chăn nuôi bò sữa được phát triển và đưa vào huyện hơn 10 năm theo quy hoạch của
tỉnh, song trong những năm đầu thì chăn nuôi bò sữa chỉ phát triển theo hình thức tự phát,
chưa có sự chỉ đạo hướng dẫn của cán bộ khuyến nông và lãnh đạo tỉnh, cho đến những
năm gần đây mới có dự án thúc đẩy chăn nuôi bò sữa trở thành phong trào mạnh.
-Vị trí địa lý
Huyện Lý Nhân nằm ở phía đông của tỉnh Hà Nam ở hữu ngạn sông Hồng, gồm có 22
xã và 1 thị trấn với diện tích đất tự nhiên là 167,8 km². Ranh giới địa bàn huyện có vị trí:
221
Phía Bắc giáp thành phố Hưng Yên, phía Đông Bắc giáp với huyện Tiên Lữ
thuộc tỉnh Hưng Yên có ranh giới tự nhiên là sông Hồng.
Phía Tây và Tây Bắc giáp với huyện Duy Tiên, có sông Châu Giang làm ranh giới.
Phía Tây Nam tiếp giáp với huyện Bình Lục và phía Nam giáp với huyện Mỹ
Lộc tỉnh Nam Định.
Phía Đông đối diện với các huyện Vũ Thư và Hưng Hà thuộc tỉnh Thái Bình
nằm bên tả ngạn sông Hồng.
Kinh tế chủ yếu của toàn huyện là chăn nuôi và sản xuất nông nghiệp. Với điều
kiện giao thông thuận tiện đã tạo nên thuận lợi cho phát triển kinh tế của toàn huyện.
Địa hình, khí hậu, thủy văn
Địa hình của huyện tương đối bằng phẳng, chủ yếu là đất phù sa của sông Hồng
và sông Châu Giang bồi đắp, đất có thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến trung bình,
thích hợp với nhiều loại cây trồng.
Khí hậu: Lý Nhân có khí hậu đặc trưng của miền Bắc mà tiêu biểu là vùng
đồng bằng sông Hồng với kiểu khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa. Trong năm có 4 mùa rõ
rệt: Mùa hạ khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, thuộc tiểu vùng khí hậu đồng bằng Bắc Bộ,
chịu ảnh hưởng của hướng gió chủ yếu là gió Đông Nam về mùa hè, hướng gió Đông
Bắc vào mùa Đông. Mùa Xuân và mùa thu là mùa chuyển tiếp của hai mùa khí hậu
đông và hạ, thời tiết mát mẻ se lạnh, có mưa phùn vào mùa xuân và hanh khô vào mùa
thu. Nhiệt độ trung bình năm là 23,5ºC – 24ºC. Tháng nóng nhất vào tháng 7, nhiệt độ
trung bình là 31ºC, nhiệt độ cao nhất là 36ºC – 38ºC, về mùa Đông nhiệt độ trung bình
là 19ºC. Tháng lạnh nhất vào cuối tháng 1, nhiệt độ lạnh nhất là 6ºC – 8ºC. Huyện Lý
Nhân chia thành 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô với 2 hướng gió chính là gió
Đông Nam thổi vào mùa hè và Đông Bắc thổi vào mùa Đông thuận lợi cho việc phát
triển cây trồng vật nuôi.
Thủy văn: Huyện Lý Nhân nằm trong khu vực của hệ thống sông Hồng và
sông Châu Giang với tổng chiều dài gần 78 km, với diện tích lưu vực khoảng 1.084 ha.
Đây là mạng lưới sông quan trọng cung cấp nguồn nước và tiêu nước phục vụ cho
ngành sản xuất và sinh hoạt của người dân trong huyện. Ngoài ra còn có sông Long
Xuyên, kênh Như Trác là các kênh tiêu chính đóng vai trò quan trọng cho việc tiêu
nước của các xã vùng trũng trong huyện.
-Tình hình phát triển chăn nuôi bò sữa của huyện
Nghề chăn nuôi bò sữa ở huyện Lý Nhân được bắt đầu vào những năm 2007-
2008. Song vì đây là ngành chăn nuôi hoàn toàn mới trong khi chi phí đầu vào khá cao
cho nên quy mô chăn nuôi của các hộ còn nhỏ lẻ, chưa chú trọng đến chăn nuôi thâm
canh để chăn nuôi bò sữa có năng suất và sản lượng cao. Các hộ cũng đã đầu tư chăn
nuôi con giống ngoại nhập nhưng do thiếu kinh nghiệm, chăm sóc không đúng kỹ
thuật, nuôi theo kinh nghiệm nuôi bò thịt cho nên năng suất còn thấp, hiệu quả kinh tế
mang lại chưa cao. Hiện nay nhu cầu về sữa ngày càng tăng ở nội vùng, trao đổi hàng
hóa giao thông thuận tiện. Đồng thời huyện Lý Nhân lại nằm gần nhà máy sữa lớn là
Dutch lady, còn nằm trong vùng quy hoạch nuôi bò sữa của tỉnh đã tạo thuận lợi cho
huyện phát triển nghề chăn nuôi bò sữa và mở ra một hướng đi mới cho kinh tế của
huyện. Với mục tiêu mở rộng quy mô chăn nuôi, huyện đã thực hiện quy hoạch khu
chăn nuôi bò sữa tập trung; mở rộng diện tích trồng cỏ từ đất chưa sử dụng và đất
222
trồng lúa kém hiệu quả; khuyến khích chuyển đổi một số chăn nuôi hiệu quả kinh tế
thấp sang chăn nuôi bò sữa.
Trong những năm qua có nhiều khó khăn, thử thách do giá cả thị trường không
ổn định nhưng nghề chăn nuôi bò sữa vẫn tồn tại và đã và đang mang lại thu nhập cao,
ổn định. Tuy nhiên hiện nay một số hộ đã bỏ nuôi do chi phí đắt đỏ, sản lượng sữa
thấp, hiệu quả kinh tế không cao. Tình hình biến động số lượng và sản lượng chăn
nuôi bò sữa qua 3 năm của huyện được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 45 : Số lượng và sản lượng chăn nuôi bò sữa của huyện Lý Nhân
Chỉ tiêu ĐVT 2014 2015 2016
So sánh
2015/2014 2016/2015
Bình
quân
Số lượng bò Con 212 424 567 200 133,73 166,87
Sản lượng sữa/
ngày
tấn/ngày 2,2 2,3 2,5 104,54 108,69 106,62
(Nguồn: Báo cáo kết quả phát triển chăn nuôi bò sữa huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam năm 2016)
Số lượng bò và sản lượng sữa/ngày của huyện tăng qua 3 năm: Năm 2014 số
lượng bò là 212 con, năm 2015 tăng lên 212 con với mức tăng 100%. Năm 2016 số
lượng bò là 567 con, hơn 143 con so với năm 2015, mức tăng là 33,73%. Bên cạnh đó
thì sản lượng sữa/ngày cũng tăng lên một cách đáng kể. Năm 2014 sản lượng sữa trên
ngày là 2,2 tấn/ngày, năm 2015 là 2,3 tấn/ngày; như vậy năm 2015 cao hơn năm 2014
là 0,1 tấn/ngày với 4,54%. Năm 2016 cũng tăng so với năm 2015 là 0,2 tấn/ngày với
mức tăng là 8,69%.
