Mục lục
Lời nói đầu 3
Phần 1: Khái quát về hoạt động xuất khẩu và vị trí của ngành
thuỷ sản trong nền kinh tế quốc dân 4
1. Khát quát về hoạt động xuất khẩu 4
1.1. Thực chất hoạt động xuất khẩu 4
1.2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong xu thế hội nhập 5
1.3. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu 5
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu 7
2.Vị trí của ngành thuỷ sản trong nền kinh tế quốc dân 8
2.1. Cung cấp những sản phẩm tiêu dùng cho dân cư và nguyên liệu cho
ngành khác 8
2.2. Đóng góp quan trọng trong tăng trưởng toàn ngành nông, lâm,
ngư nghiệp 9
2.3. Tham gia vào xuất khẩu thu ngoại tệ cho đất nước 9
2.4. Phát triển ngành thuỷ sản góp phần vào phát triển kinh tế đất nước 9
Phần 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu của ngành thuỷ sản Việt
Nam 11
1. Tình hình xuất khẩu của ngành thuỷ sản Việt Nam 11
1.1. Tỷ lệ cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu 11
1.2. Thị trường xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam 13
1.3. Giá cả của các mặt hàng xuất khẩu 17
2. Tác động của xu thế hội nhập tới xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam 18
2.1. Những cơ hội 18
2.2. Những thách thức 21
3. Đánh giá chung 23
Phần 3: Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của ngành thuỷ sản 28
1. Xu hướng phát triển thị trường xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam 28
2. Các giải pháp 29
3. Các kiến nghị 34
KÕt luận 36
Tài liệu tham khảo 37
41 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2029 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của ngành thuỷ sản Việt Nam trong xu thế hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o dân téc; trợ giúp cho việc xoá bỏ tập quán du canh du cư của đồng bào. Ngoài ra tiêu dùng thuỷ sản ở đây là trực tiếp cải thiện dinh dưỡng bữa ăn, tăng cường sức khoẻ cho mọi người. Đối với một số vùng biển, vùng ngập nước hay đất liền, phát triển thuỷ sản cũng góp phần vào phát triển ngành du lịch văn hoá và du lịch sinh thái.
PHẦN 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA NGÀNH THUỶ SẢN VIỆT Nam
1. Tình hình xuất khẩu của thuỷ sản Việt Nam
1.1. Tỷ lệ cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu
Cùng với sự tăng trưởng nhanh của kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu cũng không ngừng tăng lên. Nếu như cách đây 20 năm Việt Nam hầu như chưa xuất khẩu cá thì đến nay xuất khẩu cá lại chiếm một vị trí quan trọng và chỉ đứng thứ hai sau tôm.
Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu gồm: tôm đông lạnh, cá đông lạnh, mực, bạch tuộc, hàng khô và hải sản khác.
Trong đó, tôm là mặt hàng chủ lực, có sức cạnh tranh cao nhất. Sản lượng tôm xuất khẩu chiếm gần 25% về khối lượng nhưng mang laị khoảng 45% về giá trị xuất khẩu thuỷ sản. Tuy nhiên, từ năm 1998 đến nay tỷ trọng tôm đã giảm đi rõ rệt. Tỷ lệ tôm xuất khẩu năm 1998 là 54,9%, đến năm 2001 là 43,8%, năm 2003 là 48,1% và tính đến sáu tháng đầu năm 2004 tỷ lệ này là 29,8%. Nguyên nhân là do chính sách đa dạng hoá các nguồn hàng xuất khẩu của ta làm tỷ trọng của tôm giảm, nhưng giá trị của tôm vẫn tăng. Tuy nhiên, tính đến đầu năm 2004 giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam đã giảm mạnh chủ yếu là do vụ kiện bán phá giá tôm vào Mỹ của DOC, giá trị xuất khẩu tôm vào thị trường Mỹ đã giảm những hơn 16% so với cùng kỳ năm ngoái.
Tiếp đó là cá, tỷ lệ xuất khẩu cá ngày càng tăng: năm 1998 tỷ lệ xuất khẩu cá là 11,4%, trong suốt thời gian đó đến nay tỷ lệ này không ngừng được tăng lên: năm 2000 là 12,8% đến 2003 là 20,6%.
Tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng khác cũng ngày càng tăng. Tỷ trọng xuất khẩu của các hải sản khác vào năm 1998 là 15,3% đến năm 2003 tỷ lệ trên là 22,9%.
Nhìn chung, tôm vẫn là mặt hàng chủ lực, có giá trị xuất khẩu cao nhất, sau đó đến cá. Song từ những năm gần đây, có sự chuyển dịch lớn trong cơ cấu: tỷ trọng xuất khẩu tôm giảm, trong đó tỷ trọng của cá thì ngày một tăng.
Tỷ lệ này có thể thấy trong bảng sau:
Bảng 1: Cơ cấu xuất khẩu thuỷ sản theo mặt hàng chủ yếu.
Đơn vị: %.
Các mặt hàng
1998
1999
2000
2001
2002
2003
6 tháng /2004
Tôm đông lạnh
54,9
51,3
44,2
43,8
46,9
48,1
29,8
Cá đông lạnh
11,4
12,1
12,8
15,8
21,7
20,6
14,6
Mực bạch tuộc
11,3
11,4
7,3
6,6
7,5
5,1
7
Hàng khô
7,1
7,3
15,6
11
7,6
3,3
4,8
Hải sản khác
15,3
17,9
20,1
22,8
16,3
22,9
43,8
Tổng sè
100
100
100
100
100
100
100
Nguồn: Bé thuỷ sản.
Biểu đồ 1: Cơ cấu xuất khẩu thuỷ sản theo mặt hàng
Giai đoạn: 1998-2004.
1.2. Thị trường xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
Trước đây, thuỷ sản Việt Nam với lượng hàng hoá Ýt ỏi, chất lượng thấp chỉ có một lối nhỏ ra thị trường thế giới, đó là thị trường Hồng Kông và Singapore. Đến nay, trên tám mươi nước và vùng lãnh thổ trên thế giới có sự hiện diện của sản phẩm thuỷ sản Việt Nam. Trong đó, có các thị trường lớn và khó tính nh EU và Mỹ. Cơ cấu xuất khẩu thể hiện trong bảng sau:
Bảng 2: Cơ cấu các thị trường xuất khẩu thuỷ sản chính
Đơn vị: %
Thị trường
1998
1999
2000
2001
2002
2003
Mỹ
12
14
21
28
32
38
Nhật
41
41
33
26
27
27
EU
13
9
7
6
3
6
TQ, HK
11
13
20
18
15
7
Loại khác
23
23
19
22
23
22
Tổng
100
100
100
100
100
100
Nguồn: Bé thuỷ sản
Biểu đồ 2: Cơ cấu thị trường xuất khẩu thuỷ sản chính
Dưới đây là thực trạng xuất khẩu thuỷ sản vào một số thị trường chính nh sau:
- Thị trường Nhật Bản
Đây là thị trưòng truyền thống, quan trọng của xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam. Tuy vậy cơ cấu thị trường đã có sự thay đổi lớn, thị trưòng Nhật Bản tăng về giá trị, nhưng tỷ trọng đã giảm dần từ 41% năm 1998 xuống 33%năm 2000,và chỉ còn 26% năm 2001 xuống vị trí thứ 2 sau Mỹ. Song đến năm 2004, do những biến động ở thị trường Mỹ, Nhật Bản lại là nước nhập khẩu nhiều thuỷ sản Việt Nam nhất. Giá trị xuất khẩu thuỷ sản của ta vào Nhật qua các năm như sau: năm 1998 là 357.5 triệu USD, năm 2001 là 465.9 triệu USD(tăng 30,32% so vơi năm 1998), năm2002 là 555,4 triệu USD(tăng 2003 là 650,9 triệu USD(tăng 82,1% so năm 1998). Nh vậy tuy có giảm về cơ cấu song về giá trị thì vẫn tăng đều.
Đối với nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản, Nhật Bản vẫn là thị trường chiếm vị trí quan trọng hàng đầu. Đến nay cả nước có hơn 150 doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Nhật với kim ngạch đạt khoảng 350 triệu USD/năm.
