Giải quyết vấn đề thức ăn trong phát triển chăn nuôi bò thịt ở Nghệ An

Phối hợp khẩu phần ăn Khẩu phần ăn là hỗn hợp các loại nguyên liệu thức ăn để thỏa mãn các nhu cầu dinh dưỡng cho gia súc trong một ngày đêm. 4. 1. Yêu cầu (nguyên tắc) chung của khẩu phần Khi phối hợp khẩu phần cho bò thịt cần đảm bảo các yêu cầu sau đây: Đáp ứng đầy đủ và cân đối các chất dinh dưỡng theo tiêu chuẩn của chúng; Khối lượng và thể tích phải phù hợp với dung tích bộ máy tiêu hóa; Đảm bảo tính ngon miệng, vật nuôi có thể ăn hết và đủ no; Đảm bảo an toàn vệ sinh thú y và an toàn vệ sinh thực phẩm cho sản phẩm tạo ra; Tận dụng các nguồn nguyên liệu thức ăn sẵn có và thuận lợi cho việc tổ chức chăn nuôi; Khẩu phần phải rẻ để đảm bảo hiệu quả kinh tế chăn nuôi. 4. 2. Các phương pháp xây dựng khẩu phần Xây dựng khẩu phần là cơ sở quan trọng để người chăn nuôi dựa vào đó mà cung cấp thức ăn đáp ứng đầy đủ dinh dưỡng cho con vật, làm cho chúng có hoạt động sản xuất (cho thịt, sữa, trứng ) theo yêu cầu. Thông thường có hai cách phối hợp khẩu phần cho bò: Cách thứ 1: Tính toán tiêu chuẩn ăn cho con vật, tiếp theo làm bảng phối hợp thử, sau đó điều chỉnh và bổ sung các loại nguyên liệu thức ăn có giá trị dinh dưỡng khác nhau sao cho phù hợp với nhu cầu. Cách thứ 2: Xây dựng một khẩu phần thức ăn cơ sở, sau đó bổ sung thức ăn tinh, tùy theo mức tăng trọng cần đạt. Cách làm này dễ áp dụng hơn, cho phép chủ động sử dụng các loại nguyên liệu thức ăn sẵn có ở địa phương. Dù áp dụng phương pháp nào, các thông tin cơ bản cần có khi xây dựng khẩu phần ăn cho bò thịt là: Nhu cầu dinh dưỡng của bò (bao gồm nhu cầu cho duy trì, nhu cầu cho sản xuất); Thành phần, giá trị dinh dưỡng và đặc điểm tiêu hóa của các loại nguyên liệu thức ăn dự kiến sẽ sử dụng; Khả năng thu nhận và giới hạn sử dụng các loại nguyên liệu thức ăn khác nhau trong khẩu phần; Nguồn, số lượng sẵn có và giá của các loại nguyên liệu thức ăn dự kiến đưa vào khẩu phần. 4. 3. Nguyên tắc chung trong chế độ ăn Cung cấp đầy đủ thức ăn theo tiêu chuẩn, khẩu phần ăn; Thức ăn được cung cấp đồng thời, đồng đều, liên tục và ổn định; Không thay đổi thức ăn đột ngột mà phải tiến hành thay đổi từ từ bằng cách đưa dần thức ăn mới vào khẩu phần, thời gian làm quen thức ăn mới là 4-5 ngày; Bảo đảm trong thức ăn tinh phải có cả loại giàu năng lượng và giàu protein.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải quyết vấn đề thức ăn trong phát triển chăn nuôi bò thịt ở Nghệ An, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 11/2016 [15] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 1. Lợi thế của bò về nguồn thức ăn Nhờ khả năng tiêu hóa xơ, bò có khả năng sử dụng các loại thức ăn mà con người và các loài khác ít có khả năng. Điều này cho phép chăn nuôi bò dựa trên những nguồn thức ăn ít bị cạnh tranh, do vậy có thể phát triển bền vững. Một khẩu phần giàu thức ăn thô xanh là khẩu phần “an toàn” cho bò, tránh được những rối loạn về tiêu hóa và trao đổi chất thường gặp trong chăn nuôi thâm canh khi quá lạm dụng thức ăn tinh. Nhờ có hệ vi sinh vật (VSV) cộng sinh trong dạ cỏ, bò không những có khả năng sử dụng thức ăn thô xơ mà còn