Giải pháp thu hút đầu tư của doanh nghiệp vào lĩnh vực nông nghiệp tại các tỉnh đồng bằng sông Hồng

- Hoàn thiện và điều chỉnh quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung tại khu vực đồng bằng sông Hồng (trong đó đặc biệt quy hoạch đất đai sản xuất nông nghiệp) để tạo niềm tin và sức hấp dẫn cho các doanh nghiệp. Xây dựng mô hình hợp tác nhằm đảm bảo quyền lợi khi người dân chuyển giao quyền sử dụng đất cho nhà đầu tư thông qua phương án hợp tác kinh doanh, gắn liền với đảm bảo khả năng sử dụng đất ổn định, lâu dài theo quy hoạch, kế hoạch sản xuất của nhà đầu tư. Đơn giản, minh bạch hóa thủ tục hành chính khi chuyển quyền sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho nhà đầu tư; tạo điều kiện thuận lợi trong cấp phép để các nhà đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh trên đất đai. Thực hiện hỗ trợ kinh phí từ nguồn vốn ngân sách hoặc các nguồn vay ưu đãi khác để giải phóng mặt bằng, đền bù tài sản trên đất cho người dân để đưa đất vào góp vốn kinh doanh. - Xây dựng chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp nông nghiệp khi bị tổn thất do thiên tai, gặp rủi ro do biến động thị trường nông sản. Cần tiếp tục nghiên cứu giải pháp huy động các nguồn lực trong và ngoài NSNN hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng nông nghiệp (hệ thống đường, kho bãi, tưới tiêu ), tăng khả năng phòng chống thiên tai, biến động giá nông sản, dịch bệnh; trích lập và sử dụng có hiệu quả quỹ bảo hiểm nông nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp khi gặp các biến động này. - Xây dựng các quỹ đầu tư phát triển nông nghiệp theo các định hướng ưu tiên thu hút đầu tư nông nghiệp. Thông qua các quỹ này thực hiện tài trợ các dự án nông nghiệp, hỗ trợ tín dụng đầu tư cho các doanh nghiệp trên cơ sở đảm bảo ưu tiên phát triển và hiện thực hóa các quy hoạch nông nghiệp được đã được phê duyệt. Ưu đãi được thực hiện đối với doanh nghiệp tuân thủ các điều kiện sản xuất nông nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững tại Đồng bằng sông Hồng.

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 323 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải pháp thu hút đầu tư của doanh nghiệp vào lĩnh vực nông nghiệp tại các tỉnh đồng bằng sông Hồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
6 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion GIẢI PHÁP THU HÚT ĐẦU TƯ CỦA DOANH NGHIỆP VÀO LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP TẠI CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG Nguyễn Thị Thanh Tâm* Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 2/3/2020 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 4/9/2020 Ngày bài báo được duyệt đăng: 25 /9/2020 Tóm tắt: Trong những năm vừa qua, những thành tựu khoa học kỹ thuật được ứng dụng trong ngành nông nghiệp đã tạo ra sự phát triển nhanh chóng, hình thành động lực thúc đẩy tăng trưởng và góp phần giữ gìn ổn định tại nhiều quốc gia. Là một nước nông nghiệp, giá trị ngành nông nghiệp chiếm khoảng 20% GDP, với nhiều tiềm năng về nông nghiệp như đất đai và lực lượng lao động đông đảo, vấn đề thu hút đầu tư phát triển nông nghiệp luôn được chú trọng trong chính sách kinh tế - xã hội của Việt Nam. Đồng bằng sông Hồng là khu vực nông nghiệp lớn nhất phía Bắc, do đó cần phải có bước đột phá để thu hút đầu tư của doanh nghiệp phát triển nông nghiệp. Từ khóa: Giải pháp, thu hút, nông nghiệp; đầu tư; đồng bằng sông Hồng. * Học viện Chính trị khu vực I 1. Thu hút đầu tư của doanh nghiệp cho nông nghiệp Đầu tư là nhân tố không thể thiếu để phát triển, là chìa khóa của sự tăng trưởng kinh tế. Các nguồn lực được sử dụng