- Thị trường Mỹ
Từ năm 2001, Mỹ là thị trường nhập khẩu thuỷ sản chiếm vị trí số một đối với xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam và sẽ là thị trường triển vọng vì: thị trường này sức mua rất lớn, giá cả tương đối ổn định và đều có xu hướng tăng. Thị phần xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào Mỹ tăng nhanh từ 11,6% năm 1998 lên 27,81% năm 2001, 32% năm 2002 và tới 38% năm 2003. Song năm 2004, với vụ kiện bán phá giá tôm vào Mỹ đã tác động mạnh đến hoạt động nhập khẩu thuỷ sản làm khối lưọng và giá trị xuất khẩu thuỷ sản của ta vào thị trường Mỹ giảm đến 1/3 so với năm trước. Thị trường Mỹ vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các thị trường nhập khẩu thuỷ sản trước đây nay rớt xuống vị trí thứ hai. Về giá trị xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ thể hiện qua những con sè sau:
Bảng3: Xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ những năm gần đây
Đơn vị: triệu USD
1995
1998
2000
2001
2002
2003
6 tháng/2004
14.6
80.2
307.23
489.0
673.7
775.2
273.07
Nguồn: Niên giám thương mại 2005
Năm 1995 mới là 14.6 triêu USD, đến năm 1998 tăng 549,32% so vơí năm 1995 trong năm 2001 tăng 3304.12% so với năm 1995, tiếp đến năm 2002 tăng 219.28% so với năm 2000, và đến năm 2003 tăng 252.32% so với năm 2000. Nh vậy trong gần mười năm qua xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam liên tục tăng trưởng, tuy chỉ có từ sáu tháng đầu năm 2004 lượng tiêu thụ đã giảm chủ yếu do sản lượng xuất khẩu tôm sang thị trường Mỹ đã giảm mạnh. Từ vụ việc nh tên gọi catfish, bán phá giá cá tra, cá ba sa, tới vụ kiện tôm mà các hội nghề nghiệp Mỹ đã kiện cáo là một rào cản phức tạp ban đầu với vịêc xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ của Việt Nam. Đây là thách thức lớn với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam nếu còn muốn phát triển ở thị trường này. Hiện nay, Việt Nam đã có hơn 100 doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản qua Mỹ, là một con số lớn nhưng để duy trì và phát triển nó là điều không phải dễ.
- Thị trường EU
Là mét trong ba thị trường lớn nhất nhập khẩu thuỷ sản thế giới. Đây là thị trường khó tính với nhòng yêu cầu nghiêm ngặt về tiêu chuẩn chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm. Nhưng tỷ trọng hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất vào EU trong những năm qua không tăng và dao động ở mức 6,5%-10%, năm 2002 giảm xuống 3% (từ bảng 2) do ảnh hưởng của việc qui định quá mức về kiểm tra dư lượng kháng sinh và để giảm rủi ro nên các doanh nghiệp hạn chế xuất khẩu vào thị trường này. Tuy nhiên năm 2003 giá trị xuất khẩu EU tăng lên 153,2 triệu USD bằng 6% tổng kim nghạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam. Do các doanh nghiệp nước ta đang từng bước hoàn thiện tiêu chuẩn chất lượng: HACCP. Xét đến năm 2003: thị trường chính gồm Bỉ (bằng 29,2% tổng giá trị xuất khẩu EU), Italia (17,2%), Hà Lan (15,9%), Đức (15,4%), Anh (9,6%),v.v… EU đã công nhận và cho phép 153 doanh nghiệp Việt Nam hội đủ điều kiện để xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường này. Mặt khác, sản phẩm thuỷ sản của ta đang có ưu thế so với mặt hàng cùng loại của nước khác vì chúng ta ở trong danh sách GST. Tuy nhu cầu thị trường EU là tương đối ổn định, song tỷ trọng xuất khẩu của ta vào thị trường này là chưa cao, nhiều thị trường ta chưa tiếp cận được nh: Ailen, Phần Lan, Lucxambua,.v.v…
- Thị trường Trung Quốc, Hồng Kông
Là thị trường có tỷ trọng đáng kể và còn nhiều tiềm năng do vị trí địa lý gần Việt Nam, nhu cầu thuỷ sản rất lớn, yêu cầu đa dạng về chủng loại, không đòi hỏi quá khắt khe về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm như một số thị trường khác. Việc Trung Quốc gia nhập WTO cũng tạo điều kiện cho hàng thuỷ sản của Việt Nam đi nhanh vào thị trường này do Việt Nam được hưởng thuế suất như thành viên WTO. Đây là cơ hội tốt nhất cho các doanh nghiệp vừa và nhá tiếp cận. Song giá cả ở thị trường này thấp, lại chịu thuế suất cao(có mặt hàng chịu thuế tới 43%), nên tỷ trọng xuất tăng nhanh song chưa tương xứng với tiềm năng. Năm 1998 tỷ trọng hàng thuỷ sản xuất vào thị trường này chiếm 11%, năm 2002 tăng lên 15%, song năm 2003 lại giảm xuống 7% do nạn dịch SARS hoành hành. Với các số liệu sau:
Bảng 4: Xuất khẩu thuỷ sản vào Trung Quốc những năm gần đây
Năm
Giá trị kim ngạch xuất khẩu (triệu USD)
% trong kim ngạch
1998
90
10.56
1999
100
11.01
2000
290
13.3
2001
300
15.23
2002
332.8
16.21
2003
170.5
7
- Thị trường khác
Các nước Châu Á còn lại đã được quan tâm hơn với tỷ trong tăng lên đáng kể từ 12,5% năm 1998 lên 17,9 % năm 2002. Trong đó có một số thị trường quan trọng là Hàn Quốc và Đài Loan liên tục tăng trưởng. Nhưng ở một số thị trường nh Indonesia, Phillipins và cả Bắc Phi, khối lượng còng nh kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của ta tăng trưởng tương đối thấp, các mặt hàng không đa dạng.
Song nhìn chung, cơ cấu thị trường đã có sự thay đổi lớn theo xu hướng cân đối về thị trường, không quá lệ thuộc vào thị trường chính Nhật Bản, giảm hẳn tỷ lệ trung gian và bắt đầu giành được vị trí quan trọng trong các thị trường lớn thể hiện: tỷ trọng xuất khẩu vào Nhật Bản giảm, một số thị trường như EU, Trung Quốc-Hồng Kông và Mỹ ngày càng khẳng định được vị trí của mình.
1.3. Giá cả của các mặt hàng xuất khẩu
Cùng với quá trình đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, nâng cao chất lượng và tăng tỷ trọng hàng chế biến sâu trong xuất khẩu thuỷ sản, giá cả xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể. Năm 1997, giá tôm và cá đông lạnh xuất khẩu trung bình của Việt Nam chỉ là 5,93 USD/kg và 2,53 USD/kg, thì đến năm 1999 là USD/kg và 2,9USD/kg. Mặc dù, trong năm 2001-2003, giá tôm quốc tế rớt mạnh nhưng giá tôm Việt Nam vẫn giữ được ở mức cao: năm 2001 là 8,9 USD/kg và 3.0 USD/kg, của năm 2003 là 8,48 USD/kg và 3,07 USD/kg. Trong sáu tháng đầu năm 2004 giá tôm xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục giảm đi khoảng 10% do ảnh hưởng của vụ kiện bán phá giá tôm ở Mỹ. Tuy nhiên do tôm nhập khẩu chiếm tới 80% nhu cầu tôm ở Mỹ, nên dù Mỹ có tăng tỷ lệ nhập khẩu của các nước không bị kiện (các nước bị kiện là các nước xuất khẩu tôm lớn như: Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam, Ên Độ, Brazin,v.v), các doanh nghiệp Mỹ vẫn tiếp tục nhập khẩu tôm từ các nước bị kiện, giá tôm xuất khẩu sẽ tăng lên. Trên thực tế giá tôm xuất khẩu cuối năm 2004 đã tăng lên mạnh so với đầu năm.