Chuỗi sữa tại Lý Nhân, Hà Nam bao gồm các chức năng cơ bản là cung cấp đầu
vào, sản xuất sữa, thu gom, chế biến và phân phối sữa đến tay người tiêu dùng. Các
chức năng này được thực hiện bởi các tác nhân chính: các nhà phân phối, người chăn
nuôi bò sữa, người thu mua sữa, nhà máy sữa và các nhà phân phối sữa. Các tác nhân
trong chuỗi nằm trong vòng tròn bắt đầu từ người cung ứng đầu vào đến đại lý/siêu
thị/showroom và người bán lẻ là những người trực tiếp tạo ra giá trị và hưởng lợi từ
chuỗi. Tại địa điểm nghiên cứu, mỗi tác nhân có một vai trò cụ thể trong chuỗi và họ
liên kết với nhau khá tốt để thành một chuỗi hoàn chỉnh. Những người hỗ trợ cho sự
phát triển của chuỗi là các tổ chức, dự án phát triển, các dịch vụ thú y, khung pháp lý
của Nhà nước... tạo điều kiện và thúc đẩy chuỗi phát triển.
Có nhiều nhà cung cấp cung cấp đầu vào cho sản xuất sữa như: nhà cung cấp
thức ăn tinh, nhà cung cấp giống, nhà cung cấp máy móc thiết bị vv, tại địa điểm
nghiên cứu. Không có nhà cung cấp chủ đạo về các yếu tố đầu vào (giống bò, thức ăn
chăn nuôi, protein, vv) cho người chăn nuôi bò sữa trong khu vực. Kết quả này hoàn
toàn khác so với nghiên cứu trước đây của chúng tôi ở tỉnh Sơn La (Bùi Thị Nga, Trần
Hữu Cường và Philippe Lebailly, 2011).
Tính đến cuối tháng 2 năm 2017 khi chúng tôi bắt đầu tiến hành điều tra thử thì
chỉ có 19 hộ chăn nuôi bò sữa ở huyện Lý Nhân. Họ được coi là những nhân tố chính
trong chuỗi. Họ đóng vai trò quan trọng nhất trong chuỗi sữa. Tất cả các tác nhân
khác phụ thuộc vào hoạt động của họ. Người thu gom là người thu mua sữa từ hộ nông
223
dân chăn nuôi bò sữa, làm mát, bảo quản và giao cho nhà chế biến sữa, nhà phân phối
sữa hoặc khách hàng. Chỉ có một nhà thu gom sữa ở khu vực này (gọi là trạm/trung
tâm thu mua) của hộ ông Thắng. Hộ thu gom sữa làm việc độc lập mà không có quyền
lực với các thành viên khác trong chuỗi.
Tại huyện Lý Nhân, sữa sau khi được tập trung tại nhà thu gom thì được một đơn
vị duy nhất là công ty trách nhiệm hữu hạn Friesland Campina (thuộc hãng sữa Cô Gái
Hà Lan) thu mua và chế biến chủ yếu dưới dạng sữa tươi. Có khá nhiều nhà phân phối
các sản phẩm sữa nói chung, bao gồm cả sữa của nhà máy sữa Friesland campina trên
địa bàn nghiên cứu. Họ thực hiện chức năng trung gian là đưa sản phẩm từ nhà máy
sữa đến tay người tiêu dùng cuối cùng.
Kênh phân phối sữa
Theo kết quả nghiên cứu, phần lớn sữa sản xuất ra tại các hộ gia đình được
chuyển đến trạm thu mua sữa (98%). Tại đây, sữa được chuyển đến nhà máy sữa để
chế biến và đóng gói, sau đó được vận chuyển đến các cửa hàng đại lý, cửa hàng giới
thiệu sản phẩm, siêu thị. Phần lớn số sữa này sẽ được chuyển qua các đại lý cấp dưới
và người bán lẻ trước khi đến tay người tiêu dùng. Phần còn lại được chuyển trực tiếp
đến tay người tiêu dùng. Đây là kênh chính thống của nhà máy sữa.
Hình 30 : Kênh phân phối và chức năng của các tác nhân trong chuỗi sữa
Nguồn: Kết quả phỏng vấn và Thảo luận nhóm, năm 2017
Kết quả thực hiện phát triển đàn bò sữa năm 2016 của toàn tỉnh Hà Nam
Kế hoạch phát triển đàn bò của tỉnh trong năm 2016 là 5.000 con, cụ thể: Của dân là
2.630 con, trong đó: Huyện Duy Tiên 1.690 con, Lý Nhân 550 con, Kim Bảng 320 con, Thanh
Liêm 70 con; đàn bò tại các Công ty là 2.370 con.
Tính đến ngày 20/12/2016 toàn tỉnh có 194 trang trại chăn nuôi 2.470 con bò và
bê (đạt 49,4% kế hoạch), cụ thể: Của dân là 2.233 con (đạt 85% KH); của doanh
nghiệp 237 con (đạt 10%); Sản lượng sữa hiện tại là 20 tấn/ngày (bán cho 02 nhà máy
18 tấn/ngày, tiêu thụ ngoài 2 tấn/ngày); Tổng lượng sữa năm 2016 đạt 6.434 tấn
Sữa bò từ các hộ, trang trại
Ngƣời tiêu
dùng
Ngƣời phân phối/bán lẻ
Nhà máy sữa
Chế biến và đóng gói
Điểm thu gom
Ngƣời bán lẻ, cửa
hàng sữa
Sử dụng tại gia
đinh
Ngƣời bán sỉ, showroom,
siêu thị
224
sữa/năm, giá trị kinh tế đạt 86 tỷ đồng/năm; Trong đó: huyện Duy Tiên có 109 hộ nuôi
1.406 con (đạt 83,2% KH), sản lượng sữa (SLS) bán cho nhà máy 11,8 tấn/ngày; huyện
Lý Nhân 23 hộ nuôi 567 con (đạt 103,1% KH), SLS bán 2,5 tấn/ngày; huyện Kim Bảng
57 hộ nuôi 240 con (đạt 75% KH), SLS bán 02 tấn/ngày; huyện Thanh Liêm 01 hộ nuôi
08 con (đạt 11,4% KH); Các công ty nuôi 237 con (đạt 10% KH): (Cty Cp phát triển bò
sữa nuôi 88 con; 02 trại của Công ty Friesland Campina nuôi 149 con,SLS 1,7
tấn/ngày). Số bò mua mới là 180 con (đạt 6,7% KH); số bê cái sinh ra 387 con (đạt
78%); bê đực sinh ra 562 con; số bò và bê loại thải là 168 con (loại thải 6,8 %).
Kết quả xây dựng hạ tầng khu chăn nuôi bò sữa.
Hiện nay tỉnh có 9/15 khu quy hoạch đang xây dựng cơ sở hạ tầng, đường giao
thông, đường điện, nước sạch (đạt 60%), cụ thể: 02 khu chăn nuôi bò sữa tập trung đã
đầu tư hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng giao thông, điện, nước (xã Nhân Bình và khu 1 xã
Mộc Bắc); 07 khu chăn nuôi tập trung đã đầu tư một phần cơ sở hạ tầng (gồm khu 2 và
khu 3 xã Mộc Bắc, xã Chuyên Ngoại, Trác Văn, Nguyên Lý, Liêm Túc, Tượng Lĩnh)
còn lại 06 khu chưa được xây dựng (gồm xã Chân Lý, Nhân Đạo, Hòa Hậu, Xuân
Khê, Khả Phong, Thanh Nghị).