để đầu tư có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, trí tuệ... Trong cơ chế thị trường, hoạt động đầu tư có thể do những chủ thể khác nhau (cá nhân, tổ chức) tiến hành và ngày càng phong phú, đa dạng cả về tính chất và mục đích. Đầu tư của doanh nghiệp là việc đưa các nguồn lực vào một hoạt động nào đó nhằm mục đích thu lại một khoản giá trị lớn hơn. Đầu tư của doanh nghiệp vào một lĩnh vực kinh tế chính là đầu tư kinh doanh. Theo Khoản 5, Điều 3, Luật Đầu tư năm 2014 của Việt Nam: “Đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư”. Nông nghiệp là một lĩnh vực kinh tế đặc thù và rất đa dạng. Người nông dân sống trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp gắn liền với nông thôn, sản xuất gắn liền với thiên nhiên, với môi trường và gặp nhiều rủi ro, nhất là với những nước chưa phát triển, khoa học kỹ thuật còn lạc hậu và trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Nông dân là những người sản xuất, vừa là những Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Mở Hà Nội 71 (9/2020) 6-10 7Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion người tiêu thụ sản phẩm của chính bản thân họ làm ra. Bởi vậy, tính phối hợp trong một chuỗi sản xuất còn thiếu chặt chẽ (cung ứng vật tư, chế biến, tiêu thụ sản phẩm) còn ở mức độ thấp, đóng góp từ lĩnh vực nông nghiệp và thu nhập quốc dân chưa cao và không ổn định. Xuất phát từ vai trò, tầm quan trọng của nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế - quốc tế cho thấy việc thu hút đầu tư của doanh nghiệp vào lĩnh vực nông nghiệp là hết sức cần thiết. Cụ thể: - Thứ nhất, thu hút đầu tư của doanh nghiệp vào lĩnh vực nông nghiệp góp phần khai thác tiềm năng, lợi thế về nông nghiệp của địa phương. Đầu tư của doanh nghiệp giữ một vị trí hết sức quan trọng trong việc phát triển và huy động các nguồn lực của xã hội vào khai thác tiềm năng, thế mạnh của địa phương trong lĩnh vực nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm phục vụ đời sống, đảm bảo nguồn nguyên liệu cho các ngành công nghiệp khác, tạo ra nguồn thu khi xuất khẩu nông phẩm. - Thứ hai, thu hút đầu tư của doanh nghiệp vào nông nghiệp góp phần giảm thiểu rủi ro, gia tăng năng lực trong sản xuất nông nghiệp. Nông nghiệp là ngành sản xuất chứa đựng nhiều nguy cơ rủi ro cao. Gắn liền với tự nhiên, nên các yếu tố rủi ro trong nông nghiệp thể hiện qua việc quá trình sản xuất phụ thuộc vào điều kiện thời tiết, biến đổi khí hậu, các loại dịch bệnh và biến động thị trường nông sản. Nông nghiệp và nông dân có mối quan hệ hết sức chặt chẽ, sự gắn kết quyền lợi giữa doanh nghiệp và nông dân tạo ra cơ chế để cả hai bên nỗ lực trong giảm thiểu rủi ro để bảo vệ lợi ích của chính mình và đối tác. - Thứ ba, thu hút đầu tư của doanh nghiệp vào nông nghiệp góp phần tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm nông nghiệp; mở rộng thị trường và ứng dụng các tiến bộ khoa học và công nghệ. Thông qua thu hút đầu tư của doanh nghiệp vào sản xuất và những hỗ trợ đối với nông dân của họ, nền sản xuất nông nghiệp có điều kiện để áp dụng những thành tựu KH&CN tiên tiến vào quá trình sản xuất. Thông thường, nếu sản xuất ở quy mô nhỏ lẻ, người nông dân không có đủ nguồn lực tài chính, kỹ thuật để đầu tư vào các khâu như tạo giống, thu hoạch, bảo quản sau thu hoạch, chế biến và phát triển thương hiệu. Để thu hút đầu tư của doanh nghiệp vào lĩnh vực nông nghiệp ở các địa phương, cần thực hiện những nội dung sau: - Xây dựng chiến lược (strategy) thu hút đầu tư của doanh nghiệp trên cơ sở quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung - Xây dựng và tổ chức thực thi các chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp - Thu hút các nguồn lực của doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh trong nông nghiệp 2. Thực trạng đầu tư của doanh nghiệp vào lĩnh vực nông nghiệp Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện nay, cả nước có khoảng hơn 49.600 doanh nghiệp (DN) đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, chiếm khoảng 8% tổng số DN đang hoạt động. Tuy nhiên, các DN trực tiếp sản xuất các sản phẩm nông, lâm, thủy sản chỉ chiếm khoảng 1% tổng số DN với số lượng 7.600 DN; còn lại là các DN trong chuỗi các ngành 8 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion liên quan đến nông nghiệp như chế biến hàng; cung cấp nguyên liệu đầu vào, DN dịch vụ thương mại... Cũng theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, có khoảng 90% DN đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp là DN tư nhân; còn lại là các DN nhà nước, DN FDI. Nguồn vốn của DN hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp chỉ chiếm khoảng 8% đến 10% tổng nguồn vốn của toàn khu vực DN. Trong đó, vốn của các DN trực tiếp sản xuất chỉ chiếm khoảng 1%. Trên thực tế, hiện đang có khá nhiều chính sách ưu đãi nhằm thu hút DN đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, trong thực tế, những ưu đãi này chưa đủ sức hấp dẫn nên hiệu quả thu hút DN đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn chưa cao. Để cải thiện tình hình này, mới đây, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 53/NQ-CP về giải pháp khuyến khích, thúc đẩy DN đầu tư vào nông nghiệp hiệu quả, an toàn và bền vững. Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2011 – 2020 xác định: Xây dựng vùng Đồng bằng sông Hồng thực sự là địa bàn tiên phong của cả nước thực hiện các “đột phá chiến lược”, tái cấu trúc kinh tế, đổi mới thành công mô hình tăng trưởng, trở thành đầu tàu của cả nước về phát triển kinh tế. Hầu hết các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng (Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Hải Dương, Ninh Bình,) đi đầu cả nước trong việc dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất để hình thành cánh đồng lớn, đưa cơ giới hóa vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động, từ đó hình thành các vùng sản xuất tập trung, như: vùng trồng cà rốt ở Gia Bình rộng 700 ha và vùng trồng khoai tây ở Quế Võ rộng gần 1.500 ha (Bắc Ninh); vùng trồng cà rốt ở Cẩm Giàng (Hải Dương) rộng trên 500 ha, vùng trồng hành, tỏi tại Kinh Môn (Hải Dương) rộng trên 3.000 ha; vùng trồng hoa, cây cảnh ở Văn Giang (Hưng Yên) rộng trên 250 ha, Công ty cổ phần Tập đoàn TH đang nghiên cứu, xây dựng Khu nông nghiệp công nghệ cao tại khu vực bãi bồi sông Đáy; bãi bồi ven sông và cù lao sông Hồng qua địa phận các huyện Phúc Thọ, Đan Phượng, Mê Linh và các quận Bắc Từ Liêm, Tây Hồ, Long Biên và Hoàng Mai. Công ty cổ phần trang trại Bảo Châu (huyện Sóc Sơn), một trong những đơn vị tiên phong thực hiện nuôi lợn hữu cơ theo công nghệ vi sinh hữu hiệu (EM-Eff ective) của Nhật Bản. Chương trình có quy mô chăn nuôi thường xuyên 250 lợn nái sinh sản và 3.000 lợn thương phẩm chăn nuôi sinh học; chuỗi khép kín và toàn bộ sản phẩm là thịt cấp đông được bán tại 88 cửa hàng tiện ích trên cả nước. Việc ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp được nhiều doanh nghiệp, hộ dân chủ động nghiên cứu, áp dụng, mang lại hiệu quả kinh tế cao, như: mô hình nuôi cá bằng phương pháp sống trong ao tại Hà Nam, Hải Dương, Hưng Yên; mô hình trồng rau theo công nghệ tưới tiết kiệm của Israel tại nhiều tỉnh; mô hình lúa – rươi ở Quảng Ninh; mô hình nuôi trồng đông trùng hạ thảo ở Bắc Ninh; mô hình nuôi tôm trong bể tại Nam Định, mô hình trồng các giống dưa thơm Kim hoàng hậu, Kim Cô Lương, Kim Vương nhập khẩu được sản xuất trong nhà lưới, nhà màn quy mô nông hộ, trồng trên giá thể; sử dụng hệ thống tưới nhỏ giọt và bón phân tự động của Israel; áp dụng công thức dinh dưỡng thủy canh, cung cấp theo nhu cầu của cây trồng. 9Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion Tại vùng Đồng bằng sông Hồng, một số tỉnh đã xây dựng thành công một số mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ, tạo ra các sản phẩm sạch, an toàn, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng như: Mô hình sản xuất rau, củ quả theo hướng hữu cơ của Công ty trách nhiệm hữu hạn Dịch vụ thương mại nông nghiệp công nghệ cao Thiên Trường 36, xã Đông Tiến (Đông Sơn – Thanh Hóa) có diện tích 3,2 ha, trồng các loại rau cải, dền, muống, mồng tơi, cà chua, dưa lê, dưa chuột bao tử, dưa Kim Hoàng hậu... Mỗi luống cây trồng đều được gắn bảng thông tin về quá trình sinh trưởng, như: Ngày xuống giống, ngày bón phân, ngày dự kiến thu hoạch...; Mô hình sản xuất lúa gạo theo hướng hữu cơ của Công ty cổ phần Mía đường Lam Sơn, diện tích 283 ha trên địa bàn thị trấn Vạn Hà (Thiệu Hóa) cũng là một trong số ít những mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ mang lại hiệu quả và giá trị kinh tế cao; Mô hình rau hữu cơ tại xã Trác Văn (huyện Duy Tiên) đã và đang tạo ra được giá trị lớn và sự tin tưởng của người tiêu dùng, nhãn hiệu sản phẩm đã được định vị trong chuỗi liên kết tiêu dùng. Hiện nay, vùng Đồng bằng sông Hồng đã hình thành một số khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nhưng hiệu quả đạt được chưa cao. Nguyên nhân chủ yếu là do: Chính quyền cơ sở chưa đủ quyết tâm; lựa chọn mô hình, sản phẩm để sản xuất chưa phù hợp; khả năng tài chính chưa đủ mạnh để thực hiện đầu tư hạ tầng và thu hút doanh nghiệp. Một số địa phương có khả năng về tài chính nhưng lại sai lầm trong lựa chọn công nghệ (công nghệ lạc hậu hoặc công nghệ quá cao), cũng như chi phí đầu tư, vận hành quá đắt đỏ dẫn đến sản xuất không hiệu quả. Điển hình như: Các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở Hà Nội, Hải Phòng được đầu tư hàng chục tỷ đồng để nhập công nghệ trọn gói của nước ngoài, tuy nhiên quá trình chuyển giao công nghệ chậm, chi phí vận hành quá cao nên thất bại. 3. Kiến nghị thu hút đầu tư của doanh nghiệp cho lĩnh vực nông nghiệp Nông nghiệp là lĩnh vực đặc biệt quan trọng, tạo sự ổn định xã hội và nâng cao chất lượng sống cho người nông dân, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Theo đánh giá của các chuyên gia, ngành nông nghiệp muốn bứt phá, muốn trở thành trụ đỡ vững chắc, không thể tách rời doanh nghiệp. Do đó, phải thu hút bằng được doanh nghiệp vào đầu tư. Từ thực tiễn và lý luận, bài viết cho rằng cần thực hiện một số biện pháp sau để thu hút thêm đầu tư của doanh nghiệp vào lĩnh vực nông nghiệp: - Thực thi có hiệu quả các chính sách của Trung ương/tỉnh để thu hút đầu tư của doanh nghiệp vào lĩnh vực nông nghiệp: làm rõ trách nhiệm của các Sở/ngành tránh sự rườm rà về thủ tục hành chính gây phiền hà, khó khăn cho doanh nghiệp, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư. Thường xuyên rà soát, báo cáo kịp thời Chính phủ quyết định thay đổi, bổ sung việc điều chỉnh tăng hoặc giảm mức hỗ trợ, đối tượng hỗ trợ phù hợp với từng dự án mang tính đặc thì, từng giai đoạn phát triển và đặc điểm từng dự án sản xuất nông nghiệp. - Cần xây dựng chính sách khuyến khích đầu tư vào một số ngành có ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến, các dự án đầu tư vào phát triển công nghệ bảo quản sau thu hoạch, chế biến nhằm tăng sức cạnh tranh, giá trị gia tăng và