Thứ năm, quy định về điều kiện để
CTCK chính thức đi vào hoạt động còn chưa
hợp lý. Khoản 3 Điều 85 Dự thảo Luật xác
định: “CTCK. được chính thức hoạt động
sau khi đáp ứng các quy định sau đây:
a) Thực hiện đăng ký doanh nghiệp
theo quy định tại Điều 72 của Luật này;
b) Có quy trình hoạt động, quản lý rủi
ro, kiểm soát nội bộ;
c) Có Điều lệ chính thức được Đại hội
đồng cổ đông, Hội đồng thành viên hoặc chủ
sở hữu công ty thông qua”.
Như vậy, CTCK về nguyên tắc chỉ cần
thỏa mãn các điều kiện này là có thể chính
thức đi vào hoạt động, tiến hành việc cung
cấp các dịch vụ theo Giấy phép hoạt động.
Tuy nhiên, quy định này là chưa hợp lý, ví
dụ như trường hợp CTCK được cấp phép
hoạt động môi giới chứng khoán nhưng
chưa chính thức trở thành thành viên lưu
ký, thành viên bù trừ mà vẫn được tiến hành
hoạt động: Khi đó, nếu CTCK gây thiệt hại
cho khách hàng và không được các quỹ hỗ
trợ thanh toán, quỹ bù trừ giúp đỡ thanh
toán và bản thân CTCK đó cũng không đủ
khả năng thực hiện nghiệp vụ tài chính của
mình thì như thế nào? Do vậy, tác giả cho
rằng cần bổ sung vào quy định về điều kiện
chính thức hoạt động của CTCK nội dung
sau “phải trở thành thành viên lưu ký, thành
viên bù trừ đối với CTCK được cấp phép
hoạt động môi giới chứng khoán, tự doanh
chứng khoán” để vừa đảm bảo khả năng chi
trả của CTCK có các nghiệp vụ này vừa phù
hợp với CTCK không có nghiệp vụ môi giới
chứng khoán và tự doanh chứng khoán
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 376 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải quyết tranh chấp kỷ luật sa thải lao động, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KỶ LUẬT SA THẢI LAO ĐỘNG
Tóm tắt:
Quan hệ lao động được hình thành trên cơ sở hợp đồng lao động
giữa người sử dụng lao động (NSDLĐ) và người lao động (NLĐ).
Quan hệ này chỉ chấm dứt khi hợp đồng lao động chấm dứt. Một
trong những hình thức chấm dứt hợp đồng lao động đó là xử lý
kỷ luật sa thải lao động - một hình thức đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động đặc biệt của NSDLĐ. Đây là một quyền của
NSDLĐ để thực hiện việc quản lý lao động, duy trì hoạt động sản
xuất kinh doanh, và để xử lý với các hành vi tiêu cực của NLĐ
trong quá trình lao động. Khi xử lý sa thải NLĐ thì quan hệ lao
động giữa NLĐ và NSDLĐ sẽ chấm dứt, và lúc đó, NLĐ sẽ phải
chịu những hậu quả do pháp luật quy định. Do tính chất nghiêm
trọng của nó, pháp luật lao động có quy định chặt chẽ về thẩm
quyền, thủ tục, căn cứ, thời hiệu, hậu quả của việc xử lý kỷ luật
sa thải. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, những quy định này đã bộc
lộ những bất cập nhất định cần sửa đổi, bổ sung.
Hoàng Văn Tiến*
Nguyễn Thị Thắm**
* Học viên cao học Luật Khóa 1, trường đại học Tôn Đức Thắng.
* Học viên cao học Luật Khóa 1, trường đại học Tôn Đức Thắng.
Abstract
The labor relation are established on the ground of the labor
contracts between employers and employees. This relationship
is closed only when the labor contract is terminated. One of the
termination manner of the labor contract is the disciplinary action
– as a unilateral termination of a special labor contract by the
employer. This is a right of the employer for labor management,
for production continuation and for business activities, and for
dealing with negative behaviors by the employees during the
laboring process. When sanctioning an employee, the labor
relationship between the employee and the employer will
come to an end, and at that time, the employee will suffer the
consequences prescribed by applicable laws. Due to its serious
nature, the labor law defines strict regulations on the authority,
procedures, grounds, the statute of limitations and consequences
of the disciplinary and dismissal of laborer. However, the fact
shows that these regulations have revealed certain shortcomings
that need to be amended.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Quan hệ lao động, người sử
dụng lao động, người lao động, sa thải
lao động, hợp đồng lao động.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 05/09/2019
Biên tập : 21/09/2019
Duyệt bài : 23/09/2019
Article Infomation:
Keywords: labor relation; employers;
employees; dismissal of laborer; labor
contract.