Mặc dù, giá xuất khẩu thủy sản Việt Nam đã được nâng lên rõ rệt trong những năm vừa qua, nhưng nếu so với giá của các đối thủ cạnh tranh thì giá xuất khẩu của thủy sản Việt Nam vẫn còn thấp hơn. Chẳng hạn, tại thị trường Nhật Bản, hiện nay giá tôm xuất khẩu của Việt Nam là 833 Yên/kg, trong khi giá tôm của Thái Lan và Indonesia là 944-950 Yên/kg, vậy giá tôm của Việt Nam thấp hơn các nước trên 10%. Mét trong những nguyên nhân chính của tình trạng này là hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu và chế biến thủy sản của Việt Nam hiện chưa có thương hiệu riêng cho sản phẩm của mình và chủ yếu được tiêu thụ dưới nhãn hiệu của các nhà nhập khẩu, hay thương hiệu của hệ thống phân phối, siêu thị ở nước ngoài. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến giá xuất khẩu của thuỷ sản Việt Nam trong khi các nước xuất khẩu thuỷ sản trong khu vực như Thái Lan, Indonesia, là các đối thủ cạnh tranh lớn của Việt Nam, lại quảng bá được thương hiệu của mình. Thêm vào đó sau phán quyết của DOC biểu thuế áp dụng cho tôm của Thái Lan, Ên Độ, Brazin, Ecuado thấp hơn tương đối nhiều so với Việt Nam. Indonesia lâu nay là nguồn cung cấp tôm chủ yếu cho Nhật, không nằm trong vụ kiện này, lại đang chuyển hướng bán hàng vào thị trường Mỹ, nơi có lợi hơn trong xuất khẩu thuỷ sản so với Nhật. Trong các điều kiện trên, giá thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn so với sản phẩm cùng loại của Indonesia, Thái Lan và nhiều đối thủ cạnh tranh khác.
Mét trong những bất lợi khác về giá cả xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam là cơ cấu giá thành bất hợp lý, đặc biệt trong điều kiện có lợi thế về nguồn thuỷ sản, nhưng chi phí nguyên liệu đầu vào cho chế biến còn cao. Theo các số liệu điều tra tại các cơ sở chế biến và xuất khẩu thuỷ sản, chi phí nguyên liệu chiếm trung bình 70.1% tổng chi phí, còn lại 29,9% là các chi phí tiền công, khấu hao cơ bản, vận tải, giao dịch, quảng cáo, thuế. Trong đó, các chi phí vận tải, giao dịch, quảng cáo chỉ chiếm trên 1%. Chính vì vậy, mặc dù giá cả thuỷ sản xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đã được cải thiện đáng kể, nhưng hiệu quả thực tế của các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam hiện nay chưa được tương ứng.
2. Tác động của xu thế hội nhập đến xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
2.1. Những cơ hội
a, Mở rộng thị trường xuất khẩu và các đối tác thương mại
Chủ động điều chỉnh cơ chế, chính sách cho phù hợp với yêu cầu hội nhập và đổi mới. Thực hiện quản lý sản xuất đáp ứng các yêu cầu về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm theo yêu cầu của các thị trường. Vì vậy, hàng thuỷ sản Việt Nam ngày càng có vị thế trên thị trường quốc tế. Theo công bố mới đây của FAO, xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đạt mức tăng trưởng kỉ lục thế giới cao nhất từ trước đến nay tới 64,4%, từ vị trí thứ 19 năm 1999, đã vượt qua 8 bậc lên vị trí thứ 11 vào năm 2000, thứ 9 nào năm 2001, và đến năm 2002 là thứ 8 trên thế giới, hiện nay Việt Nam luôn trong tốp 10 nước xuất khẩu thuỷ sản nhiều nhất trên thế giới. Riêng xuất khẩu tôm năm 2003 đạt hơn 1 tỷ USD, băng 49% kim ngạch xuất khẩu cả nước, bằng 10% giá trị xuất khẩu tôm toàn cầu và đứng thứ 5 trên thế giới về xuất khẩu tôm.
Càng tham gia hội nhập kinh tế, đối tác thương mại sẽ càng quan tâm hơn đến hàng hoá Việt Nam nói chung trong đó có hàng thuỷ sản. Thực sù, hàng thuỷ sản Việt Nam có chất lượng tốt, giá cả có thể cạnh tranh, nên có thể nhanh chóng mở rộng bạn hàng. Thực tế xuất khẩu vào Mỹ đã chứng minh điều đó. Khi có BTA thì thương nhân Mỹ có quan tâm đến hàng hoá của Việt Nam nhiều hơn trong đó có thuỷ sản. Ngược lại, các doanh nghiệp thuỷ sản cũng quan tâm đến thị trường Mỹ nhiều hơn, bên cạnh việc đổi mới các trang thiết bị công nghệ, thực hiện các tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh nên ngày càng có nhiều doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Vì vậy, mặc dù về thuế nhập khẩu thuỷ sản khi có hiệp định ta không được hưởng lợi nhiều so vơí trước khi có hiệp định do thuế nhập khẩu các mặt hàng thuỷ sản trước đó hầu hết đều ở mức thấp nhất hoặc bằng 0, trừ đồ hộp cá ngừ, cá trích thuế giảm từ 45% xuống 35% và cá ngừ, cá trích từ 25% nay là 6%, nhưng sau 1 năm hiệp định có hiệu lực, kim nhạch xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ năm 2002 đạt 673.7 triệu, tăng 37,8% so với năm 2001-là con số tăng trưởng nhanh nhất so với các thị trường khác- và năm 2003 giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam là 775,2 triệu USD.
Tham gia hội nhập, khi thuỷ sản cũng như những sản phẩm khác được hưởng qui chế MFM, mức thuế nhập khẩu của các thành viên hạ thấp, tạo điều kiện cho hàng thuỷ sản xâm nhập vào thị trường các nước thành viên thuận lợi hơn. Điển hình là thị trường Trung Quốc, mặc dù xác định đây là thị trường lớn trên 1,2 tỷ dân, giáp biên giới nước ta, nhu cầu thuỷ sản đa dạng và không đòi hỏi chất lượng quá cao, nhưng tỷ trọng xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường này chênh lệch khá xa so với thị trường Mỹ và Nhật Bản, do thuế nhập khẩu thuỷ sản vào thị trường này cao: sản phẩm sống từ 10,5% đến 14%, sản phẩm tươi ướp đông chưa chế biến từ 12% đến 14%, sản phẩm sơ chế tươi, đông lạnh, chế biến khô từ 18% đến 22%. Vì chưa có thoả thuận với Trung Quốc trong kiểm tra chất lượng và kiểm dịch nên còn nhiêu ách tắc v.v… Theo thoả thuận khung khối mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc nước ta sẽ được hưởng qui chế tối huệ quốc, và được hưởng cơ chế thu hoạch sớm đối với nước thành viên mới của ASEAN, hàng thuỷ sản sẽ có điều kiện thâm nhập vào thị trường Trung Quốc với tốc độ nhanh hơn trong thời gian tới.
b, Tiếp thu công nghệ mới, phương thức quản lý tiên tiến
Những năm trước 1995 công nghệ sản xuất trong lĩnh vực thuỷ sản từ khai thác, nuôi trồng đến chế biến tuy đã được quan tâm đổi mới, nhưng tỷ trọng các đơn vị sản xuất dùa trên công nghệ và kỹ thuật tiên tiến còn thấp. Nuôi trồng thuỷ sản chủ yếu là nuôi các đối tượng truyền thống( mè, trôi, trắm, chép,v.v…) với phương thức quảng canh, hoặc quảng canh cải tiến, chưa quan tâm đến vệ sinh an toàn thực phẩm. Trong khai thác hải sản chủ yếu là tàu thuyền nhỏ, khi khai thác ven bờ, làm, cạn kiệt nguồn lợi ven bê. Trong chế biến có tới 70% cơ sở sản xuất với trang thiết bị cũ, lạc hậu, sản xuất theo công nghệ truyền thống, chủ yếu là sản phẩm khô và bán thành phẩm, chất lượng không cao. Vì vậy, xuất khẩu thuỷ sản chủ yếu là mặt hàng khô truyền thống.
