Tất cả những vị trí tiếp giáp với tường hố móng
được chống vào dầm treo chữ I 200 được bắn cố
định vào tường hố móng;
- Ngoài ra để tăng tính ổn định cho hệ văng
chống ta tăng cường thêm 04 cột chống tạm và dầm
chữ H300 được bố trí ở 2 khoang giáp tường theo
chiều cạnh 30,15m (hình 13);
Những đoạn có chiều dài bị nhỡ như 02 đoạn có
chiều dài 0,962m và 0,936m sẽ được gia công thêm.
Nếu như chỗ tiếp giáp với tường vây của đoạn nhỡ
đó là đầu âm thì ta phải hàn thêm vào thanh I 200
treo một đầu dương để chốt được với nhau và
ngược lại
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 837 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp thi công tầng hầm bằng cách dùng dầm bailey lắp trực giao để văng chống hố móng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
58 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2016 
GIẢI PHÁP THI CÔNG TẦNG HẦM BẰNG CÁCH DÙNG DẦM BAILEY 
LẮP TRỰC GIAO ĐỂ VĂNG CHỐNG HỐ MÓNG 
GS.TSKH. NGUYỄN ĐĂNG BÍCH 
Viện KHCN Xây dựng 
ThS. NGUYỄN THẾ TOÀN 
Trường CĐ Công nghiệp Phúc Yên, Vĩnh Phúc 
Tóm tắt: Dầm Bailey thường được dùng làm cầu 
tạm và sàn đạo trong xây dựng các công trình giao 
thông. Dầm Bailey đã được dùng để văng chống hố 
móng với cách lắp song song và vượt được khẩu độ 
27m. Kết quả nghiên cứu trong bài báo này cho thấy, 
dùng dầm Bailey lắp trực giao để văng chống hố 
móng có thể vượt được khẩu độ lớn hơn 27m. 
1. Giới thiệu 
1.1 Tổng quan về tình hình thi công để chống giữ 
vách hố đào 
Khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả 
không gian dưới mặt đất trong các đô thị hiện đại 
đang là xu thế tất yếu của sự phát triển. Những công 
trình ngầm, chẳng hạn như hệ thống tàu điện ngầm, 
các bãi đỗ xe ngầm, hoặc một phần công trình 
nằm dưới mặt đất như tầng hầm của các công 
trình, ngoài việc phải chịu những tác động giống 
như của các công trình trên mặt đất, nó còn chịu 
những tác động của môi trường xung quanh không 
chỉ ở giai đoạn sử dụng mà còn ở giai đoạn thi công. 
Việc thi công các loại công trình ngầm như đã nêu 
trên rất phức tạp, nhất là trong không gian đô thị chật 
hẹp, có nhiều các công trình lân cận như các công 
trình nhà cao tầng, viện bảo tàng, di tích lịch sử, hệ 
thống đường giao thông hay hệ thống kỹ thuật, có 
thể gây ảnh hưởng xấu đến các công trình nói trên: 
lún, hư hỏng, phá hủy, hoặc có thể gây mất an 
toàn trong thi công, làm ảnh hưởng đến chất lượng, 
tiến độ thi công công trình. Hiện nay, các đơn vị thi 
công đã áp dụng nhiều biện pháp thi công khác nhau 
để chống giữ vách hố đào của các công trình ngầm. 
Các biện pháp thi công phụ thuộc vào các điều kiện 
cụ thể của công trình cũng như thiết bị thi công được 
sử dụng. Với các công trình nhà cao tầng trong thành 
phố, mặt bằng hố đào rộng, yêu cầu về kỹ thuật và 
tiến độ thi công cao, dẫn đến việc lựa chọn và thiết 
kế giải pháp chống đỡ thành hố đào là hết sức quan 
trọng. Bên cạnh những giải pháp truyền thống như: 
sử dụng hệ văng chống bằng thép hình, thi công 
semi-topdown, dùng giải pháp neo đất,... thì giải 
pháp dùng dầm Bailey để văng chống hố móng xây 
dựng tầng hầm nhà cao tầng đã được đề xuất và áp 
dụng thi công cho một công trình cụ thể. Ý nghĩa kinh 
tế, kỹ thuật của giải pháp đã được phân tích ở trong 
trang [3]. Ở giải pháp này dầm Bailey đã được lắp 
song song, và vượt được khẩu độ 27m, văng chống 
hố móng đối với 2 cạnh cùng chiều. Vấn đề đặt ra là 
cần văng chống hố móng rộng, kích thước cả hai 
chiều đều lớn hơn 27m, văng chống đối với 4 cạnh 
vuông góc với nhau. Với yêu cầu như vậy dầm 
Bailey lắp song song không đáp ứng được yêu cầu 
mà phải lắp vuông góc và hơn thế phải lắp vuông 
góc đồng mức. Lắp vuông góc đồng mức tạo ra 
được không gian đủ lớn giữa các lớp văng chống để 
có thể sử dụng hoàn toàn cơ giới trong việc đào đất 
hố móng, có thể thi công được nhanh và tiết kiệm chi 
phí. 
