Giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi

Ðầu tháng bảy vừa qua, Chương trình Khí sinh học (KSH) của Việt Nam đã được công nhận là một trong những dự án năng lượng hàng đầu thế giới khi nhận giải thưởng Ashden danh giá tại Luân Ðôn (Anh). Nhưng thiết thực hơn Chương trình KSH đã mở hướng cho việc giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi và đem lại lợi ích kinh tế cho người nông dân từ việc sử dụng nguồn năng lượng sạch và rẻ tiền này.

pdf6 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2321 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi Ðầu tháng bảy vừa qua, Chương trình Khí sinh học (KSH) của Việt Nam đã được công nhận là một trong những dự án năng lượng hàng đầu thế giới khi nhận giải thưởng Ashden danh giá tại Luân Ðôn (Anh). Nhưng thiết thực hơn Chương trình KSH đã mở hướng cho việc giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi và đem lại lợi ích kinh tế cho người nông dân từ việc sử dụng nguồn năng lượng sạch và rẻ tiền này. Nông thôn sạch nhờ bi-ô-ga Theo ước tính, có khoảng hơn hai triệu hộ chăn nuôi trong cả nước đang chăn nuôi gia súc, tạo ra lượng chất thải vô cùng lớn, mà ở đó đồng thời cũng tiềm ẩn nguy gây ô nhiễm môi trường cho chính các vùng chăn nuôi. Năm 2003, được sự giúp đỡ của Chính phủ Hà Lan, Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) phối hợp với Tổ chức Phát triển Hà Lan (SNV) đã triển khai Chương trình KSH, nhằm cải thiện cuộc sống cho người dân nông thôn Việt Nam thông qua khai thác các lợi ích về kinh tế - xã hội và môi trường của công trình KSH quy mô hộ gia đình. Mục tiêu của chương trình tới năm 2012 sẽ xây dựng 166.000 công trình KSH. Cho đến nay, 88 nghìn công trình KSH trên địa bàn 45 tỉnh, thành phố đã được hoàn thành. Theo Cục trưởng Cục Chăn nuôi Hoàng Kim Giao (đồng Giám đốc dự án KSH), trải qua rất nhiều lần nghiên cứu và thử nghiệm, Cục Chăn nuôi và SNV đã thiết lập được hai mô hình thiết kế công trình KSH (còn gọi là hầm bi-ô-ga) phù hợp với chăn nuôi quy mô hộ ở nông thôn. Mỗi hầm bi-ô-ga có thể tích từ 4 m3 đến 50 m3, nắp đậy cố định hình vòm cầu, phân giải từ nguồn phân chuồng và các chất thải nhà vệ sinh để sản sinh ra KSH, có thể thay thế khí đốt hóa lỏng, than đá, củi và phụ phẩm nông nghiệp để đun nấu. Những công trình KSH có thể tích lớn được sử dụng cho các trang trại chăn nuôi gia cầm với quy mô bán thương mại; còn loại công trình thể tích nhỏ phù hợp với các hộ gia đình có lượng chất thải ít (khoảng sáu con lợn hoặc hai con trâu, bò, và thậm chí được kết nối với nhà vệ sinh). Công trình KSH nạp các nguyên liệu hữu cơ chính là phân động vật đưa vào một bể kín, nơi đó vi khuẩn có thể phân giải và sản sinh ra KSH - một hỗn hợp khí mà thành phần chủ yếu là khí mê-tan và các-bon đi-ô-xít. KSH có thể làm nhiên liệu để đun nấu hoặc sử dụng cho các mục đích khác và các chất thải sau khi phân giải có thể được sử dụng làm phân hữu cơ. Với một công trình KSH có quy mô nông hộ cũng đủ cung cấp nhiên liệu cho nhu cầu đun nấu và chiếu sáng cho một gia đình, thậm chí một số hộ gia đình còn sử dụng KSH để chạy máy phát điện. Các hộ dân trả tiền để xây dựng công trình KSH. Với dung tích khoảng từ 6 đến 50 m3, sau khi các công trình được đánh giá hoạt động tốt, thì mỗi hộ sẽ được nhận hỗ trợ 1,2 triệu đồng từ dự án và 570 nghìn đồng từ địa phương. Ðến cuối năm 2009, chương trình đã hỗ trợ trực tiếp hơn 78 nghìn công trình KSH tại 37 tỉnh, thành phố. Với trung bình mỗi hộ gia đình có năm