Trong quá trình hội nhập kinh tế, thuỷ sản nhanh chóng tiếp thu công nghệ sản xuất hiện đại của các nước trong khu vực và trên thế giới, đồng thời áp dụng các kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Bé mặt của toàn ngành đã thay đổi một cách cơ bản. Nuôi trồng thuỷ sản ngày nay đã chuyển sang các mặt hàng có giá trị cao như: tôm sú, cá tra, cá ba sa, tôm càng xanh,v.v…Trong khai thác những tàu nhỏ nay đã được thay thế bằng những tàu trên 90CV trang bị tốt hơn, công nghệ tiên tiến hơn để có thể đi xa bê. Trong chế biến công nghệ sản xuất đã thay đổi một cách cơ bản, trên 60% cơ sở chế biến đã đầu tư mới và nâng cấp đầu tư chiều sâu với trang thiết bị tiên tiến, tiếp cận với trình độ của khu vực và trên thế giới. Các cơ sở chế biến này sản xuất và xuất khẩu trên 80% giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản. Tỷ trọng sản phẩm giá trị gia tăng ngày một tăng lên(đến nay đã đạt khoảng 35%), nhiều loại sản phÈm được bán thẳng vào các siêu thị lớn trên thế giới.
c, Đào tạo đội ngò cán bộ quản lý, cán bộ kinh doanh và rèn luyện đội ngò cán bộ trong môi trường kinh doanh quốc tế
Quá trình hội nhập kinh tế này nẩy sinh nhu cầu cấp bách phải có đội ngò cán bộ kinh doanh tiếp cận được yêu cầu của các tổ chức quốc tế, công ước quốc tế mà ta tham gia cũng như yêu cầu của các thị trường để ta chủ động đáp ứng các điều kiện đó. Và thực tế đã cho thấy, trình độ lao động trong ngành đã được nâng cao rất nhiều so với trước kia, thể hiện các doanh nghiệp của ta đã rất chủ động trong cạnh tranh quốc tế. Điển hình sau vụ kiện các doanh nghiệp cuả ta bán phá giá cá phi lê đông lạnh vào Mỹ, sản phẩm thuỷ sản của ta vừa thất bại, vừa chịu mức thuế cao(hấu hết các doanh nghiệp trong danh sách trắng chịu mức thuế từ 36,84-63,88%), thì trong vụ kiện bán phá tôm sau đó các doanh nghiệp của ta đã biết liên kết nhau lại, tuy vẫn thất bại nhưng ta phải chịu mức thuế thấp hơn so với quyết định sơ bộ ban đầu công bố ngày 6/7/2004(thuế đối với 32 doanh nghiệp trung bình là 4,38%, 6 doanh nghiệp khác chịu biên phá giá 25,76%). Nh vậy, Việt Nam vẫn có cơ hội xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ.
2.2. Những thách thức
Mặc dù, những điều kiện thị trường thuận lợi cùng với xu thế tự do hoá thương mại toàn cầu nói chung và với các sản phẩm nông nghiệp, thuỷ sản nói riêng đã tạo thuận lợi để thương mại hàng thuỷ sản thế giới ngày càng phát triển. Tuy nhiên, những thất bại tại các vòng đàm phán Seatle, Doha và nhất là tại hội nghị Cancun đã cho thấy những cản trở khó vượt qua để đạt tới tự do hoá thương mại toàn cầu về các sản phẩm nông nghiệp, thuỷ sản. Do vậy, tuy đã đạt được những thàng tựu cơ bản trong xuất khẩu thuỷ sản, song trong những năm tới Việt Nam sẽ vẫn gặp phải những thách thức lớn sau:
Thứ nhất, sản lượng xuất khẩu sẽ giảm nguyên nhân là nguồn lợi thuỷ sản tại nhiÒu ngư trường gần bờ giảm khá mạnh do khai thác quá giới hạn, mặt khác do nhiều địa phương vẫn để xảy ra tình trạng sử dụng thuốc nổ, chất độc trong khai thác thuỷ sản. Trình độ thuyền trưởng, máy trưởng và lao động nghề cá phục vụ khai thác xa bê được nâng lên chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu,v.v…
Thứ hai, tính cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu thuỷ sản giữa các nước đang phát triển sẽ ngày càng tăng lên dưới tác động của xu hướng tự do hoá thương mại và xu hướng tham gia thị trường thuỷ sản thế giới ngày càng tăng.
Thứ ba, dưới tác động của xu hướng tự do hoá thương mại, các nước phát triển (những nước nhập khẩu thuỷ sản chính trên thị trường thế giới) một mặt, thực hiện các cam kết cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan, các hàng rào thương mại, nhưng mặt khác, các nước này cũng đưa ra các qui định chặt chẽ hơn về an toàn thực phẩm, cũng như các biện pháp phòng vệ thương mại tạm thời. Điển hình là những qui định về dư lượng kháng sinh quá mức cần thiết và không có cơ sở khoa học (Chloramphenicol, Nitrofural,v.v…bằng 0), và yêu cầu giới hạn phát hiện của thiết bị kiểm 0,3 phần tỷ là dưới mức cần thiết, các nhà khoa học của Mỹ, EU và nhiều nước cũng phản ứng về qui định này tại các hội thảo về vệ sinh an toàn thực phẩm vì ngay trong nước tự nhiên cũng có thể có dư lượng kháng sinh, nên qui định bằng 0 là vô lý; Hơn thế nữa EU còn đốt các lô hàng bị nhiễm kháng sinh của ta dù mức độ nhiễm là rất nhỏ. Tương tự vậy, Mỹ vàCanada cũng áp dụng những qui định của EU. Việc gây khó khăn đối với việc xuất cá ba sa, cá tra của ta vào Mỹ cũng là một ví dụ: từ tuyên truyền làm giảm uy tín chất lượng cá của ta, cấm không cho mang tên cá Catfish, đến kiện hết cá lại sang tôm của ta bán phá giá v.v…Điều này đã gây khó khăn rất lớn đến xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
Thứ tư, những khó khăn, thách thức mới nẩy sinh từ các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam như nạn dịch SARS vừa rồi đã làm giảm mạnh sản lượng xuất khẩu của ta sang thị trường Trung Quốc từ chiếm 15% trong tỷ trọng năm 2002 giảm xuống 7% năm 2003. Đây là những nhân tố khách quan mà ta khó có thể tránh được.
Thứ năm, Việt Nam đang chịu bất lợi của các nước đi sau. Đó là những bất lợi về thiếu thông tin thị trường, năng lực quản lý, kinh nghiệm và kiến thức tiệp cận thị trường xuất khẩu, khả năng phát triển hệ thồng kinh doanh tại các thị trường nước ngoài, phản ứng chính sách thường chậm và kém hiệu quả, thường gặp nhiều rủi ro trong các cuộc canh tranh khu vực và trên toàn cầu.
Thứ sáu, năng lực cạnh tranh và tính năng động của nền kinh tế Việt Nam còn yếu, cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý, cơ chế thị trường vận hành còn thiếu sự thông suốt. Hệ thống tài chính tiền tệ - mét trong những yếu tố quyết định sự thành bại của hoạt động xuất nhập khẩu - chậm được đổi mới.
Thứ bẩy, nhiều văn bản quy phạm pháp luật còn đang được soạn thảo mới và việc điều chỉnh văn bản đã được triển khai nhưng còn chậm, chưa đáp ứng được tiến độ khi thực thi các cam kết quốc tế và đòi hỏi của thực tiễn như Pháp lệnh Thó Y, trong đó có nội dung về thuỷ sản, một số định mức tiêu chuẩn ngành và qui trình, quy phạm sản xuất tốt v.v…Đặc biệt là sự ra đời của luật thuỷ sản là một bươc ngoặt lớn song còng mang lại nhiều thách thức khó khăn không kém.
Cuối cùng, mặc dù công nghệ chế biến sản phẩm thuỷ sản không ngừng được đổi mới trong thời gian qua song đây vẫn là vấn đề lớn đối với toàn ngành thuỷ sản nói chung và với xuất khẩu thuỷ sản nói riêng. Còn trên 40% doanh nghiệp chế biến thuỷ sản Việt Nam trong tình trạng thiết bị lạc hậu, nhà xưởng xuống cấp, chưa đáp ứng được yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm. Trình độ công nghệ trong khai thác và nuôi trồng còn hạn chế đã ảnh hưởng tới sản lượng, chất lượng của các sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu. Theo Cục quản lý chất lượng an toàn vệ sinh và thó y thuỷ sản cho biết tính đến tháng 8/2005: trong 413 doanh nghiệp chế biến thuỷ sản có quy mô công nghiệp hiện nay chỉ có 244 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn ngành về điều kiện đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và được phép xuất khẩu vào các thị trường khác nhau. Số kượng doanh nghiệp được phép xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc nhiều nhất 305 doanh nghiệp; Canada là 243; Hàn Quốc là 237; EU là 152(2004).
3. Đánh giá chung
Giá trị kim ngạch xuất khẩu của thuỷ sản Việt Nam trong những năm gần đây liên tục tăng nhanh và chiếm tỷ trọng cao trong những năm gầm đây. Kim ngạch xuất khẩu năm 1998 là 818 triệu USD lên 1479 triệu năm 2000 tăng 180,81%, đến năm 2004 con số này là 2397 triệu USD tăng so với năm 2000 là162,1%, dự kiến con số này năm 2005 là 2733 triệu USD.