Với giải pháp này việc thi công hố đào không 
những vẫn đảm bảo được các ưu điểm của một số 
giải pháp truyền thống mà nó còn làm giá thành thi 
công giảm do công nghệ thi công đơn giản, dễ 
khuyếch đại cấu kiện, sau khi thi công văng chống 
xong có thể thu hồi lại để sử dụng cho các công trình 
khác. Do tốc độ thi công nhanh, và hơn thế thiết bị 
dầm Bailey hoàn toàn có thể chế tạo cơ khí ở Việt 
Nam nên đề tài này là một hướng đi mới, đáp ứng 
yêu cầu thực tiễn và mang tính khoa học. 
1.2 Mô tả cấu kiện dầm Bailey 
Dầm Bailey được quân đội Mỹ mang sang Việt 
Nam trong chiến tranh. Sau khi hòa bình lặp lại 
chúng được thu gom để sử dụng, trong ngành giao 
thông nó được sử dụng để thi công cầu tạm và trong 
ngành xây dựng nó được sử dụng để văng chống hố 
móng. Do yêu cầu thi công có thể chế tạo thêm các 
chi tiết, cấu kiện bằng vật liệu thép có cường độ cao 
tương đương nhập khẩu từ nước ngoài về. 
Chức năng của dầm Bailey chủ yếu là chịu uốn, 
chưa bao giờ được dùng để văng chống hố móng 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2016 59 
trong đó dầm Bailey sử dụng chủ yếu là chịu nén. 
Trong giải pháp này lần đầu tiên dầm Bailey được 
dùng để văng chống hố móng vượt khẩu độ 27m, ở 
khẩu độ này không có loại dầm đơn nào bằng bê 
tông hoặc bằng thép hình đủ khả năng chịu trọng 
lượng bản thân, chịu nén mà vẫn ổn định, chỉ có dầm 
Bailey là loại dầm thép tổ hợp tiết diện lớn (tiết diện 
chữ nhật cao x rộng x dài1,55m x 0,635m x 3,05m), 
trọng lượng nhẹ, chịu nén tốt, không mất ổn định khi 
vượt khẩu độ lớn. 
Hình 1. Hệ thống văng chống vách hố đào tầng hầm bằng dầm Bailey lắp song song 
(Tòa nhà Sun square đường Lê Đức Thọ) 
Các cấu kiện, linh kiện để lắp nút trực giao gồm: khung dầm Bailey, chốt để khuyếch đại khung dầm 
Bailey, thanh tăng cứng tại trụ, chốt bu lông để liên kết thanh tăng cứng với thanh cánh thượng và cánh hạ, 
khung giằng định vị lắp ngang và đứng, bu lông để liên kết khung giằng định vị với khung dầm Bailey: 
Khung Panel điển hình 
Khung giằng định vị Chốt Panel và vị trí lắp 
Thanh tăng cứng tại trụ 
b¶n t¸p
150
20
0
CHI TIÕt b¶n t¸p A
04
20
0
90
CHI TIÕt b¶n t¸p B
03
04
b¶n t¸p
03
52
5
1268
Lç CHèT BUL¤NG D47MM
100
§ÇU ¢M
Lç CHèT DÇM NGANG
§ÇU D¦¥NG
220
48
MÆT B»NG MèI NèI
CHèT PANO
MÆT §øNG MèI NèI
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
60 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2016 
2. Phương pháp tính toán 
Để xác định áp lực đất và nước lên tường vây bê 
tông cốt thép, tác giả sử dụng phần mềm PLAXIS 
V8.6. Số liệu đầu vào: 
Hố đào có các kích thước sau: rộng 30,15m; sâu 
14,9m. Tường chắn bằng bê tông dài 57m và dày 
0,6m được sử dụng để chắn đất xung quanh. Tại mỗi 
tường chắn sử dụng 3 lớp dầm Bailey nhằm chống 
đỡ cho chúng. Tải trọng phân bố bề mặt phía trái là 
5kN/m2 và phía bên phải là 5kNm2. 