Article History:
Received : 05 Sep. 2019
Edited : 21 Sep. 2019
Approved : 23 Sep. 2019
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
28 Số 18(394) T9/2019
1. Những bất cập trong các quy định về
kỷ luật sa thải lao động
1.1. Căn cứ sa thải lao động
Điều 126 Bộ luật lao động năm 2012
(BLLĐ 2012) quy định: “ Hình thức xử lý kỷ
luật sa thải được người sử dụng lao động áp
dụng trong những trường hợp sau đây:
1. Người lao động có hành vi trộm
cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích,
sử dụng ma tuý trong phạm vi nơi làm việc,
tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ,
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người
sử dụng lao động, có hành vi gây thiệt hại
nghiêm trọng hoặc đe doạ gây thiệt hại đặc
biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của
người sử dụng lao động;
2. Người lao động bị xử lý kỷ luật kéo
dài thời hạn nâng lương mà tái phạm trong
thời gian chưa xoá kỷ luật hoặc bị xử lý kỷ
luật cách chức mà tái phạm.
Tái phạm là trường hợp người lao
động lặp lại hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ
luật mà chưa được xóa kỷ luật theo quy định
tại Điều 127 của Bộ luật này;
3. Người lao động tự ý bỏ việc 05 ngày
cộng dồn trong 01 tháng hoặc 20 ngày cộng dồn
trong 01 năm mà không có lý do chính đáng.
Các trường hợp được coi là có lý do
chính đáng bao gồm: thiên tai, hoả hoạn,
bản thân, thân nhân bị ốm có xác nhận của
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền
và các trường hợp khác được quy định trong
nội quy lao động”.
Thực tiễn áp dụng quy định nêu trên
cho thấy một số bất cập sau:
Thứ nhất, trong một số trường hợp,
pháp luật cho phép NSDLĐ có thể sa thải
NLĐ căn cứ vào hành vi vi phạm (như hành
vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây
thương tích, sử dụng ma túy trong phạm vi
nơi làm việc, tiết lộ bí mật kinh doanh, bí
mật công nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí
tuệ) mà không cần căn cứ vào dấu hiệu của
thiệt hại do các hành vi đó gây ra, giá trị tài
sản trộm cắp, tham ô. Điều này là hợp lý
1 Xem Nguyễn Thị Phương Thúy (2017), Pháp luật về kỷ luật lao động: Một số vướng mắc và hoàn thiện.
nhằm đảm bảo tính tôn nghiêm của kỷ luật
lao động. Tuy nhiên, hành vi trộm cắp, tham
ô phải liên quan đến tài sản của đơn vị mà
NLĐ làm việc, nếu không phải của NSDLĐ
thì NLĐ không bị sa thải. Đối với hành vi
đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma
túy phải thực hiện trong phạm vi nơi làm
việc của đơn vị thì NLĐ mới bị sa thải. Pháp
luật hiện hành chưa có hướng dẫn về phạm
vi nơi làm việc của NLĐ, gây khó khăn cho
NSDLĐ khi xử lý kỷ luật NLĐ. Ví dụ: A
là NLĐ làm việc tại phòng hành chính của
công ty X, A có hành vi đánh bạc trong công
xưởng của công ty X, trong trường hợp này
có hai hướng hiểu và cách áp dụng pháp luật.
Trường hợp này có thể hiểu theo hai cách:
thứ nhất, hành vi của A là vi phạm pháp luật.
A vi phạm pháp luật và bị kỷ luật sa thải A vì
A đã có hành vi đánh bạc trong phạm vi làm
việc; thứ hai, hành vi đánh bạc của A không
vi phạm pháp luật, do A làm ở phòng hành
chính còn hành vi đánh bạc xảy ra ở công
xưởng, do đó hành vi đánh bạc của A không
nằm trong trong phạm vi làm việc. Nguyên
nhân dẫn đến hai cách hiểu như trên, bởi vì
pháp luật hiện hành chưa xác định rõ phạm
vi làm việc là phạm vi nơi làm việc của NLĐ
hay phạm vi của công ty nơi NLĐ làm việc.