có khả năng sử dụng các nguồn protein chất lượng thấp. Người chăn nuôi có thể sử dụng urê để thỏa mãn một phần nhu cầu protein của bò. Điều này có ý nghĩa kinh tế, sinh thái rất lớn do giảm được giá thành và sự cạnh tranh thức ăn trong chăn nuôi. Như đã đề cập ở trên, thức ăn thô xanh là loại thức ăn lý tưởng nhất cho bò. Tuy vậy, trong chăn nuôi bò, thức ăn tinh có thể được sử dụng với những lý do sau: - Khi khẩu phần cơ sở là thức ăn thô chất lượng kém, bổ sung thức ăn tinh ở một mức nhất định sẽ có tác dụng kích thích tăng sinh khối và hoạt lực của VSV phân giải xơ, làm tăng tỷ lệ tiêu hóa và lượng thức ăn thu nhận. - Đối với bò thịt vỗ béo, do có năng suất cao nên khẩu phần thức ăn thô (với lượng thu nhận có hạn) dù cho có chất lượng tốt hay đã có bổ sung hiệu chỉnh để tối ưu hóa hoạt động của VSV dạ cỏ vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng. Do vậy, cần phải bổ sung thức ăn tinh (có hàm lượng dinh dưỡng cao hơn nhiều) mới cung cấp đủ dinh dưỡng. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ THỨC ĂN n Nguyễn Kim Đường TT Nghiên cứu và Phát triển KHCN Nông nghiệp TRONG PHÁT TRIỂN CHĂN NUÔI BÒ THỊT Ở NGHỆ AN N ghệ An là tỉnh có tổng đàn vật nuôithuộc loại lớn trong cả nước. Hiện nay,đàn bò có số lượng gần 430.000 con (trong đó đàn bò sữa là 58.000 con), tỷ lệ bò lai lên tới 47% (trong 382.000 còn lại không kể bò sữa). Trong nhóm bò lai, những con có tiềm năng sinh trưởng cao và nếu được nuôi tốt sẽ có khối lượng giết mổ lên tới 400 kg/con ở 2÷2,5 năm tuổi. Nghệ An đã có 2 trang trại bò thịt lớn của Công ty Sữa Vinamilk và Công ty Sữa TH. Chăn nuôi bò sữa đòi hỏi đầu tư vốn lớn và phải áp dụng công nghệ cao, không phải là hướng đi cho nông dân do đó chăn nuôi bò thịt có nhiều thuận lợi hơn. Với đàn bò lớn, tỷ lệ bò lai cao, số lượng bê đực sinh ra từ đàn bò sữa khá lớn và đàn bò thịt tơ nhỡ nhập từ Úc về để nuôi vỗ béo giết thịt thì phát triển chăn nuôi bò thịt ở Nghệ An là một hướng đi rất cần được quan tâm, đầu tư vật lực. Đến nay, trên thế giới rất nhiều giống bò thịt năng suất rất cao đã được tạo ra (Bradford, bò thịt Bỉ...), nuôi tốt đến 2 năm tuổi đã có thể đạt trên 1.000 kg/con. Giống là yếu tố rất quan trọng, bởi nó luôn là yếu tố tiềm năng của năng suất sinh vật. Tuy nhiên, để chăn nuôi đạt năng suất cao, ngoài yếu tố giống thì còn cần tính đến nhiều yếu tố khác, đặc biệt là dinh dưỡng và thức ăn (chiếm 70-75% trong giá thành sản phẩm). Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 11/2016 [16] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 2. Nguồn tài nguyên thức ăn thô Vì lý do kinh tế và sinh thái dinh dưỡng, bò cần được cho ăn những thức ăn giàu xơ càng nhiều càng tốt. Thức ăn lý tưởng cho bò là cỏ xanh. Tuy nhiên, đồng cỏ ngày càng bị thu hẹp bởi sự gia tăng dân số và mở rộng các hoạt động kinh tế khác. Đất nông nghiệp được ưu tiên trồng cây lương thực và rau màu. Do vậy, thâm canh trồng cỏ để tăng năng suất chất xanh là tối cần thiết để chăn nuôi bò khi nguồn cỏ tự nhiên bị hạn chế và nguồn tài nguyên đất đai canh tác hạn hẹp. Trái lại, phần lớn những diện tích đất đai không phù hợp với việc trồng trọt, kể