Kết quả quy hoạch đất trồng cây thức ăn cho bò
Toàn tỉnh có 03 xã tại 2 huyện Duy Tiên, Thanh Liêm đã chuyển đổi và quy
hoạch được 76,8 ha đất để trồng cây thức ăn cho bò, cụ thể: Xã Mộc Bắc quy hoạch 03
vị trí với tổng diện tích 64,7 ha; đã có 29,7 ha đang trồng cỏ, ngô cho bò; xã Liêm Túc
quy hoạch 8,11ha và đang trồng cỏ, ngô là 6,2 ha; xã Trác Văn 04 ha;
Do các địa phương chưa bố trí quy hoạch, chuyển đổi diện tích đất trồng cỏ
phục vụ phát triển bò sữa, vì vậy các hộ chăn nuôi phải tự chủ động thuê hoặc mua đất
cho trồng cỏ, đồng thời mua cây ngô của các hộ khác để dự trữ ủ chua cung cấp thức
ăn thô xanh ổn định cho bò vào mùa đông, do vậy dẫn đến việc các hộ đang chăn nuôi
tại các khu chăn nuôi bò sữa tập trung khó phát triển tăng quy mô đàn.
Vốn đầu tư phát triển bò sữa
Các hộ chăn nuôi của tỉnh chủ động huy động nguồn vốn tự có của gia đình và
vay Ngân hàng Nông nghiệp để xây dựng hạ tầng, chuồng trại và mua bò giống. Tính
đến ngày 30/10/2016 Ngân hàng NN& PTNT chi nhánh Hà Nam đã cho 111 hộ chăn
nuôi vay để mua bò với số tiền là 35,1 tỷ đồng, cụ thể: Huyện Duy Tiên có 75 hộ vay
21,38 tỷ đồng; huyện Lý Nhân có 19 hộ vay 12,933 tỷ đồng; huyện Kim Bảng có 17
hộ vay 0,815 tỷ đồng.
Công tác quản lý và nhân giống bò sữa
Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Hà Nam đã chỉ đạo mạng lưới dẫn tinh
viên cơ sở, thường xuyên kiểm tra, thực hiện phối giống giúp các hộ chăn nuôi;
đến hết tháng 11/2016 cung cấp, hỗ trợ cho người chăn nuôi bò sữa 4.540 liều
tinh, ni tơ bảo quản và vật tư kèm theo thông qua dẫn tinh viên để phối giống cho
đàn bò; kết quả số bò có chửa là 1.419 con (đạt 91,5%); trên đàn bò Úc nhập khẩu
số bò được phối giống là 175 con (cụ thể: Số bò có chửa 87 con đạt 49,7%, có 56 con
đã phối giống qua kỳ đạt 32%, có 32 con chưa có chửa đạt 18,3%).
Đào tạo tập huấn cho nông dân:
Năm 2016, tỉnh đã tổ chức 04 lớp tập huấn nâng cao kiến thức cho 200 lượt
người chăn nuôi bò sữa tại 04 huyện Duy Tiên, Lý Nhân, Kim Bảng và Thanh
225
Liêm với các nội dung: Quy trình vắt sữa; Kỹ thuật ủ chua, bảo quản và kế hoạch
phát triển đồng cỏ; phòng bệnh cho bò sữa
Công tác tiêm phòng, chống dịch cho đàn bò sữa
Để chủ động đối phó với dịch bệnh giúp người chăn nuôi yên tâm tăng đàn, Chi
cục Chăn nuôi và Thú y của tỉnh đã phân công cán bộ chuyên môn, 04 Trạm Chăn nuôi và
Thú y huyện, cán bộ Thú y cơ sở tại các xã có chăn nuôi bò sữa thường xuyên tổ chức
tiêm phòng, tư vấn, theo dõi, giám sát chặt chẽ tình hình dịch bệnh trên đàn bò. Kết chức
tiêm phòng được 2.616 liều vắc xin LMLM và 1.949 liều vắc xin Tụ huyết trùng cho
đàn bò; ngoài ra Chi cục còn hướng dẫn phác đồ điều trị, tư vấn chế độ chăm sóc nuôi
dưỡng đối và giám sát tiêm dự phòng bệnh ký sinh trùng đường máu (Theileria
orientalis subtype Ideka) của Công ty Cổ phần phát triển bò sữa Hà Nam nhập về từ
ustralia bước đầu đạt hiệu quả cao.
Kết quả tiêu thụ sữa
Trên địa bàn tỉnh có 2 công ty trực tiếp ký hợp đồng thu mua toàn bộ 100%
lượng sữa tươi cho nông dân, cụ thể: Công ty sữa Vinamink có 03 trạm thu mua tại các
xã Mộc Bắc, Chuyên Ngoại huyện Duy Tiên và thị trấn Ba Sao huyện Kim Bảng; hợp
đồng thu mua cho 135 hộ, sản lượng 10,3 tấn sữa/ngày (bằng 51,5 %); giá mua 14.000
đồng/kg; Công ty Friesland Campina Hà Nam có 02 trạm thu mua tại xã Mộc Bắc và
xã Nhân Bình, hợp đồng thu mua cho 55 hộ, sản lượng 7,7 tấn sữa/ngày (bằng 38,5 %)
giá mua 12.300 đồng/kg. Sữa sử dụng cho bê và bán ra ngoài là khoảng: 2 tấn/ngày
(bằng 10 %).
Kết quả thực hiện hỗ trợ cho nông dân năm 2016
Tỉnh đã hỗ trợ lãi suất mua bò là 127 con với số tiền 601,383 triệu đồng (huyện Lý
Nhân 06 hộ, mua 83 con, số tiền hỗ trợ 415 triệu đồng; huyện Duy Tiên 08 hộ, mua 44 con,
số tiền 186,383 triệu đồng); Hỗ trợ mua máy thái cỏ cho 40 hộ là 120 triệu đồng (huyện
Duy tiên 34 hộ/ số tiền 102 triệu đồng, huyện Lý nhân 06 hộ/ số tiền 18 triệu đồng);
Hỗ trợ lắp đặt đường ống nước sạch cho 03 khu: 2.231,649 triệu đồng (gồm Mộc Bắc,
Nguyên Lý , Liêm Túc); Hỗ trợ tiêm phòng bệnh LMLM cho 100% số bò sữa tại các kỳ
tiêm phòng; (theo Kế hoạch phòng dịch bệnh gia súc, gia cầm được phê duyệt hàng
năm); Hỗ trợ rủi ro cho 09 con bò sữa mua từ Úc: 360 triệu đồng (Nhà nước 225 triệu,
Công ty 135 triệu); Tổ chức nghiệm thu và đã hỗ trợ cho 03 trạm thu mua sữa nâng
cấp mới thiết bị bồn Cif bảo quản sữa khép kín với tổng số tiền hỗ trợ là 1.346,4 triệu
đồng (Huyện Duy Tiên 02 trạm với số tiền là 968 triệu đồng, Kim Bảng 01 trạm với số
tiền là 378,4 triệu đồng).