2.1 Tính chuyển vị ngang tường vây 
Sau đó ta nhập dữ liệu đầu vào các giai đoạn và 
có kết quả chuyển vị lớn nhất: 
Hình 2. Sơ đồ mô hình hố móng công trình 
Hình 3. Khai báo lớp đất vào mô hình tính toán 
mÆt ®øng thanh t¨ng cøng t¹i trô , TL:1/20
10
0
3048
3048
mÆt b»ng thanh t¨ng cøng t¹i trô, TL:1/20
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2016 61 
Hình 4. Kết quả chuyển vị ngang giai đoạn 6 - đào tầng hầm 3, hạ mực nước ngầm 
Hình 5. Kết quả chuyển vị lớn nhất 
Căn cứ vào biểu đồ chuyển vị cho thấy chuyển vị 
lớn nhất là 28,68mm. Đối với các chi tiết kết cấu nhà 
và công trình mà độ võng và chuyển vị theo phương 
ngang do tải trọng thường xuyên, tạm thời dài hạn và 
tạm thời ngắn hạn, không vượt quá 1/150 nhịp hoặc 
1/75 chiều dài công xôn. 
- Theo Peck, Mỹ 
Chuyển vị tường vây cho phép (1/200-1/500)L. 
- Theo tiêu chuẩn Hàn Quốc: 
Chuyển vị tường vây cho phép (1/150-1/300)L. 
Do đó với L=14,9m thì thỏa mãn chuyển vị ngang. 
2.2 Kiểm tra khả năng chịu lực nén của dầm Bailey
Bảng 1. Giá trị lực nén trong dầm Bailey được xuất ra từ phần mềm Plaxis 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
62 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2016 
Vì chiều dài mỗi thanh chống khoảng 30m, số 
lượng thanh chống ngang ta bố trí là 8 thanh (bố trí 
đều cho khoảng 57m). Do vậy, lực ép dọc trục yêu 
cầu là: 
- Thanh 1: F=12,24 x 30/8= 45.9T; 
- Thanh 2: F=15,95 x 30/8 = 59,8T; 
- Thanh 3: F=12,12 x 30/8= 45.45T. 
Do vậy Bailey đủ khả năng chịu lực do kiểm 
chứng thực tế thì dầm chịu được khoảng 120T. 
3. Bố trí vị trí văng chống và lắp dựng nút trực giao 
3.1 Bố trí vị trí văng chống 
Hình 6. Mặt bằng bố trí văng chống 
Theo kết quả tính toán áp lực đất ở trên, kết hợp 
với khả năng chịu lực nén của dầm Bailey (khoảng 
120 tấn) đã được kiểm định thực tế. Tác giả đã đề 
xuất phương án bố trí dầm Bailey như sau: 
- Theo phương cạnh 30,15m (cạnh ngắn) bố trí 
08 dầm Bailey gồm 09 đoạn khung panel khớp lại với 
nhau có chiều dài là 3,048x9=27,432m và 1 đoạn 
phải chế tạo thêm dài 0,962 (hình 13); 
- Theo phương cạnh 57m (cạnh dài) bố trí 02 
dầm Bailey vuông góc với dầm theo phương cạnh 
ngắn gồm 08 đoạn, mỗi đoạn có 2 khung panel 
khớp lại với nhau có tổng chiều dài là 
2x3,092=6,184m và 01 đoạn có chiều dài 0,936m. 
Riêng đoạn dài 0,936m ta lao 04 thanh tăng cứng 
chống vào dầm treo I200 chạy xung quanh hố móng 
(hình 13); 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2016 63 
- Tất cả những vị trí tiếp giáp với tường hố móng 
được chống vào dầm treo chữ I 200 được bắn cố 
định vào tường hố móng; 
- Ngoài ra để tăng tính ổn định cho hệ văng 
chống ta tăng cường thêm 04 cột chống tạm và dầm 
chữ H300 được bố trí ở 2 khoang giáp tường theo 
chiều cạnh 30,15m (hình 13); 
Những đoạn có chiều dài bị nhỡ như 02 đoạn có 
chiều dài 0,962m và 0,936m sẽ được gia công thêm. 