cả trồng cỏ, cũng có thể khai thác để sản xuất protein động vật thông qua chăn thả bò. Điều đó có nghĩa là những vùng đất rộng lớn không trồng trọt được lại có thể dùng làm đồng cỏ chăn thả bò. Mặt khác, khoảng 50% năng lượng quang hợp của các loại cây trồng lấy hạt và ngũ cốc nằm trong rơm rạ không làm thức ăn cho người nhưng bò lại tiêu hóa được. Đặc biệt, nhờ những kiến thức tích lũy được trong vài thập kỷ qua trong lĩnh vực sinh lý dinh dưỡng trâu bò, cùng với việc hoàn thiện các kỹ thuật dinh dưỡng mới, hiện nay các loại phụ phẩm vốn được coi là có chất lượng thấp như rơm rạ có thể khai thác được ở mức tối đa làm thức ăn cho trâu bò và các loài. Do vậy, chăn nuôi trâu bò là một hợp phần bổ sung quan trọng của trồng trọt, góp phần làm cho việc khai thác đất đai hiệu quả hơn. 3. Các nguồn thức ăn chính sử dụng để nuôi trâu bò Thức ăn cho gia súc nhai lại nói chung, cho bò thịt nói riêng rất đa dạng và phong phú. Có nhiều cách phân loại và nhiều thuật ngữ khác nhau để gọi tên các loại thức ăn. Để phân loại người ta dựa vào mối quan hệ giữa giá trị dinh dưỡng của thức ăn với khối lượng của nó, dựa vào nguồn gốc hoặc phương thức chế biến. Chúng tôi xếp các loại thức ăn cho trâu bò thành 7 nhóm, mặc dù có thể chưa có sự phân biệt tuyệt đối chính xác. 3.1. Thức ăn thô xanh Thức ăn thô xanh là loại thức ăn có khối lượng lớn nhưng hàm lượng chất dinh dưỡng trong 1kg thức ăn nhỏ, bao gồm các loại cỏ tươi, thân lá cây còn xanh, kể cả một số loại rau xanh... Đặc điểm của thức ăn thô xanh là chứa nhiều nước, dễ tiêu hóa, có tính ngon miệng cao và trâu bò thích ăn. Nhìn chung thức ăn xanh có tỷ lệ giữa các chất dinh dưỡng khá cân đối, chứa nhiều vitamin và protein có chất lượng cao. - Cỏ tự nhiên: là hỗn hợp các loại cỏ hòa thảo, chủ yếu là cỏ gà, cỏ lá tre, cỏ mật mọc tự nhiên, có thể được sử dụng cho trâu bò ngay trên đồng bãi dưới hình thức chăn thả hoặc cũng có thể thu cắt đưa về nhà và cho trâu bò ăn tại chuồng. Một ngày, trâu bò được chăn thả 8 giờ để gặm cỏ tự nhiên, đáp ứng 50% nhu cầu thức ăn thô xanh của chúng. Thành phần dinh dưỡng và chất lượng cỏ tự nhiên có sự biến động rất lớn và tùy thuộc vào mùa vụ trong năm, nơi mọc, giai đoạn phát triển (cỏ non hay cỏ già) và thành phần các loại cỏ. Khi sử dụng cỏ tự nhiên, cần lưu ý tránh cho trâu bò bị rối loạn tiêu hóa hoặc ngộ độc bằng cách sau khi thu cắt về, phải rửa (xổ) sạch cỏ để loại bỏ bụi, các hóa chất độc hại, thuốc trừ sâu Loại cỏ còn non hoặc cỏ thu cắt vào buổi sáng sớm hay ngay sau khi mưa, cần phải phơi tái để đề phòng trâu bò bị chướng bụng, đầy hơi. - Cỏ trồng: bao gồm các loại như cỏ voi, cỏ Ghinê, cỏ Stylo, cỏ Mulato, cỏ VA06, Centro, cỏ sả, cỏ Ruzi, cỏ ngọt Việc trồng cỏ rất quan trọng, đặc biệt là trong chăn nuôi thâm canh và theo quy mô trang trại, chăn nuôi công nghiệp. 