UBND tỉnh có QĐ số 2070/QĐ-UBND ngày 20/12/2016 quyết định hỗ trợ kinh
phí cho 45 hộ chăn nuôi trong khu quy hoạch tại 2 huyện Duy Tiên và Lý Nhân xây
dựng hầm Biogaz, với số tiền 436,74 triệu đồng (Duy Tiên 29 hộ, 276,74 triệu đồng;
Lý Nhân 16 hộ, 160 triệu đồng);
5.2 Mô hình chuỗi giá trị lợn thịt tại Chương Mỹ, Hà Nội
Chức năng của chuỗi bao gồm các khâu từ cung ứng đến phân phối thực hiện
cách hoạt động trong chuỗi. Các tác nhân trong chuỗi nằm trong vòng tròn bắt đầu từ
người cung ứng đầu vào đến đại lý/siêu thị/showroom và người bán lẻ là những người
trực tiếp tạo ra giá trị và hưởng lợi từ chuỗi. Những người hỗ trợ cho sự phát triển của
chuỗi là các tổ chức, dự án phát triển, các dịch vụ thú y Khung pháp lý của Nhà
nước tạo điều kiện cho chuỗi phát triển.
226
Kênh phân phối sản phẩm thịt lợn của chuỗi
Theo nghiên cứu, có 78,4% lượng thịt hơi xuất chuồng được tiêu thụ trong
huyện, trong đó có 62,6% lượng thịt được tiêu thụ ở dạng thịt tươi được người tiêu
dùng mua về để chế biến trong các bữa ăn hằng ngày. Có 15,8% lượng thịt được bán
cho các hộ chế biến để dùng vào chế biến giò, chả, ruốc, thịt muối chủ yếu là các phần
thịt ngon như thịt mông, thịt thăn có giá trị dinh dưỡng cao. Lượng thịt còn lại được
tiêu thụ tại các thị trường ngoài huyện. Tỉ lệ này khá thấp đối với một huyện gần các
trung tâm thương mại lớn như Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây.
Hình 31 : Kênh phân phối và chức năng của các tác nhân trong chuỗi thịt lợn
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu điều tra
Điều kiện kinh doanh và mối quan hệ của các tác nhân là cơ chế để hình thành
giá. Qua nghiên cứu chuỗi giá trị lợn thịt, chúng tôi lựa chọn 4 kênh cung ứng chính
trong toàn bộ chuỗi giá trị ngành hàng. Mục tiêu phân tích theo kênh là giúp nhìn nhận
chính xác hơn sự phân chia lợi nhuận giữa các tác nhân trong chuỗi.
Giá bán lợn hơi của người chăn nuôi trong các kênh có sự khác nhau. Sản phẩm
trong kênh 1 chủ yếu là lợn lai, nuôi trong các hộ gia đình, qui mô chăn nuôi nhỏ, chất
lượng lợn không cao và đồng đều bằng lợn nuôi trong trại nên giá lợn hơi trong kênh 1
thấp hơn hai kênh còn lại. Các trang trại nuôi qui mô lớn, đầu tư chuồng trại hiện đại
có khả năng nuôi lợn ngoại, chất lượng lợn cao và đồng đều, số lượng lớn, có mối làm
ăn lâu dài với những người mua buôn hoặc người thu gom, nên có thể bán được giá
cao hơn người nuôi nhỏ lẻ.
Trong phạm vi không gian nhỏ thì giá bán lẻ thịt lợn cũng là giá chung cho cả
nhóm người bán lẻ. Do vậy, mua thịt của người chuyên bán lẻ hay người giết mổ tham
gia bán lẻ thì giá người tiêu dùng phải trả là như nhau.
Hộ chăn
nuôi lợn
thịt
(100%)
Hộ thu gom
Hộ giết
mổ, lò mổ
ngoài
huyện
Hộ giết mổ,
bán buôn
Người
tiêu dùng
trong
huyện
Hộ
bán lẻ
Hộ
chế biến
Người
tiêu dùng
ngoài
huyện
Hộ
bán lẻ,
siêu thị
80,5% 80,5%
16,9%
63,6%
16,9%
19,5%
227
Kênh tiêu thụ 1:
Kênh tiêu thụ 2:
Kênh tiêu thụ 3:
Hình 32 : Phân phối trên chuỗi giá trị thịt lợn (tính trên 100 kg thịt lợn hơi)
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu điều tra
Kênh I là kênh ngắn nhất, sản phẩm từ người chăn nuôi qua hoạt động của hộ
giết mổ kiêm bán lẻ đến tay người tiêu dùng. Tại kênh này người giết mổ đồng thời là
người bán lẻ nên lợi nhuận của họ gồm lợi nhuận của hoạt động giết mổ và của hoạt
động bán lẻ. Kênh này chiếm khoảng 20% sản lượng của ngành hàng. Tổng giá trị gia
tăng được tạo ra trong kênh 1 (tính bình quân cho 100 kg lợn hơi) cũng là thấp nhất
(495,36 nghìn đồng), giá trị gia tăng của người chăn nuôi (201,95 nghìn đồng) thấp
hơn ở hai kênh còn lại (226,03 nghìn đồng).
Kênh II bao gồm 3 tác nhân tham gia chuỗi cung ứng gồm người sản xuất,
người giết mổ bán buôn và người bán lẻ. Đây là kênh cung ứng chính, chiếm đa số sản
lượng thịt tiêu thụ trong chuỗi. Tổng giá trị gia tăng được tạo ra (tính bình quân cho
100 kg lợn hơi) trong kênh 2 là 518,09 nghìn đồng.
Kênh III có sự tham gia của người chế biến, làm cho tổng giá trị gia tăng của
chuỗi tăng lên (671,55 nghìn đồng), cao nhất trong các kênh nghiên cứu.
Ta thấy có sự thay đổi về giá bán cuối cùng của thịt lợn qua từng kênh hàng.
Tại kênh 1, kênh tiêu thụ có ít tác nhân tham gia nhất, giá bán cuối cùng mà người tiêu
dùng phải trả là 2.986,26 nghìn đồng, chi phí trung gian là 2.490,9 nghìn đồng và tạo
Người
giết mổ
và bán lẻ
Người
chăn
nuôi
Người tiêu
dùng
PS: 3.151,76
IC: 2.857,03
VA: 294,73
%VA: 59,23
PS: 2.598,15
IC: 2.396,2
VA: 201,95
%VA: 40,77
Người
giết mổ
bán buôn
Người
bán lẻ
Người
chăn nuôi
Người tiêu
dùng
PS: 2.803,38
IC: 2.577,35
VA: 226,03
%VA: 43,63
PS: 2.967,25
IC: 2.872,23
VA: 95,03
%VA: 18,34
PS: 3.193,14
IC: 2.996,1
VA: 197,04
%VA: 38,03
Người
giết mổ
bán buôn
Người
bán lẻ
Người
chế biến
Người
chăn
nuôi
PS: 2.967,25
IC: 2.872,23
VA: 95,03
%VA: 14,15
PS: 2.803,38
IC: 2.577,35
VA: 226,03
%VA: 33,46
PS: 3.193,14
IC: 2.996,1
VA: 197,04
%VA: 29,34
PS: 3.378,35
IC: 3.224,89
VA: 153,46
%VA: 22,85
Người
tiêu
dùng
228
ra 495,36 nghìn đồng giá trị gia tăng. Xét theo góc độ của người tiêu dùng thì chi phí
mua hàng ở kênh 1 là thấp nhất, nên kênh 1 có hiệu quả về chi phí.