Nếu như chỗ tiếp giáp với tường vây của đoạn nhỡ 
đó là đầu âm thì ta phải hàn thêm vào thanh I 200 
treo một đầu dương để chốt được với nhau và 
ngược lại. 
3.2 Lắp dựng nút trực giao 
- Nút trực giao được lắp đồng mức; 
- Tại nút trực giao, dầm dài lắp liên tục, dầm ngắn 
lắp gián đoạn; 
- Dầm ngắn gián đoạn tại nút, dùng tụ lắp ở thanh 
cánh thượng và thanh cánh hạ để đảm bảo truyền 
lực liên tục; 
- Để đảm bảo nút trực giao là nút cứng, dùng 
khung định vị ngang và khung định vị đứng lắp tại nút 
trực giao; 
- Nút trực giao được lắp dựa trên những cấu kiện 
có sẵn (có thể thuê mượn hoặc mua đứt bán đoạn) 
không cần chế tạo thêm những cấu kiện mới; 
- Các cấu kiện, linh kiện để lắp nút trực giao gồm: 
khung dầm Bailey, chốt để khuyếch đại khung dầm 
Bailey, thanh tăng cứng tại trụ, chốt bu lông để liên 
kết thanh tăng cứng với thanh cánh thượng và cánh 
hạ, khung giằng định vị lắp ngang và đứng, bu lông 
để liên kết khung giằng định vị với khung dầm Bailey: 
- Nút trực giao chưa được lắp dựng và sử dụng ở 
Việt Nam. 
Hình 7. Mặt cắt ngang nút trực giao 
Hình 8. Nút trực giao do tác giả thiết kế tại xưởng sản xuất công ty Thanh Tùng Bailey 
THANH TAÊNG CÖÙNG TAÏI TRUÏKHUNG ÑÒNH VÒ NGANG
KHUNG CÖÙNG ÑÖÙNG
THANH TAÊNG CÖÙNG TAÏI TRUÏKHUNG ÑÒNH VÒ NGANG
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
64 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2016 
4. Những hiệu quả kinh tế kỹ thuật có thể đạt được 
- Tiết kiệm thời gian và chi phí đào đất hố móng 
so với biện pháp Topdown, vì sau mỗi tầng văng 
chống có thể đào sâu hơn 4m, tạo ra không gian đủ 
cao để máy xúc cỡ nhỏ có thể kết hợp với máy xúc 
cỡ lớn có thể thực hiện được, dẫn đến việc đào đất 
hố móng là hoàn toàn cơ giới; 
- Thi công kết cấu tầng hầm nguyên vẹn, toàn 
khối, liên tục từ dưới lên trên, dễ kiểm soát chất 
lượng thi công các cấu kiện không phải để chờ và 
thi công chia tách các cấu kiện thẳng đứng ở những 
vị trí qua sàn như giải pháp Topdown; 
- Lắp dựng, tháo dỡ dễ dàng, vì liên kết giữa 
các cấu kiện của dầm Bailey là liên kết chốt, mỗi đốt 
dầm Bailey nặng không quá 0,3 tấn, có thể liên kết 
trước với nhau thành dầm có độ dài thích hợp, sau 
đó cẩu vào vị trí lắp đặt; 
- Giải pháp dùng dầm Bailey là giải pháp an 
toàn kỹ thuật, khi phát hiện dầm Bailey có khả năng 
quá tải hoặc khả năng mất ổn định, có thể bổ sung 
thanh tăng cứng tại trụ hoặc các thanh giằng chéo; 
- Dùng dầm Bailey có thể văng chống hố móng 
của các công trình cao tầng xây chen, không cần có 
không gian ngầm đủ rộng xung quanh tường vây 
như giải pháp neo đất; 
- Chi phí tổng thể xây dựng tầng hầm dùng dầm 
Bailey rẻ hơn dùng các phương pháp khác. 
5. Kết luận 
Văng chống hố móng không kể biện pháp Semi- 
Topdown và neo đất để thi công các tầng hầm, công 
trình ngầm... cho nhà cao tầng hiện nay rất phổ biến. 