Ngoài ra, còn có trường hợp NLĐ vô
ý huỷ hoại tài sản của doanh nghiệp hoặc
trường hợp NLĐ vi phạm quy định phòng
cháy, chữa cháy như hút thuốc tại kho xăng
dầu của doanh nghiệp. Đối với trường hợp
này, pháp luật hiện hành vẫn xếp vào loại
“hành vi khác” và cần phải có thêm dấu hiệu
“gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây
thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản,
lợi ích của NSDLĐ” thì NLĐ mới bị sa thải.
Chúng tôi cho rằng, hành vi vi phạm quy
định về phòng cháy, chữa cháy, có thể là vô
ý, chưa gây ra thiệt hại trên thực tế, nhưng
nếu có thì thiệt hại xảy ra sẽ không hề nhỏ,
nó không chỉ là thiệt hại về tài sản mà còn có
thể gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của
con người 1. Vì vậy, pháp luật cần trù liệu
biện pháp xử lý đối với hành vi này.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
29Số 18(394) T9/2019
Thứ hai, các văn bản pháp luật hiện
hành chưa quy định cụ thể hành vi “gây thiệt
hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại
đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của
NSDLĐ” là những hành vi nào. Điều này
dẫn đến sự lúng túng, thiếu thống nhất trong
việc giải quyết của các cơ quan có thẩm
quyền khi quyết định kỷ luật sa thải2. Phần
III Thông tư số 19/2003/TT-BLĐTBXH
ngày 22/9/2003 quy định: “NSDLĐ căn cứ
đặc điểm sản xuất kinh doanh của đơn vị để
quy định cụ thể mức giá trị tài sản bị trộm
cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ kinh
doanh hoặc có hành vi khác gây thiệt hại
được coi là nghiêm trọng về tài sản, lợi ích
của đơn vị để quyết định sa thải NLĐ”. Tuy
nhiên, đây là Thông tư hướng dẫn BLLĐ
1994 (sửa đổi, bổ sung năm 2002).
Thứ ba, việc xác định hành vi gây
thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt
hại đặc biệt nghiêm trọng chưa thể hiện hình
thức lỗi của NLĐ là lỗi cố ý hay lỗi vô ý.
Trong khoa học pháp lý, hành vi vi phạm
được thực hiện với lỗi cố ý bao giờ cũng
được xem nặng hơn với lỗi vô ý. Cách thiết
kế như hiện nay của khoản 1 Điều 126 BLLĐ
2012 không bao quát được hết các hành vi
gây thiệt hại về tài sản, lợi ích cho NSDLĐ.
Thứ tư, trong thời gian chấp hành kỷ
luật mà NLĐ thực hiện lại hành vi vi phạm
đã bị xử lý kỷ luật thì bị coi là tái phạm mà
không cần xét đến mức độ lỗi cố ý hay vô
ý. Quy định này có điểm không phù hợp
với thực tế, bởi có thể trong thời gian chưa
được xóa kỷ luật, NLĐ có thể có hành vi vi
phạm với mức độ nghiêm trọng như nhau
nhưng hành vi lại khác nhau, hoặc với mức
độ nghiêm trọng hơn đều bị coi là tái phạm
giống nhau3.