Tại kênh 2, có đông tác nhân tham gia, hoạt động được chuyên môn hóa cao
hơn, quy mô hoạt động lớn hơn, khả năng đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng tốt
hơn, và người tiêu dùng có thể mua được sản phẩm chất lượng cao hơn từ kênh này,
chi phí phải trả là cao hơn. Kênh 2 có hiệu quả phân phối.
Tại kênh 3, sản phẩm có sự thay đổi về chất khi một phần thịt được chế biến
thành giò trả, làm cho tổng giá trị của chuỗi tăng lên, giá trị gia tăng của chuỗi theo
kênh này là lớn nhất. Sản phẩm của kênh 3 đã tiến gần hơn đến bữa ăn của người tiêu
dùng. Tuy hiện nay lượng sản phẩm tiêu thụ qua kênh này còn ít, nhưng kênh 3 rất
giàu tiềm năng phát triển trong tương lai.
5.3 Mô hình liên kết chuỗi giá trị gạo sạch tại huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam
Nghiên cứu điển hình
Hiệu quả từ mô hình theo chuỗi liên kết sản xuất gạo sạch của công ty TNHH
Toản Xuân trên địa bàn huyện Ý Yên
Cập nhật lúc 16:0, ngày 28/12/2018 (GMT+7)
Công ty TNHH Toản Xuânxã Yên Lương huyện Ý Yên là một trong những doanh
nghiệp đầu tiên của tỉnh Nam Định đầu tư xây dựng thành công mô hình liên kết sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm lúa gạo an toàn. Ông Trần Quốc Toản - Chủ tịch HĐQT kiêm Giám
đốc công ty TNHH Toản Xuân cho biết, ông luôn khao khát có được sản phẩm nông
nghiệp sạch để giới thiệu đến người tiêu dùng. Được sự hỗ trợ của Sở Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn tỉnh Nam Định, công ty đã đàm phán và ký hợp đồng xây dựng
chuỗi liên kết với gần 15 HTX và 1.000 hộ nông dân trên địa bàn tỉnh tập trung ở các
huyện Nam Trực, Ý Yên, Hải Hậu, Nghĩa Hưng, Giao Thủy với diện tích trên 1.000ha lúa
chất lượng cao. Tại Ý Yên, công ty đã ký kết hợp đồng liên kết với 8 xã là Yên Lộc, Yên
Minh, Yên Dương, Yên Thắng, Yên Đồng, Yên Cường, Yên Ninh và Yên Trung. Các cơ
sở được ký kết cùng sản xuất một giống lúa chất lượng là Bắc thơm số 7. Để xây dựng
sản xuất theo chuỗi giá trị, Hội Nông dân các xã đã phối hợp với Ban Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn tổ chức các buổi tuyên truyền, vận động các hộ nông nghiệp tham
gia. Công ty cử cán bộ về tư vấn với cam kết đầu tư toàn bộ từ khâu chọn giống, vật tư
nông nghiệp và bao tiêu sản phẩm. Các thành viên chỉ thêm công chăm sóc theo đúng quy
trình, hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật do công ty cử về cùng bám đồng, bám ruộng với hội
viên nông dân. Như vậy, nông dân có ruộng yên tâm vì sản phẩm đầu ra đã có Công ty
chịu trách nhiệm; giá trị sản phẩm lại cao hơn với giá thị trường từ 5 - 7%. Ngoài ra,
Công ty thường xuyên phối hợp với Hội Nông dân tổ chức nhiều buổi tọa đàm giữa
doanh nghiệp và nông dân. Tại đây, nông dân được nghe các chuyên gia nông nghiệp
hướng dẫn cách giám sát quá trình sinh trưởng của cây lúa. Thông qua những buổi tọa
đàm, người nông dân có cơ hội chia sẻ những kinh nghiệm thực tiễn.
229
Quy trình sản xuất lúa gạo sạch công ty TNHH Toản Xuân
Sự kết hợp giữa công ty TNHH Toản Xuân với nông dân giúp chuyên nghiệp hóa
quy trình sản xuất, tới giai đoạn thu hoạch, đảm bảo sản phẩm đầu ra có chất lượng tốt
nhất. Công ty hỗ trợ hoàn toàn về nguyên liệu đầu vào như hạt giống, phân bón, thuốc
bảo vệ thực vật... Trên cơ sở hướng dẫn và theo dõi kiểm tra của Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, công ty xây dựng quy trình sản xuất lúa sạch theo từng giai đoạn. Hạt
giống chất lượng do Trung tâm Giống cây trồng Nam Định cung cấp. Phân bón và thuốc
trừ sâu do công ty lựa chọn, ưu tiên sử dụng các loại phân bón hữu cơ và thuốc bảo vệ
thực vật sinh học. Trong quá trình gieo trồng và chăm sóc cây lúa, các chuyên gia, kỹ sư
nông nghiệp của công ty trực tiếp xuống địa phương để hướng dẫn. Hộ nông dân tổ chức
thu hoạch lúa bằng máy gặt đập liên hợp, vừa giảm được chi phí gặt thủ công, vừa hạn
chế được việc rơi vãi thóc. Sau khi thu hoạch, công ty đến tận ruộng để thu mua thóc tươi
và trong vòng 3-5 giờ, thóc phải đưa vào lò sấy để vitamin trong hạt lúa không bị phân
hủy. Trên cơ sở xây dựng chuỗi liên kết, Công ty TNHH Toản Xuân đã đầu tư xây dựng
nhà xưởng, kho hàng khép kín, đảm bảo tiêu chuẩn gạo sạch để bảo quản sản phẩm. Hiện
công ty đã đầu tư và đưa vào vận hành lò sấy công suất lớn, cùng dây chuyền xay xát gạo
công nghệ hiện đại. Gạo sản xuất đến đâu sẽ đóng gói tới đó theo đơn đặt hàng.
Trên mỗi bao bì đều in đầy đủ ngày sản xuất và hạn sử dụng. Đặc biệt, bên góc trái
túi gạo được Công ty in sẵn tem QRC màu xanh, đây là tem truy xuất nguồn gốc bằng
điện thoại thông minh để người tiêu dùng có đầy đủ thông tin khi mua sản phẩm, tránh
mua phải hàng giả, hàng kém chất lượng. Hiện sản phẩm gạo sạch của Công ty TNHH
Toản Xuân đang được tiêu thụ tại Nam Định, Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Giang,
Thái Nguyên, Ninh Bình, Hà Nam... được người tiêu dùng đón nhận và tin cậy. Năm
2017, Công ty tiêu thụ được hơn 3.000 tấn gạo sạch. Ngoài ra, sản phẩm sau sản xuất hạt
gạo như cám gạo, công ty còn được công ty Sanwa Yushi (Nhật Bản) hỗ trợ khoa học kỹ
thuật, công nghệ chế biến và tiêu thụ.