Bảng 5: Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam
Đơn vị: TriệuUSD
Các chỉ tiêu
1998
2000
2001
2002
2002
2004
2005
KN XK thuỷ sản
818
1479
1778
2014
2240
2397
2733
Tỷ lệ tăng so với năm(%).
-
80,8
20,2
13,3
11,2
7
14
Tỷ trọng so với tổng KNXK(%)
9,6
8,7
10,3
11,0
9,6
9,2
9
Nguồn: Niên giám thương mại Việt Nam
Biểu đồ 3: Kim nghạch xuất khẩu thuỷ sản VIệt Nam từ 1998-2005.
Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta, thuỷ sản luôn duy trì vị trí thứ 4 trong danh mục mặt hàng xuất khẩu có giá trị lớn hơn 1tỷ USD từ nhiều năm nay chỉ sau dầu thô, may mặc và giày dép. Xuất khẩu thuỷ sản cũng là một trong những động lực thúc đẩy tăng trưởng thuỷ sản cả nước. Về tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản cả nước dao động từ 8,2 đến 13,7%. Vậy tỷ trọng xuất khẩu thuỷ sản cả nước trong giai đoạn 1998-2005 không tăng so với tổng kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước, mặc dù xuất khẩu thuỷ sản luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao. Nguyên nhân là sự gia tăng nhanh trong tổng kim ngạch xuất khẩu chung của cả nước. Để thấy được sự phát triển của xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam xem xét từ vị trí thứ 19 trong kim ngạch các nước xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất trên thế giới vào năm 1999, lên vị trí thứ 11 năm 2000, lên vị trí 9 năm 2001, lên vị trí 8 năm 2002 và hiện nay luôn nằm trong tốp 10 nước xuất khẩu thuỷ sản nhiều nhất thế giới. Tỷ trọng của thuỷ sản Việt Nam trong tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản thế giới tăng lên nhanh chóng trong những năm vừa qua: năm 1992 tỷ trọng của Việt Nam là 0,7% thì các con số đó là 1,2%(1994), 1,6%(1998), và 3,2%(2001).
Từ những phân tích trên nhận thấy thuỷ sản Việt Nam có những ưu, nhược điểm:
a, Ưu điểm
- Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam chủ động trong cơ chế thị trường.
Thực hiện cơ chế “tự cân đối, tự trang trải “ ngành thuỷ sản từng bước chủ động trong huy động các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh không phụ thuộc quá nhiều vào ngân sách nhà nước. Điển hình là Seaprodex. Từ đó, hàng thuỷ sản Việt Nam đã không ngừng mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản thế giới.
Các nhà máy chế biến thuỷ sản xuất khẩu đã hình thành nên một đội ngò các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản năng động, sáng tạo trong quản lý với đội ngò công nhân lành nghề tạo ra các sản phẩm ngày càng an toàn hơn, chất lượng cao hơn, đẹp và đa dạng hơn.
- Chủ động điều chỉnh cơ chế quản lý đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực quản lý của ngành đã hình thành và thường xuyên được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp hơn với thực tiễn, ngày mét đáp ứng yêu cầu của WTO.
Kiểm soát an toàn vệ sinh ngày càng phù hợp với các yêu cầu của hội nhập.
Thực hiện cải cách hành chính, đổi mới trong quản lý nhà nước theo yêu cầu đổi mới, hội nhập, bảo đảm sử dụng bền vững tài nguyên giữ gìn môi trường.
- Chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng thuỷ sản.
Ngay từ những năm 80, với nhãn hiệu “Seaprodex”, thuỷ sản Việt Nam đã nhận được những giải thưởng quốc tế đầu tiên về chất lượng. Các qui định về vệ sinh an toàn thực phẩm thuỷ sản xuẩt khẩu đã được xây dựng theo tiêu chuẩn HACCP ngay từ những năm đầu của thập kỷ 90, bảo đảm điều kiện sản xuất tương đương ở các nước nhập khẩu.
Công tác rà soát văn bản, nghiên cứu về luật lệ, thủ tục thương mại, kinh doanh quốc tế và các Hiệp định song phương, đa phương đã ký kết với các nước và các tổ chức quốc tế cũng như quy định của các Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đươc thực hiện thường xuyên.
Các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản đầu tư nâng cấp cơ sở sản xuất, đổi mới trang thiết bị theo công nghệ tiên tiến, bố trí lại dây truyền sản xuất bảo đảm an toàn vệ sinh theo GMP và HACCP, nhằm nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm, sản xuất mặt hàng mới.
Ngoài ra, còn tổ chức nhiều líp đào tạo tin học, ngoại ngữ, và kỹ năng lãnh đạo quản lý cho các cán bộ của Bé, Sở thuỷ sản và giám đốc doanh nghiệp.
b, Nhược điểm
- Các hệ thống pháp luật của các nước có sự khác biệt lớn so với Việt Nam đặc biệt là hệ thống luật lệ của các nước công nghiệp phát triển, nh Mỹ, EU rất phức tạp. Việc hiểu biết về luật lệ quốc tế nhất là các luật lệ liên quan đến thương mại còn rất hạn chế, dẫn đến những khó khăn và lúng túng khi có tranh chấp thương mại. Điển hình như vụ kiện bán phá giá cá tra, cá ba sa, tôm.
- Công tác thống kê nghề cá cũng như thông tin, dự báo thị trường trong và ngoài nước còn hạn chế, tình trạng một số mặt hàng sản xuất cung vượt quá cầu cục bộ, cạnh tranh không lành mạnh, ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sản xuất kinh doanh vẫn còn xảy ra: trước kia xuất khẩu cá tra, cá ba sa giá thấp gây thiệt hại lớn tới ngư dân làm cho họ bị thua lỗ có nơi phải ngừng sản xuất.
- Công tác thị trường ngoài nước còn kém, tuy đã có một vài kết quả bước đầu nhưng mới ở trình độ thấp, chưa thực hiện được kênh thông tin đến người tiêu dùng. Một số doanh nghiệp đã xuất khẩu trực tiếp đến các siêu thị nhưng tỷ lệ đó còn thấp chủ yếu qua các đơn vị trung gian. Mặt khác, ta còn thiếu nhiều kinh nghiệm trong công tác này.
- Việc đáp ứng các yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm từ ao nuôi đến bàn ăn là điều kiện tiên quyết để giữ vững và gia tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản. Chúng ta mới chỉ làm tốt ở khu vực chế biến, nhưng chưa tốt ở khu vực sản xuất nguyên liệu và bảo quản sau thu hoạch. Việc EU phát hiện các lô hàng bị nhiễm kháng sinh bị cấm sử dụng và kiểm tra 100% lô tôm xuất khẩu của ta đến nay tuy đã được giải quyết, song đó là bài học đòi hỏi phải tiếp tục quan tâm và làm tốt hơn nữa công tác an toàn vệ sinh thực phẩm từ khâu khai thác, nuôi trồng đến chế biến.
- Việc chưa có thương hiệu riêng cho nhiều sản phẩm thuỷ sản Việt Nam khi tham gia cạnh tranh trên thị trường thế giới là một bất lợi lớn đối với hàng thuỷ sản Việt Nam. Việc tranh chấp tên gọi cá tra, cá ba sa là một ví dụ.
- Công tác đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ tiếp cận thị trường và công nhân kỹ thuật đã được quan tâm, nhưng số lượng các líp đào tạo chưa được nhiều, chưa đáp ứng được yêu cầu cả về chất lượng lẫn số lượng, đặc biệt thiếu cán bộ am hiểu nhiều về luật lệ thương mại của các nước nhập khẩu cũng như quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới. Hạn chế trình độ chuyên môn, ngoại ngữ và tin học gây ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình hội nhập.
- Nhiều văn bản quy phạm pháp luật còn đang được soạn thảo mới về điều chỉnh văn bản đã được triển khai nhưng còn chậm, chưa đáp ứng được tiến độ thực thi cam kết quốc tế và đòi hái của thực tiễn.