1.2. Trình tự, thủ tục sa thải người lao động
Theo quy định của pháp luật hiện
hành, thủ tục xử lý kỷ luật lao động rất chặt
2 Xem Đoàn Thị Mai (2012), Thực trạng pháp luật lao động về kỷ luật sa thải và một số kiến nghị.
3 Xem Nguyễn Thị Phương Thúy (2017), Pháp luật về kỷ luật lao động: Một số vướng mắc và hoàn thiện.
4 Xem Nguyễn Thị Phương Thúy (2017), Tlđd.
5 Xem Đoàn Thị Mai (2012),Tlđd.
chẽ nhưng vẫn rườm rà, trong nhiều trường
hợp là không cần thiết. Ví dụ, quy định về
phiên họp xử lý kỷ luật lao động. mục đích
cơ bản của phiên họp này là để NLĐ chứng
minh lỗi của mình, trên cơ sở đó NSDLĐ có
thể ra quyết định kỷ luật một cách đúng đắn
và hợp lý. Tuy nhiên, đối với một số trường
hợp, việc áp dụng thủ tục triệu tập phiên họp
xử lý kỷ luật lao động là không cần thiết vì
hành vi vi phạm của NLĐ đã được xác định
rõ ràng. Ví dụ, trường hợp đã có kết luận của
cơ quan có thẩm quyền về hành vi vi phạm
pháp luật của NLĐ. Vì vậy, chúng tôi cho
rằng, trong những trường hợp này, không
cần thiết phải tổ chức phiên họp xử lý kỷ
luật.
Mặt khác, việc pháp luật quy định
NSDLĐ phải ba lần thông báo bằng văn bản
mà NLĐ không đến mới có quyền xử lý kỷ
luật vắng mặt NLĐ cũng chưa hợp lý4, gây
mất thời gian cho NSDLĐ. Trong tố tụng
giải quyết các tranh chấp tại Toà án, Bộ luật
Tố tụng dân sự cũng chỉ quy định Toà án phải
triệu tập đương sự hợp lệ đến lần thứ hai5.
Nếu sau khi Toà án đã triệu tập hợp lệ hai
lần mà đương sự vẫn không đến thì Toà án
sẽ tiến hành đình chỉ giải quyết vụ án nếu đó
là nguyên đơn, hoặc tiến hành xét xử vắng
mặt nếu đó là bị đơn hoặc người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan. Hơn nữa, trên thực
tế, có những trường hợp NLĐ đã lợi dụng
quy định này của pháp luật để gây khó dễ
cho NSDLĐ khi biết mình bị sa thải.
1.3. Về hậu quả pháp lý của kỷ luật sa thải
Tất cả các trường hợp, khi NLĐ bị kỷ
luật sa thải sẽ không được trợ cấp thôi việc.
Đây là điểm khác biệt về quyền lợi giữa NLĐ
bị sa thải với NLĐ bị đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động và khác biệt của BLLĐ
năm 2012 so với BLLĐ năm 1994 (trường
hợp bị sa thải vì lý do tự ý nghỉ việc vẫn
được trợ cấp thôi việc).
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
30 Số 18(394) T9/2019
Bên cạnh đó, pháp luật cũng trù liệu
hậu quả pháp lý đối với trường hợp sa thải
trái pháp luật. Sa thải trái pháp luật bao gồm
các trường hợp trái pháp luật về nội dung
(căn cứ áp dụng), tức là vi phạm các quy
định tại khoản 1 Điều 126 BLLĐ 2012 và
trái pháp luật về hình thức (trình tự, thủ tục
áp dụng), tức là vi phạm Điều 123 và Điều
124 BLLĐ 2012.
Đối với cả hai trường hợp này, theo
quy định tại Điều 42 và Điều 48 của BLLĐ
2012 thì NSDLĐ đều phải nhận NLĐ trở lại
làm việc, trả tiền lương, bảo hiểm xã hội,
bảo hiểm y tế cho NLĐ trong thời gian họ
không được làm việc, bồi thường cho NLĐ
ít nhất 2 tháng lương theo hợp đồng lao
động. Trường hợp NLĐ không muốn tiếp
tục làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường
như trên, NSDLĐ phải trợ cấp thôi việc
theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này.
Trường hợp NSDLĐ không muốn nhận lại
NLĐ và NLĐ đồng ý, thì ngoài khoản tiền
bồi thường theo quy định tại khoản 1 Điều
42 BLLĐ 2012 và trợ cấp thôi việc theo quy
định tại Điều 48 BLLĐ 2012, hai bên thỏa
thuận khoản tiền để chấm dứt hợp đồng lao
động. Trường hợp không còn vị trí, công
việc đã giao kết trong hợp đồng lao động
mà NLĐ vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản
tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều 42
BLLĐ 2012, hai bên thương lượng để sửa
đổi, bổ sung hợp đồng lao động.