Có thể nói, mô hình liên kết sản xuất gạo sạch của công ty Toản Xuân trên địa bàn
huyện đã thu được những thành công đáng kể. Đặc biệt, qua mô hình này đã từng bước
thay đổi nhận thức của người nông dân từ sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ, manh mún sang
hàng hóa gắn với thị trường; từ đó, nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Mô hình từng bước
thu hút hội viên tham gia vào chuỗi liên kết sản xuất, giải quyết việc làm cũng như thu
nhập ổn định cho các hộ nông dân, tạo lòng tin cho người dân yên tâm sản xuất góp phần
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Vũ Thị Kim Oanh - Hội Nông dân huyện Ý Yên
230
6. MỘT SỐ TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN CẢN TRỞ VIỆC NÂNG
CAO HIỆU QUẢ LIÊN KẾT CHUỖI GIÁ TRỊ NÔNG NGHIỆP Ở KHU VỰC
ĐBSH TRONG
6.1 Sản xuất nhỏ vẫn phổ biến, sản xuất hàng hóa chưa được chuyên môn
hóa cao
Trong những năm vừa qua, mặc dù sản xuất được cơ cấu lại theo hướng mở
rộng quy mô, nhưng sản xuất nhỏ vẫn phổ biến. Số doanh nghiệp và hợp tác xã tăng và
số hộ liên tục giảm, nhưng đến nay hộ vẫn là đơn vị sản xuất cơ bản, chiếm tỷ trọng
lớn. Số hộ vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong số các đơn vị sản xuất nông, lâm nghiệp và
thủy sản. Trong tổng số hộ sử dụng đất nông nghiệp thì số hộ sử dụng dưới 0,2 ha là
chủ yếu. Mặc dù công tác dồn điền đổi thửa được coi là khá thành công, diện tích đất
sản xuất nông nghiệp bình quân một hộ còn ít. Vùng Đồng bằng sông Hồng là vùng có
diện tích sản xuất nông nghiệp bình quân hộ thấp nhất cả nước, chỉ đạt 1.852 m2/hộ.
Trong đó, hộ trồng cây hằng năm 1.775 m2/hộ; hộ trồng lúa 1.692 m2/hộ; hộ trồng cây
lâu năm 690 m2/hộ. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản theo mô hình kinh tế trang
trại phát triển khá, tuy nhiên số trang trại so với tổng số hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản
vẫn chiếm tỷ lệ khiêm tốn. Phần lớn các trang trại vẫn sản xuất nhỏ, theo quy mô gia
đình là chủ yếu, chưa thực sự thu hút và giải quyết nhiều việc làm cho khu vực nông
thôn. Số doanh nghiệp nông, lâm nghiệp và thủy sản trong những năm gần đây tăng,
nhưng chỉ mới chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số đơn vị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy
sản. Mặt khác, phần lớn các doanh nghiệp hiện có là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ.
Nhiều doanh nghiệp có quy mô sản xuất chỉ tương đương với đơn vị hộ gia đình và nhỏ
hơn cả quy mô sản xuất của trang trại. Số doanh nghiệp sử dụng dưới 10 lao động chiếm
gần một nửa; số doanh nghiệp có vốn kinh doanh dưới 10 tỷ chiếm trên một nửa;
6.2. Vai trò của Hợp tác xã trong tăng cường và thúc đẩy liên kết còn hạn chế
Số hợp tác xã nông, lâm nghiệp và thủy sản ở nhiều nơi hoạt động chưa thực sự
hiệu quả trong việc gắn kết các hộ dân vào chuỗi. Số hợp tác xã nông, lâm nghiệp và
thủy sản ít; mặt khác, hoạt động chủ yếu vẫn dừng ở việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ
cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản. Hợp tác xã chưa thực sự phát huy vai trò
tập hợp, vận động, thay đổi cách nghĩ, cách làm và liên doanh, liên kết, đảm bảo đầu ra
ổn định cho nông dân. Doanh thu hoạt động của nhiều hợp tác xã chỉ tương đương với
doanh thu của một hộ gia đình. Số hợp tác xã có doanh thu thuần bình quân 1 năm
dưới 1 tỷ đồng chiếm tới tỷ trọng lớn (hai phần ba tổng số hợp tác xã).
6.3. Ứng dụng khoa học công nghệ, cơ giới hóa sản xuất còn hạn chế
Theo kết quả Tổng điều tra năm 2016, trong 12 tháng trước thời điểm điều tra,
diện tích lúa được gieo sạ, cấy bằng máy vẫn còn hạn chế. Sản lượng sản phẩm sản
xuất theo Quy trình VietG P và tương đương trong 12 tháng trước thời điểm
01/7/2016 chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Hình thức sử dụng nhà lưới, nhà kính, nhà màng
nuôi trồng cây con còn ít.
6.4. Hiệu quả sản xuất chưa cao
Hiệu quả sản xuất của các hộ nông, lâm nghiệp và thủy sản không ổn định. Tình
trạng được mùa mất giá liên tục xảy ra. Trong những năm vừa qua, sản xuất nông
nghiệp thường phải triển khai các chiến dịch giải cứu thanh long, dưa hấu, vải, thịt lợn
và các loại nông sản hàng hóa khác. Nhiều hộ chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản phải
treo chuồng, treo ao do bán sản phẩm dưới giá thành. Thu nhập của hộ sản xuất lúa
hàng hóa của cả nước nói chung và ĐBSH nói riêng sau khi trừ chi phí không còn
231
được 30% như mục tiêu đề ra. Giá trị sản phẩm các hộ lâm sinh thu được từ các hoạt
động trồng rừng, chăm sóc và bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng không cao. Hiệu
quả sản xuất của hộ thấp do nhiều nguyên nhân, một mặt do tác động tiêu cực của biến
đổi khí hậu và thiên tai, dịch bệnh; mặt khác, còn do giá đầu vào tăng, giá bán sản
phẩm giảm và thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa bấp bênh.
7. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HIỆU QUẢ LIÊN KẾT CHUỖI GIÁ
TRỊ NÔNG NGHIỆP TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở ĐBSH TRONG
GIAI ĐOẠN TỚI
Để thúc đẩy hiệu quả liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp, rất cần sự vào cuộc và nỗ
lực của nhiều bên liên quan đến chuỗi từ xuất phát điểm của chuỗi đó là từ phía chính
những người sản xuất, cho đến các tác nhân tham gia trong chuỗi như những cơ sở thu
gom, chế biến, từ các doanh nghiệp, các hợp tác xã và ngay cả các tác nhân có tác động
đến chuỗi như các tổ chức hỗ trợ kỹ thuật, chính quyền địa phương và trung ương.
7.1 Giải pháp từ phía các hộ sản xuất
Để thúc đẩy hiệu quả liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp, đảm bảo tốt vệ sinh an
toàn thực phẩm, đảm bảo nguồn gốc xuất xứ sản phẩm, tạo lòng tin cho người tiêu
dùng ngay từ khâu sản xuất là vô cùng quan trọng. Bên cạnh đó, phần lớn các hộ dân
sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn vùng ĐBSH gặp vấn đề về giá
thành cao, rủi ro về dịch bệnh, rủi ro thị trường, làm cho thu nhập từ hoạt động sản
xuất thấp và bấp bênh, và một vấn đề nữa đó là nhiễm môi trường. Đó là những vấn đề
nan giải, để giải quyết phần nào các vấn đề đó, chúng tôi đề xuất các giải pháp sau:
- Không ngừng học hỏi và áp dụng các kỹ thuật sản xuất tiên tiến, chọn các yếu
tố đầu vào như con giống, hạt giống, phân bón, thức ăn chăn nuôi phù hợp, và thực
hiện tốt công tác phòng trừ dịch bệnh nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm,
hạ giá thành và giảm rủi ro từ dịch bệnh.