PHẦN 3: GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA NGÀNH THUỶ SẢN
1. Xu hướng phát triển thị trường xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
Duy trì, phát triển thị trường cũ:
- Thị trường Mỹ: Ta chủ động sống chung với những tranh chấp thương mại cũng là một kiểu cạnh tranh, đấu tranh làm thay đổi những bất công, vô lý trên thương trường, để có được tốc độ tăng trường kim ngạch xuất khẩu cao trong thời gian tới. Các doanh nghiệp Việt Nam cần chú trọng ba yếu tố quan trọng nhất: chất lượng sản phẩm, giao hàng đúng hẹn và quản lý tốt dây chuyền cung ứng sản phẩm.
- Thị trường Nhật Bản: Là nước nhập khẩu thuỷ sản lớn nhất trên thế giới, nhu cầu sẽ tăng mạnh trong thời gian tới, nhưng ta sẽ phải đối mătj với hàng loạt các tiêu chuẩn, các luật chi tiết, hệ thống phân phối thuỷ sản ở Nhật Bản. Chính vì thế các doang nghiệp nước ta cần tập trung hơn nữa vào chất lượng sản phẩm, có chính sách sản phẩm phù hợp (đóng gói nhỏ, theo nhu cầu người tiêu dùng Nhật,..).
- Thị trường EU: Giữ vững chân đứng ở thị trường EU, bằng cách thay đổi tư duy tiếp cận nhanh chóng, tạo ra sự phù hợp với các yêu cầu thị trường. Những rào cản kỹ thuật có thể chỉ là những khó khăn trước mắt vì ở mọi khía cạnh nó thúc đẩy công nghiệp chế biến thuỷ sản Việt Nam vươn tới một tiêu chí hàng đầu là phải có sản phẩm sạch. Khi đã thực sự tạo được sản phẩm sạch, thì việc xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sẽ dễ dàng hơn.
- Thị trường Trung Quốc và Hồng Kông: Mặc dù thuế nhập khẩu vào thị trường này là cao, và đang gặp khó khăn trong phương thức thanh toán. Song nhiêm vụ đặt ra là tiếp tục tăng sản lượng xuấu khẩu đặc biệt là đa dạng hoá các mặt hàng, để giá trị kim ngạch trong những năm tới luôn chiếm hơn 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả ngành.
Mở rộng và phát triển thêm thị trường mới.
- Việc Thái Lan không hạn chế nhập khẩu tôm sú, đây là cơ hội lớn cho xuất khẩu thuỷ sản thô tiếp tục gia tăng giá trị.
- Thương vụ Việt Nam tại Óc cho biết, quốc gia này đang cần nhập đến 60% nhu cầu thuỷ sản nội địa trong khi hàng thuỷ sản Việt Nam vào thị trường này chiếm thị phần chưa cao. Đây sẽ là một thị trường mới, không nhỏ cho các doanh nghiệp Việt Nam khai thác.
- Ngoài ra, ở châu Âu các doanh nghiệp Việt Nam còn chưa có cơ hội tiếp cận với một số thị trường nh: Ailen, Phần Lan, Lucxambua,v.v…Đây là thi trường mới đầy tiềm năng mà các doanh nghiệp của ta cần biết tận dụng trong xu thế hội nhập nh ngày nay.
- Nhưng cũng phải kể đến một vài thị trường đầy tiềm năng khác nh: Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan,v.v…
2. Các giải pháp
2.1. Tăng cường năng lực thể chế và chính sách
Tập trung vào những vấn đề chính sau:
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản và công tác qui hoạch ngành.
- Xây dùng hệ thống thông tin toàn ngành.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật cho toàn ngành thuỷ sản Việt Nam.
- Đổi mới hệ thống tổ chức, bộ máy hành chính ngành từ trung ương đến địa phương.
- Khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào sản xuất thuỷ sản.
- Xây dựng các chính sách đồng bộ về các mặt: đầu tư, thuế, chính sách đất và mặt nước, bảo vệ nguồn lợi, nghiên cứu khoa học, đào tạo,v.v…
- Từng bước tiếp cận phương pháp tổ chức quản lý hệ thống nghề cá trong khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản dùa trên phương thức quản lý cộng đồng, gắn với việc sử dông các công cụ quản lý và thiết bị thông tin hiện đại trong quản lý và điều hành sản xuất.
- Thực hiện tiêu chuẩn hoá cán bộ quản lý, cán bộ khoa học, nhà doanh nghiệp và công nhân kỹ thuật, nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá toàn ngành và các yêu cầu để đổi mới, hội nhập. Đồng thời tiến hành cải cách mạnh mẽ các thủ tục hành chính trong tất cả các lĩnh vực.
Đổi mới và hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý toàn ngành nhằm nâng cao năng lực hoạt động trong nền kinh tế thị trường, quản lý có hiệu quả, bảo đảm phát triển bền vững.
2.2. Phát triển nguồn nhân lực
Tập trung đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật, cho mọi lĩnh vực của ngành, sớm hội nhập về quản lý và từng bước tiếp cận với trình độ công nghệ của thế giới. Là điều kiện cần để thuỷ sản Việt Nam khẳng định mình trên trường quốc tế về chất lượng, dịch vô. Cụ thể là:
- Hình thành và nâng cao năng lực đội ngò thanh tra, kiểm soát trong các lĩnh vực bảo vệ nguồn lợi và an toàn vệ sinh thực phẩm.
- Đào tạo thuyền trưởng, máy trưởng và hướng dẫn kỹ thuật nuôi trồng cho người sản xuất.
- Tăng cường tuyển sinh cao đẳng, đại học ưu tiên ngành còn thiếu cán bộ đảm bảo sớm có lực lượng chuyên gia đầu ngành đủ mạnh. Kết hợp với đào tạo nghề nhằm nâng cao chất lựơng tay nghề, ý thức tổ chức, kỷ luật lao động,v.v…
- Thực hiện hiệu quả các dự án quốc tế về đào tạo và bồi dưỡng ở mới cho các viện nghiên cứu, cơ sở đào tạo chính quy, phát triển đào tạo bồi dưỡng ở nước ngoài.
2.3. Tiếp tục thực hiện các chính sách chuyển dịch cơ cấu sản xuất
Trong nông nghiệp nông thôn và trong các lĩnh vực của ngành gắn với bảo vệ, tái tạo nguồn lợi và giữ gìn môi trường nhằm bảo đảm thuỷ sản phát triển bền vững. Theo đó, lấy phát triển nuôi trồng thuỷ sản làm nguồn chính để cung cấp nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu. Giữ ổn định lượng khai thác thuỷ sản, trong đó hạn chế khai thác gần bờ, khuyến khích mở rộng khai thác xa bờ băng công nghệ và cách tổ chức sản xuất tiên tiến đi đôi với tăng cường các biện pháp quản lý và bảo vệ nguồn lợi hải sản như cấm các nghề khai thác huỷ diệt nguồn lợi, cấm khai thác các đối tượng khai thác có nguy cơ bị tuyệt chủng,v.v… Trên cơ sở kết quả điều tra, đánh giá nguồn lợi thuỷ sản từng bước điều chỉnh cơ cấu nghề nghiệp khai thác và vùng khai thác cho phù hợp. Chỉ có nh thế mới đảm bảo cung cấp đủ nguyên liệu cho chế biến phục vụ cho xuất khẩu thuỷ sản trong giai đoạn tới.
2.4. Đẩy mạnh vai trò của công tác khoa học công nghệ
Cùng với tập trung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ khoa học công nghệ, nâng cấp các cơ sở nghiên cứu, đào tạo, với trang thiết bị hiện đại, đủ năng lực nghiên cứu, giải quyết những vấn đề về công nghệ, về quản lý nguồn lợi, quản lý môi trường về vệ sinh an toàn sản phẩm thuỷ sản.
Đẩy nhanh việc nghiên cứu và hướng dẫn áp dụng công nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ sinh học, các tiến bộ kỹ thuật trong khai thác thuỷ sản, nuôi trồng, chế biến, cơ khí, dịch vụ cho thuỷ sản nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh, sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững, phát triển công nghệ tin học phục vụ quản lý ngành.
Lùa chọn và du nhập các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến của nước ngoài để rút ngắn khoảng cách về một số công nghệ sản xuất thuỷ sản của Việt Nam với các nước trên thế giới. Đồng thời nhanh chóng đưa các công nghệ mới này vào áp dụng thực tế sản xuất.
Làm được các công tác trên thì mới tạo ra điều kiện cần thiết nâng cao chất lượng hàng thuỷ sản Việt Nam trước những đòi hỏi ngày càng ngắt ngao của thị trường, chỉ có nh vậy thì ta mới hội nhập thành công.