Như vậy, pháp luật hiện hành không
phân biệt về hậu quả pháp lý đối với trường
hợp sa thải trái pháp luật về nội dung và
trường hợp sa thải trái pháp luật về hình
thức. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy,
nếu quyết định kỷ luật sa thải của NSDLĐ
là đúng về nội dung, chỉ vi phạm về thủ tục
thì Toà án sẽ tuyên huỷ quyết định sa thải,
buộc NSDLĐ khôi phục mọi quyền lợi cho
NLĐ và cho phép họ được xử lý kỷ luật lại
theo đúng thủ tục nếu họ có yêu cầu.
Chúng tôi cho rằng, cách xử lý trên là
chưa hợp lý, vì NSDLĐ sa thải NLĐ đúng
về căn cứ (do NLĐ có hành vi trộm cắp,
tham ô) nhưng chỉ vì khi tiến hành các thủ
tục xử lý, NSDLĐ lại vi phạm các quy định
như chưa tổ chức phiên họp xét kỷ luật đã xử
lý kỷ luật, chưa tham khảo ý kiến của BCH
công đoàn cơ sở mà vẫn buộc NSDLĐ
phải nhận NLĐ trở lại làm việc trong đơn
vị, bồi thường tiền lương cho toàn bộ thời
gian mà NLĐ không được làm việc, buộc
phải tiếp tục nhận NLĐ này quay trở lại làm
việc là không phù hợp. Bởi lẽ, trong trường
hợp này, NLĐ bị xử lý sa thải là không oan,
chỉ vì không tuân thủ thủ tục sa thải, mà phải
bồi thường và nhận NLĐ trở lại làm việc, thì
NSDLĐ sẽ không cảm thấy thoải mái, yên
tâm khi sử dụng lại NLĐ này. Trong trường
hợp này, rất khó có thể tồn tại mối quan hệ
lao động bền vững giữa hai bên và sẽ tiềm
ẩn nguy cơ phát sinh tranh chấp.
Vì vậy, việc phân biệt về hậu quả pháp
lý giữa sa thải trái pháp luật về căn cứ và trái
pháp luật về thủ tục là hết sức cần thiết. Sa
thải trái pháp luật về căn cứ, theo chúng tôi
phải gánh chịu hậu quả nặng hơn so với trái
pháp luật về thủ tục nhưng đúng về căn cứ
áp dụng. Vì vậy, nếu NSDLĐ sa thải NLĐ
trái pháp luật về căn cứ hoặc vi phạm về thời
hiệu xử lý kỷ luật phải chịu hậu quả như quy
định của pháp luật hiện hành là hợp lý.
Riêng đối với trường hợp NSDLĐ
sa thải NLĐ trái pháp luật về thủ tục thì
theo chúng tôi, nên quy định hậu quả pháp
lý khác. Đối với NLĐ, căn cứ để NSDLĐ
áp dụng trách nhiệm kỷ luật đối với họ là
hành vi vi phạm kỷ luật và lỗi. Vì vậy, nên
chăng NSDLĐ chỉ phải chịu trách nhiệm đối
với NLĐ nếu họ sa thải NLĐ không có căn
cứ. Sa thải trái pháp luật về hình thức thì
NSDLĐ chỉ phải chịu hậu quả đến thời điểm
xử lý, bồi thường tiền lương thời gian không
làm việc trong thời gian nghỉ việc đến khi có
kỷ luật sa thải, còn các quyền lợi khác không
được hưởng, như trường hợp NSDLĐ thực
hiện kỷ luật sa thải NLĐ đúng pháp luật.
Ngoài ra hậu quả pháp lý của việc kỷ
luật sa thải được quy định tại Điều 33 NĐ
05 hướng dẫn thi hành một số nội dung của
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
31Số 18(394) T9/2019
BLLĐ trong phần về trách nhiệm vật chất
mà không được quy định ngay trong BLLĐ
là thiếu tính khoa học, không hợp lý, gây
khó khăn cho việc áp dụng pháp luật.
2. Một số đề xuất, kiến nghị
2.1. Căn cứ xử lý sa thải lao động
Điều 126 của BLLĐ 2012 cần được
sửa đổi theo hướng bổ sung thêm trường
hợp bị sa thải lao động là hành vi cố ý hủy
hoại tài sản, vi phạm quy định về phòng,
chống cháy nổ tại nơi làm việc.