1ha cỏ trồng có thể thu cắt được khoảng 200-400 tấn chất xanh (tùy thuộc vào giống cỏ trồng), có thể đáp ứng nhu cầu chất xanh của 4-5 con bò có khối lượng 250-300kg. Cần đa dạng hóa các giống cỏ trồng để có thể có cỏ xanh quanh năm cho trâu bò. 3.2. Thức ăn thô khô - Cỏ khô: là loại thức ăn thô xanh đã được sấy hoặc phơi khô nhờ ánh nắng mặt trời và dự trữ dưới hình thức đánh đống từng cột như cây rơm hoặc đóng thành bánh, Thức ăn thô xanh là thành phần quan trọng trong chăn nuôi bò Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 11/2016 [17] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI dùng vào những thời điểm khan hiếm thức ăn. Tuy nhiên, giá trị dinh dưỡng của cỏ khô luôn thấp hơn giá trị của cỏ tươi cùng loại vì bị tổn thất các chất dinh dưỡng trong quá trình phơi, sấy và bảo quản. - Rơm lúa: là nguồn thức ăn thô quan trọng trong chăn nuôi trâu bò ở nước ta. Rơm rạ sau khi thu hoạch lúa lấy hạt, được phơi khô rồi đánh đống (xây thành cơn rơm) để dự trữ làm thức ăn cho trâu bò lâu dài. Với tỷ lệ rơm/thóc là khoảng 10%, hàng năm Nghệ An có sản lượng thóc khoảng 1,1 triệu tấn thì sẽ có khoảng hơn 100.000 tấn rơm rạ. Nếu tận dụng tốt thì đây là một nguồn thức ăn khá lớn cho trâu bò. Một con trâu bò có thể tiêu thụ 2-3kg rơm khô, tương đương với lượng thức ăn thô xanh 10-12kg. Đặc điểm của rơm lúa là giá trị dinh dưỡng thấp, kém hấp dẫn, chứa nhiều chất xơ khó tiêu hóa, nghèo protein, khoáng chất, chứa ít tinh bột dễ hòa tan. Do đó, người ta thường áp dụng một số biện pháp chế biến như ủ rơm với urê, dung dịch amoniac hoặc kiềm hóa rơm để làm mềm hơn, trâu bò thích ăn hơn, đồng thời tăng hàm lượng nitơ cũng như tỷ lệ tiêu hóa và giá trị dinh dưỡng của rơm. 3.3. Phụ phẩm nông, công nghiệp - Ngọn, lá mía: chiếm 20% của cả cây mía. Như vậy, với năng suất mía bình quân 45-50 tấn/ha thì thải ra trên 9 tấn ngọn mía/ha, nuôi được 4 con bò trên 3 tháng (cho mỗi con bò ăn 25kg ngọn mía/ngày). Ở Nghệ An, với 3 nhà máy sản xuất đường công nghiệp, diện tích trồng mía lên tới hàng chục ngàn ha, sản lượng mía cây khoảng hơn 1 triệu tấn/năm, sẽ có khoảng 200.000 tấn ngọn mía (gấp đôi lượng rơm rạ), là nguồn thức ăn thô xanh rất lớn cho trâu bò. Tuy nhiên, vì ngọn mía chứa hàm lượng đường và xơ cao nhưng lại nghèo các thành phần dinh dưỡng khác, do đó chỉ nên sử dụng như loại thức ăn bổ sung đường mà không nên thay thế hoàn toàn thức ăn thô xanh trong một thời gian dài. - Vỏ và đọt dứa: là nguồn phụ phế phẩm do các nhà máy chế biến dứa xuất khẩu thải ra, có khối lượng rất lớn, chứa nhiều đường nhưng lại thiếu đạm và xơ. Chính vì vậy, không nên sử dụng vỏ và đọt dứa thay thế hoàn toàn thức ăn thô xanh. Tốt nhất nên cho trâu bò ăn không quá 10-15kg vỏ và đọt dứa/ngày và chia ra cho ăn nhiều lần. - Bã đậu tương: là phụ phẩm của quá trình chế biến hạt đậu tương thành đậu phụ và sữa đậu nành, có mùi thơm, vị ngọt, hàm lượng chất béo và protein rất cao. Chính vì vậy, nó có thể được coi là loại thức ăn bổ sung protein cho gia súc và mỗi ngày có thể cho ăn 10- 15kg/con. Bã đậu tương sống có chứa men phân giải urê nên khi cùng lúc sử dụng với một số loại thức ăn có chứa urê (như rơm ủ urê, bánh dinh dưỡng, thức ăn hỗn hợp) thì phải chia nhỏ thành nhiều bữa, tránh tình trạng urê bị phân giải nhanh chóng, tạo ra khối lượng lớn khí amoniac dễ gây ngộ độc cho trâu bò. - Bã bia: là xác bã của ngũ cốc thải ra sau quá trình lên men để sản xuất bia, nhiều nước, có mùi thơm và vị ngon, hàm lượng khoáng, vitamin (chủ yếu là vitamin nhóm B), protein cao. Vì vậy, nó có thể được coi là loại thức ăn bổ sung đạm. Ngoài ra, bã bia còn chứa các chất kích thích tính thèm ăn và làm tăng khả năng tiết sữa của bò nuôi trong điều kiện nhiệt đới. Bã bia có thể cho gia súc ăn trực tiếp, tuy nhiên nếu đem bã bia trộn với thức ăn tinh (cám gạo, bột sắn, bột ngô...) với tỷ lệ 5- 10% rồi ủ yếm khí trong 24-48 giờ, giúp cải thiện chất lượng của thức ăn, làm tăng tính ngon miệng và tỷ lệ tiêu hóa thức ăn. Khi bảo quản lâu dài thì quá trình lên men sẽ làm mất đi một phần các chất dinh dưỡng, đồng thời làm cho độ chua của bã bia tăng lên. Chính vì vậy, trong thực tế, để kéo dài thời gian bảo quản bã bia, người ta thường cho thêm 1% muối ăn. - Bã sắn: là phụ phế phẩm của quá trình chế biến tinh bột từ củ sắn, chứa nhiều tinh bột (khoảng 60%) nhưng lại nghèo chất đạm. Nghệ An có diện tích trồng sắn khá lớn, có 2 nhà máy chế biến tinh bột sắn, lượng bã sắn thải ra là khá nhiều, nếu không biết tận dụng nó để làm thức ăn cho gia súc thì đây sẽ là một nguồn chất thải gây ô nhiễm môi trường rất nguy hiểm. Khi sử dụng bã sắn nên trộn với urê hoặc bã đậu nành, đồng thời nên cho thêm bột sò, bột khoáng vào hỗn hợp thì chất lượng dinh dưỡng sẽ tốt và cân đối hơn. Hỗn hợp này có thể được sử dụng để thay thế một phần (có thể thay thế tới 50%) lượng thức ăn tinh trong khẩu phần. Bã sắn có thể dự trữ được khá lâu do một phần tinh bột trong bã sắn lên men và tạo ra pH = 4-5. Bã sắn tươi có vị hơi chua nên gia súc thích ăn, có thể cho ăn tươi (10- 15 kg/con/ngày). Cũng có thể phơi, sấy khô bã sắn để làm nguyên liệu phối chế thức ăn hỗn hợp. Một điều cần quan tâm là trong bã sắn có chứa một lượng Hidro xyanua, còn gọi là Axit xianhidric (viết tắt Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 11/2016 [18] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI là HCN) độc tính rất cao, có thể gây chết cho động vật nói chung, gia súc nói riêng, thậm chí cả người. Có thể làm giảm hàm lượng HCN trong bã sắn bằng cách sấy khô (phơi nắng hoặc trong lò sấy), tuy nhiên tốt nhất là trộn với bột men hoặc bã bia rồi ủ yếm khí trong thời gian 3-5 ngày. - Rỉ mật đường: là phụ phẩm của quá trình chế biến đường mía. Lượng rỉ mật thường chiếm 3% so với lượng mía tươi. Cứ 1.000kg mía thì người ta thu được 30kg rỉ mật. Như vậy, từ 1ha, mỗi năm thu được trên 1.300kg rỉ mật. Ở Nghệ An với 3 nhà máy sản xuất đường công nghiệp, hàng năm cho ra hàng ngàn tấn rỉ mật đường, phần lớn đang dùng để chế biến cồn. Nếu sử dụng chúng để làm thức ăn cho trâu bò thì đây sẽ là một nguồn thức ăn không hề nhỏ để góp phần phát triển chăn nuôi. Rỉ mật chứa nhiều đường, nguyên tố đa lượng và vi lượng, thường được sử dụng để ủ chua thức ăn, là thành phần chính trong bánh đa dinh dưỡng hoặc cho ăn lẫn với rơm lúa Tuy nhiên, mỗi ngày cũng chỉ nên cho trâu bò ăn 1-2 kg rỉ mật đường/con vì rỉ mật đường nhuận tràng và có thể gây tiêu chảy. - Thức ăn ủ chua: là loại thức ăn thô xanh được tạo ra sau quá trình ủ chua. Thức ăn ủ chua tổn thất ít nhất các chất dinh dưỡng so với quá trình phơi khô, làm tăng tỷ lệ tiêu hóa thức ăn của trâu bò. Thức