2.5. Thu hót các nguồn lực vào đầu tư phát triển
- Thu hót các nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư vào phát triển sản xuất thuỷ sản, khuyến khích các thành phần kinh tế từ Nhà nước, tập thể, cổ phần đến tư nhân đầu tư cho lĩnh vực này.
- Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu đầu tư theo hướng chuyển dịch cơ cấu sản xuất của ngành. Khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới quản lý trong tất cả các khâu từ khai thác, nuôi trồng, chế biến đến dịch vụ thuỷ sản nhằm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm thuỷ sản Việt Nam trên trường quốc tế.
- Khuyến khích đầu tư cho nghiên cưú khoa học một mặt tạo ra những giống, chủng loại mới làm cho sản phẩm thuỷ sản ngày càng đa dạng, mét mặt nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến phục vô ngay cho sản xuất kinh doanh ngành thuỷ sản. Như vậy phải chú ý nâng cao vai trò của các viện nghiên cứu, tập trung nguồn lực đầu tư cho các viện này, để các viện này phát huy hết năng lực.
- Đầu tư cho các cơ sở đào tạo nhân lực của ngành: đào tạo nghề, đào tạo cao đẳng, đại học, sau đại học nhằm tạo điều kiện nâng cao chất lượng lao động của ngành.
2.6. Tăng cường công tác xúc tiến, mở rộng và phát triển thị trường
- Tăng công tác thông tin về thị trường thế giới và các cơ chế chính sách thương mại của các nước. Phát huy vai trò của các hiệp hội, các câu lạc bộ, nhóm sản phẩm trong việc cung cấp thông tin thị trường, dự báo nhu cầu và diễn biến thị trường cho doanh nghiệp và người sản xuất, phát triển công tác thị trường ở cả tầm vĩ mô và vi mô, trong đó phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước và doanh nghiệp.
- Tiếp tục đa dạng hoá thị trường, không lệ thuộc quá nhiều vào một thị trường, dự kiến Mỹ có thị phần 27-30%, Nhật Bản 25-27%, Trung Quốc và Hồng Kông 23-25%, giữ vững thị trường EU làm đối trọng ở mức 8%, mở rộng thị trường mới.
- Đẩy mạnh công tác quảng cáo, tiếp thị, hướng dẫn tiêu dùng, tham gia vào các hội trợ trong và ngoài nước để quảng bá sản phẩm và tìm đối tác kinh doanh.
- Thành lập văn phòng đại diện thương mại thuỷ sản Việt Nam tại một số thị trường lớn nh Mỹ, Nhật Bản, EU, Trung Quốc.
- Thành lập Quỹ phát triển thị trường thuỷ sản trên cơ sở hỗ trợ ban đầu từ Nhà nước và nguồn thu chủ yếu từ các doanh nghiệp, mức thu được quy định theo từng nhóm loại sản phẩm, căn cứ trên sản lượng lô hàng xuất khẩu, nhưng không vượt quá con số từ 1-2% doanh số xuất khẩu, nhằm chủ động công tác xúc tiến thương mai, tranh chấp thương mại khi xảy ra. Nghiên cứu và ban hành cơ chế bảo hiểm cho sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản, nghiên cứu cho phép doanh nghiệp làm thủ tục kê khai hải quan theo lô hàng hoặc theo từng hợp đông lớn, chứ không phải kê khai theo từng chuyến hàng xuất khẩu như hiện nay.
2.7. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế
- Ngành thuỷ sản Việt Nam đã ký kết các hiệp định Nghề cá và Bản nghi nhớ với hàng chục nước trên thế giới nh Liên Bang Nga, Trung Quốc, Pêru, Đan Mạch, Na Uy, Nhật Bản, Indonesia, Lào,v.v… Và hợp tác với hầu hết các tổ chức quốc tế và khu vực như UNDP, FAO, WB, ADB, ASEAN, APEC, NACA, SEAFDEC, MRC, WWWF, IMA; tham gia thành lập liên đoàn thuỷ sản nuôi trồng ASEAN (AAF), từ đó hợp tác với các hiệp hội ngành nghề có liên quan tại các nước nhập khẩu như Hiệp hội Nhập khẩu và Chế biến Thuỷ sản Châu Âu (SIPA), Hiệp hội phân phối Thuỷ sản Hoa Kỳ (ASDA) nhằm thúc đẩy hợp tác và phát triển thương mại. Hội nhập quốc tế và khu vực đã và đang được tăng cường góp phần nâng cao vị thế thuỷ sản Việt Nam trong các nước ASEAN, APEC và thế giới. Vì vậy, ngành thuỷ sản Việt Nam cần lỗ lực hơn nữa để tranh thủ các cơ hội hợp tác với nước ngoài, tổ chức thực hiện các chương trình và các dự án hợp tác với nước ngoài có hiệu quả. Chủ động chuẩn bị tốt các chương trình, dự án để kêu gọi hợp tác và hỗ trợ từ các nước và các tổ chức quốc tế.
Tiếp tục triển khai các chương trình hành động về hội nhập kinh tế ban hành theo quyết định số 998/QĐ-BTS ngày 13/12/2002 của Bé thuỷ sản. Tập trung chỉ đạo để sử dụng có hiệu quả viện trợ của các nước, các tổ chức quốc tế. Khai thác các nội dung hiệp định, biên bản ghi nhớ đã đăng ký với các nước trong thời gian qua, tạo ra môi trường hợp tác hữu nghị. Tiếp tục phát huy vai trò của các hiệp hội và các câu lạc bộ sản phẩm, phát huy tốt mối quan hệ tay ba giữa nhà nước, các doanh nghiệp và các tổ chức nghề nghiệp. Mặt khác, nhanh chóng triển khai chủ chương chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo hành lang pháp lí hấp dẫn hơn với đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực thuỷ sản.
2.8. Giải pháp về phía doanh nghiệp trong nganh
- Xây dựng, đào tạo được đội ngò cán bộ quản lý sản xuất, kinh doanh.
- Tạo nguồn nguyên liệu ổn định.
- Đổi mới, tăng cường năng lực công nghệ để nâng cao giá trị sản phẩm xuất khẩu và đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu.
- Xây dựng phát triển thương hiệu trên thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu thuỷ sản.
- Nâng cao vai trò của hiệp hội thuỷ sản trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển xuất khẩu.
3. Các kiến nghị đối với Nhà nước và các nhà đầu tư tiến tới xu thế hợp tác trong khu vùc và hợp tác trên toàn thế giới
3.1. Một số đề xuất chính sách đối với Nhà nước
- Có cơ chế, chính sách đầu tư đồng bộ hệ thống cơ sơ hạ tầng cho ngành thuỷ sản nói chung và cho xuất khẩu thuỷ sản nói riêng, để đáp ứng được yêu cầu phát triển bền vững và tương xứng với tiềm năng của thuỷ sản. Tiến độ đầu tư cần phù hợp với lé trình hội nhập và kế hoạch thực hiện chuyển dịch cơ cấu ngành.
- Trên cơ sở Luật thuỷ sản được Quốc Hội thông qua, sớm hoàn thiện cơ chế chính sách đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập, nâng cao năng lực thực thi pháp luật, trong đó có việc phối hợp thực hiện các quy định giữa các bộ, ngành. Điều chỉnh các cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào lĩnh vực thuỷ sản: đất đai, mặt nước, tín dụng,v.v…
- Có cơ chế đặc biệt hỗ trợ các ngư dân tham gia các líp đào tạo về kỹ thuật và tham quan học tập các kinh nghiệm ở nước ngoài.
- Có cơ chế bảo hiểm sản xuất cho nuôi trồng và khai thác thuỷ sản, có chính sách và cơ chế để giảm giá thành từng khâu của sản xuất từ đó tăng năng lực cạnh tranh sản phẩm của ta trên trường quốc tế.
- Đề nghị các ngân hàng và các cơ quan tài chính có những cơ chế về hỗ trợ ( xóc tiến thị trường, khuyến ngư,v.v…) và cơ chế tín dụng phù hợp với đặc điểm của nuôi trồng và khai thác thuỷ sản, chủ yếu là các hộ gia đình chiếm trên 90%, nhằm giảm tỷ lệ người sản xuất thuỷ sản phải vay ngoài với lãi suất cao, làm tăng chi phí, giảm khả năng cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam.