BLLĐ 2012 đã quy định về thiệt hại
nghiêm trọng cho trường hợp bồi thường
thiệt hại thì cũng cần quy định tương tự cho
trường hợp bị sa thải. Điều đó sẽ không chỉ
bảo đảm quyền lợi của NLĐ mà còn bảo
đảm được tính thống nhất trong việc áp
dụng pháp luật. Do đó, chúng tôi cho rằng,
cần quy định hành vi gây thiệt hại nghiêm
trọng trong xử lý kỷ luật sa thải với thiệt hại
nghiêm trọng trong bồi thường đối với trách
nhiệm vật chất giới hạn ít nhất là từ 10 tháng
lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định
để NSDLĐ có căn cứ, cơ sở xử lý đối với
hành vi vi phạm của NLĐ. Tuy nhiên, nếu
nội quy lao động của doanh nghiệp quy định
mức thiệt hại nghiêm trọng cao hơn thì khi
đó sẽ áp dụng nội quy nhằm bảo đảm nguyên
tắc có lợi cho NSDLĐ. Đồng thời, xác định
rõ hành vi có mức độ thiệt hại như thế nào là
thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng và có hướng
dẫn cụ thể hơn đối với các trường hợp hành
vi khác “gây thiệt nghiêm trọng hoặc đe dọa
gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích
của người lao động”.
Trong các quy định về căn cứ sa thải
cần có sự phân biệt giữa các hành vi vi phạm
do lỗi cố ý và lỗi vô ý.
Việc xác định tái phạm trong xử lý kỷ
luật lao động cần quy định trường hợp nào
lỗi vô ý, cố ý để xác định mức độ hành vi,
phân hóa trách nhiệm, xác định có tái phạm
hay không, giống như quy định trong Bộ
luật hình sự.
Đối với trường hợp tự ý nghỉ việc,
các quy định hướng dẫn tạo cách hiểu thống
nhất, thời điểm người sử dụng lao động
được quyền xử lý kỷ luật lao động sa thải
nếu NLĐ tự ý nghỉ việc 05 ngày cộng dồn
trong ba mươi ngày hoặc 20 ngày cộng dồn
trong 365 ngày, kể từ ngày tự ý nghỉ việc
đầu tiên. NSDLĐ không phải đợi đủ sau thời
hạn 30 ngày hoặc 365 ngày thì mới được xử
lý kỷ luật lao động.
2.2. Thời hiệu xử lý sa thải lao động
Để vừa đảm bảo quyền và lợi ích của
lao động nữ, đồng thời vừa đảm bảo được
lợi ích của phía doanh nghiệp, trong trường
hợp lao động nữ có hành vi vi phạm mà
thuộc một trong các trường hợp có thai,
nghỉ thai sản cũng như NLĐ nuôi con nhỏ
dưới 12 tháng tuổi tiếp tục có thai trong thời
gian đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì
pháp luật lao động cần có quy định về việc
NSDLĐ có quyền điều chuyển vị trí công
tác đối với NLĐ và đợi đến khi NLĐ đủ điều
kiện để NSDLĐ có thể kỷ luật. Chúng tôi
cho rằng cần phải điều chuyển vị trí công
tác, bởi lẽ nếu NLĐ vi phạm về việc: Làm
tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ,
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của NSDLĐ
thì ai sẽ đảm bảo việc NLĐ này sẽ không
tiếp tục tiết lộ bí mật kinh doanh hay các vấn
đề tương tự xảy ra.
2.3. Về trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật sa thải
Đối với hành vi vi phạm của NLĐ
được cơ quan có thẩm quyền xác định lỗi
của NLĐ, thì không nhất thiết phải thực
hiện một quy trình giải quyết chung giống
như trường hợp NSDLĐ phải chứng minh
lỗi của NLĐ mà có thể nghiên cứu áp dụng
hình thức xử lý theo thủ tục rút gọn.
Đối với thông báo bằng văn bản ba lần
cho các thành phần tham dự cuộc họp xem
xét kỷ luật sa thải, chỉ nên quy định là hai
lần. NSDLĐ có quyền xử lý kỷ luật vắng
mặt NLĐ nếu đã thông báo bằng văn bản
cho NLĐ đến lần thứ hai mà họ vẫn không
có mặt. Thực tiễn giải quyết các vụ tranh
chấp sa thải lao động thì NSDLĐ thường
hay vi phạm về thủ tục mời họp xem xét
kỷ luật, việc cấp tống đạt giấy mời, vì vậy
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
32 Số 18(394) T9/2019
nên quy định cụ thể về việc cấp tống đạt các
văn bản này trong các văn bản hướng dẫn
về thủ tục, trình tự tiến hành kỷ luật sa thải
lao động.