ăn ủ chua có những đặc tính sau: có mùi thơm dễ chịu (nếu có mùi khó ngửi chứng tỏ đã bị thối hỏng); vị hơi chua, không đắng và không chua gắt; màu đồng đều, gần tương tự như màu của cây trước khi đem ủ (hơi nhạt hơn một chút); không có nấm mốc; trâu bò thích ăn. Về nguyên tắc, có thể ủ chua các loại thức ăn thô xanh, kể cả thức ăn hạt và củ quả, nhưng thông thường người ta hay ủ chua thân, lá cây bắp, cỏ voi, cỏ tự nhiên, thân lá cây ngô và trong khi ủ cho thêm rỉ mật đường và muối. Có thể sử dụng thức ăn ủ chua để thay thế một phần cỏ tươi (khoảng 15-20 kg/con/ngày). 3.4. Thức ăn củ quả Thức ăn củ quả bao gồm khoai lang, khoai tây, cà rốt, củ cải, bầu, bí rất tốt cho gia súc. Chúng có mùi thơm, vị ngon, gia súc rất thích ăn. Thức ăn củ quả có hàm lượng nước, chất bột đường và vitamin C cao. Hạn chế của chúng là nghèo protein, chất béo, xơ và các muối khoáng, khó bảo quản và dự trữ lâu dài. Người ta thường dùng thức ăn củ quả để cải thiện những khẩu phần ít nước, nhiều xơ, nghèo chất bột đường (ví dụ khẩu phần nhiều rơm khô). Lượng thức ăn củ quả cho trâu bò trung bình khoảng 4-5 kg/con/ngày. 3.5. Thức ăn tinh Là loại thức ăn có khối lượng nhỏ nhưng hàm lượng chất dinh dưỡng trong 1kg thức ăn rất lớn. Hàm lượng chất xơ <18%. Nhóm này bao gồm các loại hạt ngũ cốc và bột của ngô, mì, lúa gạo, bột và khô dầu đậu nành, bột và khô dầu lạc, các loại hạt của cây họ đậu và các loại thức ăn hỗn hợp được sản xuất công nghiệp. Đặc điểm của thức ăn tinh là hàm lượng nước và xơ đều thấp, chứa nhiều chất quan trọng như: đạm, chất bột đường, chất béo, chất khoáng và vitamin. Tỷ lệ tiêu hóa các chất dinh dưỡng khá cao. Thông thường, người ta sử dụng thức ăn tinh để hoàn thiện các loại khẩu phần ăn được cấu thành từ các thức ăn thô. Các nhà máy sản xuất đường tại Nghệ An hàng năm cho ra hàng ngàn tấn rỉ mật Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 11/2016 [19] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI tương, khô dầu hạt bông, khô dầu vừng, khô dầu dừa, khô dầu hạt hướng dương Khô dầu rất sẵn có ở nước ta và được xem là loại nguyên liệu thức ăn cung cấp năng lượng và bổ sung đạm cho gia súc. Nhìn chung, khô dầu đậu tương, khô dầu lạc thường chứa ít canxi, phosphore, vì vậy khi sử dụng cần bổ sung thêm khoáng. Có thể cho gia súc ăn khô dầu riêng lẻ hoặc phối hợp với một số loại thức ăn khác thành thức ăn tinh hỗn hợp. Các loại khô dầu trong quá trình bảo quản thường hay bị ẩm dẫn tới bị mốc, sản sinh ra độc tố nấm mốc (mycotoxin), cần hết sức chú ý khi bảo quản. 3.6. Thức ăn bổ sung Là loại thức ăn được thêm vào khẩu phần với số lượng nhỏ để cân bằng một số chất dinh dưỡng thiếu hụt như chất đạm, khoáng và vitamin. Trong số các loại thức ăn bổ sung vào thức ăn cho trâu bò thì quan trọng nhất là urê và hỗn hợp khoáng. - Urê: là một trong những chất chứa nitơ vô đạm (nitơ phi protein), đã được sử dụng từ lâu và rộng rãi trong chăn nuôi gia súc nhai lại nói chung và bò nói riêng. Có thể sử dụng urê theo 4 cách: trộn vào thức ăn hỗn hợp, trộn với rỉ mật đường, trộn với một số thành phần làm bánh đa dinh dưỡng và trộn ủ với cỏ hoặc rơm (ủ rơm với 4% urê). Khi