3.2. Mét số đề xuất với các nhà đầu tư
a, Về hỗ trợ đào tạo
- Đào tạo cán bộ chuyên sâu về hội nhập, cán bộ am hiểu về Hiệp định SPT.
- Đào tạo cán bộ về hướng dẫn thực hiện các quy phạm thực hành sản xuất tốt trong nuôi trồng và chế biến thuỷ sản
- Các dự án hố trợ kỹ thuật về đào tạo đội ngò cán bộ đổi mới quản lý cho các cơ quan hành chính, cán bộ về marketing am hiểu về luật lệ và các chính sách kinh tế thương mại của các nước và quốc tế.
- Hỗ trợ kỹ thuật để tăng cường năng lực về quản lý bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, tăng cường năng lực phòng trừ dịch bệnh và môi trường.
b, Đầu tư
Đề nghị các nhà đầu tư vào lĩnh vực thuỷ sản ưu tiên cho các vấn đề sau:
- Xây dựng cơ sở hạ tầng cho nghề cá.
- Các dự án về chuyển giao công nghệ, sản xuất giống, nuôi trồng thuỷ sản.
- Các dự án nâng cấp, đổi mới công nghệ chế biến, dự án đầu tư sản xuất thức ăn phục vụ cho nuôi trồng thuỷ sản.
- Các dự án nâng cấp, đổi mới công năng lực đào tạo tại các trường đại học, trung học chuyên nghiệp, các viện nghiên cứu.
Đề nghị giúp đầu tư một số phòng thí nghiệm chuẩn để thực hiện việc đánh giá nguy cơ, kiểm tra về an toàn thực phẩm và vệ sinh thó y.
KÕt luận
Nhu cầu thuỷ sản trên thế giới vẫn tiếp tục gia tăng do: sù gia tăng dân số thế giới và thuỷ sản có khả năng thay thế khá hoàn hảo đối với các loại thịt gia sóc, gia cầm. Ngày nay, xu hướng này càng được củng cố vững chắc hơn do an toàn về vệ sinh thực phẩm của thuỷ sản cao hơn các loại thực phẩm khác. Do ưu điểm của loại thực phẩm này, nhu cầu tiêu thụ thuỷ sản trên thị trường thế giới đã tăng mạnh và tạo ra làn sóng chuyển từ tiêu dùng thịt gia cầm sang tiêu dùng thuỷ sản.
Theo đánh giá tiềm năng nguồn tài nguyên thuỷ sản của Việt Nam còn khá lớn. So với các nước khác, tài nguyên thuỷ sản Việt Nam được coi là tương đương, thậm chí có phần vượt trội so với Thái Lan-nước xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu thế giới. Thêm vào đó, Việt Nam lại có tiềm năng về lao động. Đây là một trong những yếu tố quan trọng góp phần làm tăng lợi thế cạnh tranh của hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam.
Là nước đi sau, Việt Nam đã và đang tận dụng được những cơ hội đi tắt đón đầu để rút ngắn thời kỳ công nghiệp hoá và thúc đẩy sự phát trỉên kinh tế nói chung và ngành thuỷ sản nói riêng. Việt Nam có khả năng đầu tư công nghệ tiên tiến, đặc biệt trong công nghệ khai thác xa bờ, công nghệ sinh học phục vụ nuôi thủy sản, nhất là nuôi cá biển và nuôi giáp xác, công nghệ chế biến xuất khẩu,v.v…Cùng với cơ hội tiếp cận công nghệ mới, Việt Nam còng rót ra được những bài học kinh nghiệm trong sản xuất và kinh doanh thuỷ sản, đặc biệt là trong xuất khẩu những sản phẩm thuỷ sản.
Trên đây là một sè những tìm hiểu của em về “ Giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam trong xu thế hội nhập”. Do sự tìm hiểu còn chưa đầy đủ nên đề án không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được những nhận xét, đánh giá từ phía các thầy, các cô. Để đề án này được hoàn thiện tốt hơn. Em còng xin chân thành cảm ơn cô thạc sĩ Ngô Thị Việt Nga, đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
Tài liệu tham khảo
A. Sách
1. Cẩm nang về nghiệp vụ xuất nhập khẩu_Trần Chí Thành.
2. Giáo trình kinh tế quốc tế_ĐH kinh tế quốc dân_nxb Thống kê.
3. Giáo trình quản trị kinh doanh xuất nhập khẩu _ĐH kinh tế quốc dân.
4. Giáo trình kinh tế thuỷ sản_ĐH Kinh tế quốc dân.
5. Hướng dẫn thực hành kinh doanh xuất nhập khẩu_Dương Hữu Hạnh_nxb Thống Kê.
6. Niêm giám thương mại Việt Nam 2005.
7. Niêm giám thống kê Việt Nam 2004_nxb Thống Kê.
8. Kỹ thuật kinh doanh xuất nhập khẩu_ Võ Thanh Thu.
9. Phát triển thuỷ sản Việt Nam những luận cứ và thực tiễn_PGS-TS Hoàng thị Chình.
11. Thị trường xuất nhập khẩu thuỷ sản_nxb Thống kê 2004.
12. Việt Nam sẵn sàng gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO_nxb Văn hoá xã hội_Ngân hàng thế giới WB.
B. Tạp chí, báo
1. Tạp chí giá cả
Oan ức “ basa”_Nguyễn Trung Hiếu_Số 9/2002.
Chống “bán phá giá” Việt Nam và thông lệ quốc tế_Nguyễn Tiến Thảo_Số 9/2002.
Từ vụ kiện bán phá giá ca tra, cá bas a, đến cuộc chiến về con tôm xuất khẩu vào Mỹ đâu là giải pháp căn bản_Th.s Phạm Ngọc Thao_ Sè 9/2003.
Hoạt động tư vấn kinh tế của các doanh nghiệp xuất khẩu cá ba sa, thực trạng và giải pháp_ Th.s Phạm Ngọc Thao_ Sè 3/2004.
Vụ kiện tôm thêm một bằng chứng mới về chủ nghĩa bảo hộ của Mỹ_ Phạm Ngọc_ Số 3/2004.
2. Tạp chí ngoại thương
Giá tham khảo một số mặt hàng xuất - nhập khẩu của Việt Nam._TT 15/5/2004_ Sè 15/2004.
Giá tham khảo một số mặt hàng xuất - nhập khẩu của Việt Nam._TT 9/5/2005_
Sè 14/2005.
Tổng quan thị trường thuỷ sản Mỹ 2004_ T Hải_Số 15/2005.
Chính sách chống phá giá của Mỹ_MQ_Số 15/2005.
3. Tạp chí thuỷ sản.
Tình hình thực hiện kế hoạch năm 2000_Trích báo cáo tại hội nghị tổng kết năm 2000 ngành thuỷ sản_Số 1/2001.
Bước chuyển của ngành thuỷ sản năm 2001_H.T_Số 1+2/2002.
Các chỉ tiêu và biện pháp thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2003 của ngành thuỷ sản_Số 12/2002- 1/2003.
Năm 2003 với nhiều khó khăn, ngành thuỷ sản vẫn góp phần quan trọng trong sự tăng trưởng kinh tế xã hội của đất nước_Trích báo cáo tổng kết số 1/2004.
Ngành thuỷ sản vẫn tiếp tục phát triển_ Đỗ Đức Hạnh_Số 1/2005.
Ngành thuỷ sản và phương hướng phát triển giai đoạn 2006-2010_TS Nguyến Việt Thắng_Số 4/2005.
Xuất khẩu thủy sản năm 2004 của Trung Quốc tăng mạnh_Thu Trang dịch theo tạp chí thị trường thuỷ sản Trung Quốc số 3/2005_ Sè 5/2005.
Chủ chương và những thách thức phát triển bền vững ngành thuỷ sản_TS Nguyễn Việt Thắng_ Số 8/2005.
Bộ thương mại Hoa kỳ công bố kết quả xác định biên phá giá tôm với tôm xuất khẩu Việt Nam_ Sè 9/2005.
C. Một số trang web.
1.
2. gso.gov.vn
3. ngoisao.net.com.
4. Agro.gov.com.
Ghi chó
BTA: Hiệp định thương mại Việt - Mỹ.
DOC: Bộ thương mại Mỹ.
FAO: Tổ chức Nông Lương thế giới.
GMP: Quy phạm sản xuất.
GST : Chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập.
HACCP: Tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm.
WTO: Tổ chức thương mại thế giới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1 93.doc