- Các hộ, trang trại, cơ sở sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản cần
chủ động liên kết, giữ uy tín để liên kết được chặt chẽ với những đối tác khác trong
chuỗi như với doanh nghiệp, với hợp tác xã, với các tổ hợp tác, và ngay cả với các cơ
sở chế biến nông, lâm, thủy sản. Tăng cường liên kết với các đối tác này để được đầu
tư đầu vào và bao tiêu sản phẩm, đặc biệt là cố gắng tham gia các liên kết chính thức
bằng các hợp đồng nông nghiệp. Liên kết giúp giảm bớt các rủi ro thị trường, đem lại
hiệu quả kinh tế cao và ổn định hơn cho hộ chăn nuôi.
- Các hộ sản xuất cũng có thể tự liên kết với nhau để thành lập các hợp tác xã,
từ đó HTX đứng ra tìm kiếm và hợp tác với các doanh nghiệp để tiêu thụ sản phẩm,
đầu tư vốn, kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, cung cấp dịch vụ đảm bảo chất lượng. Như
vậy sẽ tạo ra một kênh sản xuất, tiêu thụ thịt nông, lâm, thủy sản hiệu quả hơn.
- Các hộ dân cũng cần học hỏi, chủ động tìm kiếm thông tin, nâng cao trình độ
về nhiều mặt và áp dụng công nghệ thông tin trong sản xuất để đảm bảo truy xuất
nguồn gốc sản phẩm, tạo lòng tin lâu dài cho người tiêu dùng, tăng cường cơ hội liên
kết chuỗi bền vững với các doanh nghiệp, tổ chức chế biến.
- Các hộ dân cũng cần chủ động giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường
và giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường do sản xuất gây ra như bón phân, phun thuốc
trừ sâu, sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi đúng, đủ liều lượng... Các hộ sản xuất
cũng cần có ý thức xây dựng chuồng trại hợp vệ sinh, xây hầm biogas và chế phẩm
232
sinh học E.M ((Effective microorganisms) để xử lý chất thải chăn nuôi, học hỏi và
tham gia sản xuất mang tính hữu cơ nhiều hơn.
7.2 Giải pháp từ phía các tác nhân tham gia chuỗi: cơ sở thu gom, chế biến,
phân phối
Các tác nhân tham gia chuỗi thực hiện các chức năng sở thu gom, chế biến,
phân phối như hộ, tổ hợp tác, hợp tác xã và các doanh nghiệp muốn đảm bảo lợi
nhuận, tính bền vững trong quá trình sản xuất cần phải áp dụng khoa học kỹ thuật tiên
tiến trong khâu chế biến, đa dạng hóa sản phẩm, tăng cường marketing sản phẩm, mở
rộng thị trường tiêu thụ.
Các doanh nghiệp nông nghiệp cần chủ động liên hệ với chính quyền địa
phương trong việc phát triển bền vững vùng nguyên liệu, cam kết và hỗ trợ chính
quyền địa phương trong quy hoạch phát triển kinh tế đối với ngành nông, lâm, ngư
nghiệp ở địa phương. Doanh nghiệp cũng cần chủ động đàm phán, thỏa thuận và ký
kết các hợp đồng chính thức với các hộ sản xuất để thắt chặt, đảm bảo tính bền vững
mối quan hệ với họ và dễ dàng giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình hợp tác.
Các tác nhân này cũng cần cung cấp thông tin thị trường cho các hộ kinh doanh
giúp họ nắm bắt nhu cầu thị trường tốt hơn, tránh tình trạng sản xuất theo phong trào.
7.3 Giải pháp từ phía chính quyền
Việc tuyên truyền và tăng cường cấp giấy chứng nhận đảm bảo tiêu chuẩn
VietG P và tương đương của chính quyền địa phương sẽ thúc đẩy chuỗi giá trị nông,
lâm, thủy sản phát triển nhanh và bền vững hơn. Với người sản xuất, các giấy chứng
nhận có thể được coi như một giấy thông hành giúp họ dễ dàng tiếp cận thị trường, ký
kết các hợp đồng sản xuất và bao tiêu sản phẩm trong chuỗi giá trị hơn.
Chính quyền cũng cần tuyên truyền cho các hộ kinh doanh hiểu biết và tuân thủ
các quy định về sản xuất an toàn, đảm bảo sản xuất sạch, đặc biệt là sản xuất hữu cơ, từ
đó thúc đẩy họ và làm tăng cơ hội cho họ vào việc tham gia các chuỗi giá trị nông sản.
Chính quyền địa phương cần có chiến lược quy hoạch vùng nguyên liệu hợp lý,
tránh tình trạng bỏ trống đất gây lãng phí nguồn lực; có chính sách hỗ trợ, thúc đẩy
mối quan hệ hợp tác giữa doanh nghiệp với người sản xuất. Chính quyền địa phương
cũng cần đứng ra như một bên thứ ba tham gia giám sát và đảm bảo cho mối quan hệ
giữa doanh nghiệp và người sản xuất được bền chặt.
Chính quyền cũng cần có quản lý chặt chẽ dịch bệnh, quản lý chặt chẽ thị
trường: cả thị trường đầu ra và thị trường đầu vào để đảm bảo thị trường thông suốt,
cạnh tranh lành mạnh, giảm thiểu tính độc quyền hoặc cấu kết trên thị trường. Quản lý
và giám sát chặt chẽ việc tuân thủ các quy định của Nhà nước về sản xuất, tiêu thụ,
vận chuyển và tiêu dùng các sản phẩm nông, lâm, thủy sản. Cần xây dựng cơ chế phối
kết hợp giữa các đơn vị chức năng trong việc quản lý, giám sát việc thực hiện sản xuất,
kinh doanh trong ngành nông, lâm, thủy sản đảm bảo các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn
thực phẩm và an toàn dịch bệnh theo đúng quy định của Nhà nước.
Căn cứ điều kiện và diễn biến của từng giai đoạn của dịch bệnh nguy hiểm mà
có những chính sách phù hợp, kịp thời để bảo vệ ngành trồng trọt, chăn nuôi, bảo vệ
sản xuất trong nước và khống chế dịch bệnh.
233
7.4 Giải pháp từ phía các tổ chức kỹ thuật, các cơ sở đào tạo và tổ chức tín dụng
Các tổ chức tài chính cần giúp các hộ/cơ sở sản xuất, chế biến nông, lâm thủy
sản tiếp cận dễ hơn các nguồn vốn ưu đãi cho xây dựng chuồng trại, tăng cường trang
thiết bị phục vụ sản xuất, bố trí sản xuất khoa học.
Các cơ sở đào tạo cần hỗ trợ thông qua tập huấn các hộ/cơ sở nông, lâm thủy
sản về kỹ thuật sản xuất sạch, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm ngay từ khâu đầu
trong chuỗi giá trị.