Nhưng những giải pháp văng chống hiện tại chỉ áp 
dụng cho công trình có khẩu độ nhỏ và vừa. Do vậy 
việc đưa dầm Bailey vào áp dụng trong thực tế thi 
công là một hướng đi mới có tính khả thi cao nhất là 
đối với hố móng có khẩu độ vượt rộng. 
Trong bài viết này, tác giả đã nghiên cứu “Giải 
pháp thi công tầng hầm bằng cách dùng dầm Bailey 
lắp trực giao để văng chống hố móng” với mục đích 
để thi công các hố đào sâu kích thước lớn và như đã 
phân tích ở trên, phương án này có nhiều ưu điểm 
về kinh tế kỹ thuật: 
- Đã đề xuất được giải pháp văng chống hố 
móng dùng dầm Bailey lắp trực giao. Với giải pháp 
này kết hợp với một số cột chống tạm có thể văng 
chống hố móng có khẩu độ bất kỳ; 
- Đã nghiên cứu, lắp đặt được một nút trực giao 
trực tiếp tại xưởng sản xuất công ty Thanh Bailey 
hoàn toàn sử dụng các cấu kiện có sẵn của dầm 
Bailey, không phải chế tạo thêm các cấu kiện đặc 
biệt nên tiết kiệm được chi phí vật liệu; 
- Với phương pháp thi công này giúp cho chủ 
đầu tư rút ngắn được thời gian thi công, chất lượng 
công trình được kiểm soát tốt hơn do thi công công 
trình được liên tục từ dưới lên trên và hạn chế tối đa 
được những vị trí để chờ ghép nối. Đồng thời thông 
qua công tác quan trắc khi phát hiện ra biến dạng 
tường chắn vượt quá giới hạn thì có thể kịp thời xử lý 
văng chống bổ sung dễ hơn một số các phương 
pháp khác. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Đỗ Ngọc Anh, Nguyễn Văn Mạnh, Đỗ Quang Phích 
(2007), “Phương pháp số chương trình Plaxis”, Nhà 
Xuất bản Xây dựng, Hà Nội. 
[2] Nguyễn Việt Anh (2008), “Nghiên cứu hố đào sâu với 
các mô hình tính toán khác nhau”, luận văn thạc sỹ kỹ 
thuật chuyên ngành địa kỹ thuật xây dựng. 
[3] Nguyễn Đăng Bích, Nguyễn Thế Đệ, Nguyễn Anh 
Tuấn (2012), “Giải pháp dùng dầm Bailey để văng 
chống hố móng xây dựng nhà cao tầng”, Trang tin 
trường Đại học xây dựng và kiến trúc Hồng Hà. 
[4] Đỗ Đình Đức (2004), “Kỹ thuật thi công tập 1”, Nhà 
Xuất bản Xây dựng, Hà Nội. 
[5] Nguyễn Văn Quảng (2008), “Chỉ dẫn thiết kế và thi 
công cọc Barét, tường trong đất và neo trong đất”, Nhà 
Xuất bản Xây dựng, Hà Nội. 
[6] Nguyễn Thanh Sơn (2010), “Nghiên cứu khả năng áp 
dụng công nghệ neo xoắn trong công tác thi công hố 
đào sâu cho một vài khu vực thành phố Hà Nội”, luận 
văn thạc sỹ kỹ thuật chuyên ngành địa kỹ thuật xây 
dựng. 
[7] Nguyễn Đình Thám (2002), “Công tác đất và thi công 
bê tông toàn khối”, Nhà Xuất bản KHKT. 
[8] Công ty Cổ phần Xây dựng Thanh Tùng Bailey, số 
710, ấp Ngũ Phúc, Hố Nai 3, Trảng Bom, Đồng Nai. 
Ngày nhận bài:13/10/2016. 