khả năng tham gia mạng sản xuất 10 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion và chuỗi giá trị nông sản toàn cầu. Xác định rõ việc ưu tiên thu hút doanh nghiệp sử dụng công nghệ cao thân thiện với môi trường trong các dự án nông nghiệp. - Hoàn thiện và điều chỉnh quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung tại khu vực đồng bằng sông Hồng (trong đó đặc biệt quy hoạch đất đai sản xuất nông nghiệp) để tạo niềm tin và sức hấp dẫn cho các doanh nghiệp. Xây dựng mô hình hợp tác nhằm đảm bảo quyền lợi khi người dân chuyển giao quyền sử dụng đất cho nhà đầu tư thông qua phương án hợp tác kinh doanh, gắn liền với đảm bảo khả năng sử dụng đất ổn định, lâu dài theo quy hoạch, kế hoạch sản xuất của nhà đầu tư. Đơn giản, minh bạch hóa thủ tục hành chính khi chuyển quyền sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho nhà đầu tư; tạo điều kiện thuận lợi trong cấp phép để các nhà đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh trên đất đai. Thực hiện hỗ trợ kinh phí từ nguồn vốn ngân sách hoặc các nguồn vay ưu đãi khác để giải phóng mặt bằng, đền bù tài sản trên đất cho người dân để đưa đất vào góp vốn kinh doanh. - Xây dựng chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp nông nghiệp khi bị tổn thất do thiên tai, gặp rủi ro do biến động thị trường nông sản. Cần tiếp tục nghiên cứu giải pháp huy động các nguồn lực trong và ngoài NSNN hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng nông nghiệp (hệ thống đường, kho bãi, tưới tiêu), tăng khả năng phòng chống thiên tai, biến động giá nông sản, dịch bệnh; trích lập và sử dụng có hiệu quả quỹ bảo hiểm nông nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp khi gặp các biến động này. - Xây dựng các quỹ đầu tư phát triển nông nghiệp theo các định hướng ưu tiên thu hút đầu tư nông nghiệp. Thông qua các quỹ này thực hiện tài trợ các dự án nông nghiệp, hỗ trợ tín dụng đầu tư cho các doanh nghiệp trên cơ sở đảm bảo ưu tiên phát triển và hiện thực hóa các quy hoạch nông nghiệp được đã được phê duyệt. Ưu đãi được thực hiện đối với doanh nghiệp tuân thủ các điều kiện sản xuất nông nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững tại Đồng bằng sông Hồng. Tài liệu tham khảo: [1]. Nguyễn Sinh Cúc (2013), “Tổng quan nông nghiệp, nông thôn Việt Nam sau 25 năm thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (khóa VI)”, Tạp chí Kinh tế và quản lý, số 11/2013 [2]. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2018), Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Động lực mới cho phát triển nông nghiệp Việt Nam hiện nay”, tài liệu lưu hành nội bộ, Hà Nội [3]. Vũ Văn Hùng (2018), “Một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong xây dựng chính sách đất nông nghiệp ở Việt Nam”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (266). [4]. Ngân hàng Nhà nước (2017), “Kết quả thực hiện chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn”, Kỷ yếu Hội nghị toàn quốc thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, Hà Nội. [5]. Đặng Kim Sơn (2012), Phát triển nông nghiệp, nông thôn - Từ lý thuyết áp dụng cho chính sách và chiến lược Việt Nam: Các lý thuyết kinh tế vận dụng vào Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. [6]. Erinch Sahan (2012), Private Investment in Agriculture: Why it’s essential, and what’s needed (Đầu tư tư nhân trong nông nghiệp: Sự cần thiết và những vấn đề đặt ra), Oxford, UK: Oxfam GB for Oxfam International, September 2012. Đại chỉ tác giả: Học viện Chính trị khu vực I Email: tampvhn@yahoo.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgiai_phap_thu_hut_dau_tu_cua_doanh_nghiep_vao_linh_vuc_nong.pdf