người, thì chương trình đã mang lại lợi ích cho gần 390 nghìn người. Trong năm 2010, Chương trình dự kiến sẽ xây dựng thêm 29 nghìn công trình. Ðiều mà các hộ gia đình đánh giá cao về hầm KSH là giúp họ quản lý nguồn phân chuồng một cách vừa đơn giản vừa hiệu quả, không chỉ giữ cho nhà cửa sạch sẽ, không có mùi khó chịu, ít ruồi mà các phụ phẩm KSH dùng để bón cho cây trồng còn tốt hơn nhiều so với phân tươi, lại thay thế được một số phân bón hóa học và làm tăng năng suất cây trồng. Hiện đã có 60% số nông dân trong số 78 nghìn hộ làm hầm KSH đã sử dụng phụ phẩm của hầm KSH để bón cho cây trồng, góp phần tiết kiệm chi phí, tăng thu nhập cho hộ gia đình. Nhờ công trình KSH, tiết kiệm được thời gian và tiền bạc vì không phải đun nấu bằng bếp củi hoặc bếp than. Ông Nguyễn Văn Vách (thôn Thượng Ðỗ, tỉnh Hải Dương) cho biết: "Gia đình tôi đã xây dựng hầm bi-ô-ga vào năm 2008, bây giờ ngoài việc làm sạch môi trường chung quanh, chúng tôi còn có nguồn năng lượng miễn phí để nấu các bữa ăn rất nhanh, mà không bị khói vào mắt khi đun nấu". Cũng theo khảo sát của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, chi tiêu của các hộ gia đình sau khi xây dựng công trình KSH cho các loại năng lượng (mua gas, củi đốt, điện, thắp sáng) từ 3,6 triệu đồng giảm xuống còn 1,4 triệu đồng mỗi năm, tức là tiết kiệm được bình quân 2,2 triệu đồng/năm, chi phí năng lượng còn lại chỉ phải trả là tiền điện. Chương trình cũng góp phần tạo công ăn việc làm cho hơn 1.800 thợ xây ở các vùng nông thôn. Hướng tới thị trường khí sinh học Nhận thấy rõ hiệu quả thiết thực từ hầm bi-ô-ga, trong thời gian qua, chương trình KSH đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ các địa phương và người chăn nuôi. Trong thời gian ngắn, chương trình đã triển khai đồng bộ từ 12 tỉnh năm 2003 lên tới 45 tỉnh, thành phố năm 2010 và sẽ tiếp tục nhân rộng lên 55 tỉnh vào năm 2012. Nhận định về hướng phát triển và nhân rộng của những công trình KSH, ông Tom Derkesen, Giám đốc SNV Việt Nam cho rằng: "Chúng ta đã thành công với các hầm bi-ô-ga quy mô nhỏ, bằng cách phổ biến và sử dụng khí sinh học tại những hộ chăn nuôi lợn.Trong thời gian tới, khi Việt Nam chuyển dần sang chăn nuôi tập trung với quy mô lớn thì cần phải hợp tác để xây dựng các công trình có quy mô lớn hơn và ứng dụng KSH đa dạng hơn, hướng tới thị trường KSH trong cuộc sống. Nó không chỉ cung cấp khí đốt cho các hộ gia đình, mà còn có thể xây dựng được các nhà máy phát điện với quy mô nhỏ cung cấp điện cho địa bàn một hoặc vài xã". Từ khảo sát thực tế tại các tỉnh Hải Dương, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc... cho thấy, những công trình KSH xây dựng đầu tiên từ năm 2003 đến nay vẫn vận hành tốt. Tuy nhiên, nhiều hộ gia đình cho biết, những công trình quy mô nhỏ (5 đến 6 m3) trước đây tỏ ra không đáp ứng được nhu cầu chăn nuôi hiện nay. Bởi thế, các hộ chăn nuôi cần phải có các hoạch định dài hơi trong chăn nuôi để xây dựng những hầm bi-ô-ga có dung tích lớn (khoảng 10 đến 20 m3), mới đáp ứng đủ nhu cầu xử lý chất thải. Mặc khác, để nhân rộng và phát triển nhanh các công trình KSH trên cả nước theo mục tiêu đề ra, rất cần sự nỗ lực của các cơ quan chức năng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các nhà tài trợ và chính quyền địa phương trong việc hỗ trợ các hộ dân vay vốn ưu đãi đầu tư xây dựng hầm bi-ô-ga phù hợp với nhu cầu phát triển chăn nuôi hàng hóa. XH (nguồn: ND)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf49_3207.pdf