Ngày nhận bài sửa lần cuối:15/12/2016. 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 4/2016 65 
NGHIÊN CỨU SỰ LÀM VIỆC CỦA CỌC ĐƠN THÔNG QUA 
HIỆU CHỈNH ĐƯỜNG CONG T-Z ỨNG VỚI SỐ LIỆU NÉN TĨNH CỌC 
ThS. NCS. PHẠM TUẤN ANH 
Trường Đại học Công nghệ GTVT 
PGS.TS. NGUYỄN TƯƠNG LAI 
Học Viện kỹ thuật quân sự 
TS. TRỊNH VIỆT CƯỜNG 
Viện KHCN Xây dựng 
Tóm tắt: Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu 
sự làm việc của cọc đơn thông qua việc sử dụng 
đường cong T-Z. Hiện nay, các thiết bị thí nghiệm 
hiện đại cho phép đo đạc chính xác biến dạng dọc 
thân cọc trong các thí nghiệm nén tĩnh cọc. Như 
vậy, ngoài kết quả chuyển vị đỉnh cọc, ta hoàn toàn 
xác định được sự phân bố tải trọng nén dọc theo 
thân cọc, từ đó hiệu chỉnh được đường cong T-Z 
cho gần đúng với sự làm việc của cọc thật. Việc 
hiệu chỉnh này giúp cho người thiết kế có được mô 
hình tính cọc theo đường cong T-Z dạng đơn giản 
mà vẫn đảm bảo độ chính xác và tin cậy của kết 
quả tính. 
Từ khóa: Cọc đơn, tương tác cọc – đất, hiệu 
chỉnh đường cong T-Z. 
1. Đặt vấn đề 
Trong bài toán tương tác giữa cọc với đất nền, 
ta có thể sử dụng mô hình Winkler với lò xo phi 
tuyến, tuân theo quy luật đường cong T-Z để phân 
tích cọc chịu tải trọng đứng, đường cong này thể 
hiện mối quan hệ giữa ma sát bên/chuyển vị thân 
cọc cũng như phản lực mũi/chuyển vị mũi cọc. 
Mô hình đường cong T-Z đã được chấp nhận 
trong một số tiêu chuẩn như AASHTO (1998) LRFD 
Bridge Design Specifications [7], được hiệp hội dầu 
khí Mỹ API khuyến cáo để xác định độ lún cọc đơn 
dưới tải trọng làm việc. 
Lý thuyết và các dạng đường cong T-Z được 
nhiều nhà khoa học công bố như Coyle và Reese 
(1966)[3], Duncan và Chang (1970)[5], Randolph và 
Wroth (1978)[6]. 
Các dạng đường cong này thường được cho 
dưới dạng phương trình và sử dụng các chỉ tiêu cơ 
lý của đất để xác định tham số. Tuy nhiên khi áp 
dụng các đường cong này vào tính toán trong điều 
kiện cụ thể các khu vực của Việt Nam thường cho 
sai số lớn so với kết quả quan trắc. 
Xuất phát từ vấn đề này, bài báo trình bày 
phương pháp xây dựng và hiệu chỉnh đường cong 
T-Z dựa vào kết quả nén tĩnh đến phá hoại một số 
cọc khoan nhồi. Kết quả của bài báo cho phép các 
kỹ sư thiết kế nền móng ứng dụng các mô hình 
đường cong T-Z hiệu chỉnh này vào trong thiết kế 
công trình ở các công trình có điều kiện địa chất và 
công nghệ thi công cọc tương tự. 
2. Cơ sở lý thuyết 
2.1 Mô hình đường cong T-Z 
Có rất nhiều dạng mô hình đường cong T-Z 
khác nhau ứng với loại đất và trạng thái của đất. 
Trong phạm vi nghiên cứu, bài báo sử dụng dạng 
phương trình đường cong T-Z do Reese (1966)[3] 
đề xuất để minh họa. 
Với d là cạnh cọc vuông hoặc đường kính cọc 
tròn. 
Mô hình đường cong này gồm 2 đoạn, đàn hồi 
tuyến tính và chảy dẻo. Giá trị tải trọng giới hạn của 
giai đoạn đàn hồi là Tmax, ứng với nó là chuyển vị 
giới hạn đàn hồi Zcr. Khi tải trọng tác dụng lớn hơn 
Tmax, giữa đất và cọc xảy ra hiện tượng trượt cục 
bộ, khi đó tải trọng không tăng nhưng biến dạng 
tăng dần. Độ cứng lò xo sẽ giảm dần đến giới hạn 
bền của đất. 
a – Sức kháng bên b-Sức kháng mũi 
Hình 1. Mô hình đường cong T-Z 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 1487666348nguyendangbich_1721.pdf 1487666348nguyendangbich_1721.pdf