Các tổ chức quốc tế, các cơ sở đào tạo, các tổ chức khuyến nông nên hỗ trợ
người dân trong việc nâng cao hiểu biết về lợi ích lâu dài của việc liên kết nối với
doanh nghiệp và các cơ sở chế biến trong chuỗi giá trị cũng như hiểu biết về kỹ thuật
sản xuất, kỹ thuật xử lý các vấn đề trong quá trình sản xuất và kiểm soát tốt chất lượng
sản phẩm nông, lâm, thủy sản.
8. KẾT LUẬN
Đồng bằng sông Hồng là một vùng nằm quanh khu vực hạ lưu sông Hồng, với
điều kiện tự nhiên và xã hội phù hợp cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản.
Trong quá trình xây dựng nông thôn mới, vùng ĐBSH đã có nhiều xã đạt tiêu chuẩn
NTM, hệ thống điện cung cấp phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất khá đầy đủ, chất
lượng hệ thống giao thông phục vụ giao thương được nâng cấp, cơ sở hạ tầng thông tin
truyền thông được tăng cường, hệ thống kênh mương phục vụ tưới tiêu trong quá trình
sản xuất sản phẩm hàng hóa được bổ sung và hoàn thiện.
Bên cạnh đó, hệ thống tín dụng, ngân hàng từng bước được mở rộng mạng lưới
hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ sản xuất, chế biến tiếp cận tín dụng. Hệ
thống chợ phục vụ giao lưu hàng hóa được nâng cấp, đổi mới; các dịch vụ hỗ trợ ngày
càng đa dạng và kinh tế chuyển dịch theo chiều hướng tích cực hơn.
Trong liên kết chuỗi giá trị sản phẩm nông, lâm thủy sản ở khu vực ĐBSH các
tác nhân chính bao gồm người sản xuất là các hộ, các cơ sở và hợp tác xã; người thu
gom, chế biến và phân phối chủ yếu là các hộ, cơ sở chế biến, tổ hợp tác, hợp tác xã và
doanh nghiệp. Điểm nổi bật trong vùng là các hộ liên kết trong xây dựng cánh đồng
mẫu lớn, phục vụ chuyên môn hóa sâu trong sản xuất sản phẩm hàng hóa. Mối liên kết
được thực hiện bằng hai hình thức là ký kết hợp đồng cung cấp nguyên liệu, đầu vào
và bao tiêu sản phẩm đầu ra; và hợp đồng miệng. Số lượng các hộ, cơ sở và doanh
nghiệp chế biến sản phẩm nông, lâm, thủy sản tăng nhanh theo thời gian.
Hiệu quả của liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp trong xây dựng NTM ở khu vực
ĐBSH được thể hiện qua việc cơ cấu lại hình thức tổ chức theo hướng đa dạng hóa,
liên kết theo chuỗi giá trị, cơ cấu lại quy mô sản xuất theo hướng tăng cường quy mô
hàng hóa, ruộng đất được tích tụ thông qua khâu đột phá là dồn điền đổi thửa và xây
dựng được nhiều cánh đồng mẫu lớn để phục vụ sản xuất hàng hóa chuyên canh theo
chuỗi giá trị, tạo điều kiện cơ giới hóa và ứng dụng khoa học công nghệ thuận lợi hơn,
nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị của sản phẩm. Chuyên đề cũng giới thiệu 3
mô hình liên kết chuỗi giá trị thành công trên địa bàn đó là mô hình liên kết chuỗi giá
trị sữa bò tươi tại huyện Lý Nhân, mô hình liên kết sản xuất gạo sạch tại huyện Ý Yên,
tỉnh Hà Nam và mô hình liên kết chuỗi giá trị thịt lợn tại huyện Chương Mỹ, Hà Nội.
Từ thực trạng, chuyên đề chỉ ra một số hạn chế và nguyên nhân cản trở việc nâng cao
hiệu quả liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp trên địa bàn khu vực ĐBSH đó là sản xuất
nhỏ vẫn phổ biến, sản xuất hàng hóa chưa được chuyên môn hóa cao; vai trò của HTX
trong tăng cường và thúc liên kết chuỗi chưa thực sự hiệu quả ở nhiều nơi, việc ứng
234
dụng khoa học công nghệ và cơ giới hóa vẫn còn hạn chế dẫn đến hiệu quả sản xuất
nói chung còn chưa cao.
Để thúc đẩy hiệu quả liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp, rất cần sự vào cuộc và nỗ
lực của nhiều bên liên quan đến chuỗi. Chuyên đề đã đề xuất bốn nhóm giải pháp, bắt
đầu từ xuất phát điểm của chuỗi đó là giải pháp từ phía chính những người sản xuất,
cho đến các tác nhân tham gia trong chuỗi như những cơ sở thu gom, chế biến, từ các
doanh nghiệp, các hợp tác xã và ngay cả các tác nhân có tác động đến chuỗi như các tổ
chức hỗ trợ kỹ thuật, chính quyền địa phương và trung ương.
235
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tổng cục Thống kê (2018), Kết quả tổng điều tra Nông thôn, nông nghiệp và thủy sản
năm 2016. Nhà xuất bản Thống kê.
Trần Hữu Cường, Trần Thị Thu Hương, Bùi Thị Nga, Nguyễn Thị Bình (2012), Phân
tích chuỗi giá trị ngành hàng lợn thịt và sữa bò tươi ở Hà nội và sơn la, Từ Marketing đến
chuỗi giá trị nông sản và thực phẩm: Cơ sở lý luận và thực tiễn Nhà xuất bản Chính trị.
Tran Mai Phuong, Tran Huu Cuong, Bui Thi Nga (2018), An Analysis of the Linkages
in the Fresh Milk Chain of Viet Nam, Greener Journal of Business and Management Studies,
ISSN: 2276-7827, Vol. 8(2), pp. 010-017, August, 2018
Bui Thi Nga, (2018). Promoting the linkage in agricultural production and marketing
in Vietnam: A Case study of dairy farming in Phu Dong, Hanoi, Vietnam. Presentation in
FABM seminar. 7th, June. 2018. Vietnam National University of Agriculture. Vietnam
Bui Thi Nga (2017), Linkage between Dairy Farmers and Actors, Stakeholders in the
Milk Chain: A case study of Cu Chi District, Ho Chi Minh City of Vietnam, Greener Journal
of Business and Management Studies, ISSN: 2276-7827, Vol. 7, No 3, pp 024-029.
Bui Thi Nga, Philippe Lebailly (2016), Linkages in the Chicken Chain of Vietnam: A
Case Study in Kim Dong District, Hung Yen Province. International Review of Research in
Emerging Markets and the Global Economy (IRREM). ISSN: 2311-3200) 2016 Vol: 2 Issue:
3
Bui Thi Nga (2016). Linkages from Farmers to enterprises: A case study in dairy milk
in Northern area of Vietnam. Proceeding of International Cooperation for rural development
in Vietnam: The linkage between policy and reality. Nov 25, 2016. University of Social
Science and Humanity, Vietnam National University of Hanoi.
Bui Thi Nga (2015), Model for production along the livestock value chain: A typical
case study of pig chain in Chuong My, Hanoi, Vietnam, National Conference on Agri product
Chain in Vietnam, 12-13th Dec, Can Tho, Vietnam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
giai_phap_thc_day_hieu_qua_lien_ket_chuoi_gia_tri_nong_nghie.pdf