2.4. Về hậu quả pháp lý của việc sa thải
lao động
Cần quy định trực tiếp hậu quả pháp lý
của việc sa thải lao động trái pháp luật trong
BLLĐ và phân biệt trường hợp sa thải trái
pháp luật về nội dung và trái pháp luật về
hình thức, làm cơ sở giải quyết, tạo sự thống
nhất, dễ dàng áp dụng pháp luật vào thực tế.
Nhìn chung, trong thực tế giải quyết
về tranh chấp kỷ luật sa thải lao động ở Tòa
án hiện nay vẫn còn rất nhiều khó khăn.
Nguyên nhân một phần vì các quy định của
pháp luật lao động vẫn còn những hạn chế
và bất cập, bên cạnh đó có một thực tế đó
là ý thức pháp luật của NLĐ chưa cao, tác
phong công nghiệp còn hạn chế dẫn đến
số lượng hành vi vi phạm kỷ luật lao động
không ngừng tăng lên ở những mức độ khác
nhau. Do đó, pháp luật lao động cần được
quy định chặt chẽ, đầy đủ hơn
GÓP Ý NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ ...
(Tiếp theo trang 26)
bù trừ. Vì vậy, nếu loại CTCK loại này thì
sẽ gây thiệt hại cho khách hàng khi cung cấp
dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán và việc
thanh toán, chi trả bồi thường của CTCK
liệu có được đảm bảo không. Theo tác giả,
Dự thảo Luật cũng cần phải quy định nghĩa
vụ của CTCK là CTCK phải “Mua bảo hiểm
trách nhiệm nghề nghiệp cho nghiệp vụ kinh
doanh chứng khoán tại công ty hoặc trích
lập quỹ bảo vệ nhà đầu tư để bồi thường
thiệt hại cho nhà đầu tư do sự cố kỹ thuật
và sơ suất của nhân viên trong công ty” mới
bảo vệ được nhà đầu tư khi sử dụng dịch vụ
của CTCK.
Thứ năm, quy định về điều kiện để
CTCK chính thức đi vào hoạt động còn chưa
hợp lý. Khoản 3 Điều 85 Dự thảo Luật xác
định: “CTCK... được chính thức hoạt động
sau khi đáp ứng các quy định sau đây:
a) Thực hiện đăng ký doanh nghiệp
theo quy định tại Điều 72 của Luật này;
b) Có quy trình hoạt động, quản lý rủi
ro, kiểm soát nội bộ;
c) Có Điều lệ chính thức được Đại hội
đồng cổ đông, Hội đồng thành viên hoặc chủ
sở hữu công ty thông qua”.
Như vậy, CTCK về nguyên tắc chỉ cần
thỏa mãn các điều kiện này là có thể chính
thức đi vào hoạt động, tiến hành việc cung
cấp các dịch vụ theo Giấy phép hoạt động.
Tuy nhiên, quy định này là chưa hợp lý, ví
dụ như trường hợp CTCK được cấp phép
hoạt động môi giới chứng khoán nhưng
chưa chính thức trở thành thành viên lưu
ký, thành viên bù trừ mà vẫn được tiến hành
hoạt động: Khi đó, nếu CTCK gây thiệt hại
cho khách hàng và không được các quỹ hỗ
trợ thanh toán, quỹ bù trừ giúp đỡ thanh
toán và bản thân CTCK đó cũng không đủ
khả năng thực hiện nghiệp vụ tài chính của
mình thì như thế nào? Do vậy, tác giả cho
rằng cần bổ sung vào quy định về điều kiện
chính thức hoạt động của CTCK nội dung
sau “phải trở thành thành viên lưu ký, thành
viên bù trừ đối với CTCK được cấp phép
hoạt động môi giới chứng khoán, tự doanh
chứng khoán” để vừa đảm bảo khả năng chi
trả của CTCK có các nghiệp vụ này vừa phù
hợp với CTCK không có nghiệp vụ môi giới
chứng khoán và tự doanh chứng khoán
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
33Số 18(394) T9/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giai_quyet_tranh_chap_ky_luat_sa_thai_lao_dong.pdf