sử dụng urê, cần chú ý những vấn đề sau đây: Phải cung cấp đầy đủ chất bột đường dễ lên men vào khẩu phần của trâu bò để giúp cho VSV có đủ năng lượng để sử dụng khí amoniac phân giải ra từ urê và tổng hợp nên protein, nếu không trâu bò sẽ bị ngộ độc và chết. Đối với những con trâu bò trước đó chưa ăn urê thì cần có thời gian làm quen, hàng ngày cho ăn từng ít một, tăng lên từ từ, rồi có thể cho ăn thoả mãn và thời gian làm quen có thể kéo dài từ 5-10 ngày. Chỉ sử dụng urê cho trâu bò trưởng thành, không sử dụng cho gia súc non, vì dạ cỏ của chúng chưa phát triển hoàn chỉnh. Khi bổ sung urê vào khẩu phần có thể trâu bò không thích ăn, vì vậy cần trộn lẫn urê với một số loại thức ăn khác như rỉ mật đường và cho ăn làm nhiều lần trong ngày, mỗi lần một ít. - Thức ăn bổ sung khoáng: có vai trò rất quan trọng đối với gia súc. Để bổ sung khoáng đa lượng như canxi, người ta thường sử dụng bột đá vôi, bột sò. Để bổ sung phosphore, có thể dùng bột xương, phân lân nung chảy hoặc dicalci phosphate. Các loại khoáng vi lượng (coban, đồng, kẽm) thường được dùng dưới dạng muối sulphate (sulphat coban, sulphat đồng, sul- phat kẽm). Trong thực tế, việc cung cấp từng chất khoáng riêng rẽ gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là đối - Cám gạo: là một trong những loại thức ăn tinh quan trọng và được dùng phổ biến trong chăn nuôi gia súc. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của cám gạo phụ thuộc vào quy trình xay xát lúa, thời gian bảo quản. Cám gạo còn mới có mùi thơm, vị ngọt, nhưng nếu để lâu, nhất là trong điều kiện bảo quản kém sẽ trở nên ôi thiu, khét, có vị đắng, thậm chí bị vón cục, mốc và không sử dụng được nữa. Cám gạo có thể được coi là loại thức ăn tinh cung cấp năng lượng và đạm trong khẩu phần ăn của gia súc. Tuy nhiên, không nên sử dụng cám gạo trong khẩu phần với tỷ lệ quá cao, bởi vì hàm lượng canxi trong cám gạo rất thấp. Cần bổ sung bột xương, bột sò và muối ăn vào khẩu phần có tỷ lệ cám gạo cao. Cám chiếm 7÷8% khối lượng của hạt lúa. Nghệ An hàng năm sản xuất sản lượng lúa khoảng 1,1 triệu tấn, sẽ cho ra khoảng 77.000÷88.000 tấn cám. - Bột ngô: có hàm lượng tinh bột cao và được sử dụng như là một nguồn cung cấp năng lượng. Tuy nhiên, cũng như cám gạo, không nên chỉ sử dụng bột ngô như là một nguồn thức ăn tinh duy nhất, mà phải trộn thêm bột xương, bột sò và muối ăn vào khẩu phần, bởi vì hàm lượng các chất khoáng, nhất là canxi và phos- phore trong bột ngô thấp. - Bột khoai sắn: được sản xuất ra từ củ sắn thái lát, phơi khô và nghiền nhỏ. Bột sắn là loại thức ăn giàu chất đường, giàu tinh bột, nhưng lại nghèo chất đạm, canxi và phosphore. Vì vậy, khi sử dụng cần bổ sung thêm urê, các loại thức ăn giàu đạm như bã đậu tương, bã bia và các chất khoáng... để nâng cao giá trị dinh dưỡng của khẩu phần. Bột sắn là loại thức ăn rẻ, sắn lát phơi khô có thể bảo quản dễ dàng quanh năm. Một điểm bất lợi của sắn là có chứa một lượng Hidro xyanua, còn gọi là Axit xianhidric (viết tắt là HCN) có độc tính rất cao, có thể gây chết cho động vật nói chung, gia súc nói riêng, thậm chí cả người. Để làm giảm hàm lượng loại HCN, khi sử dụng củ sắn, cần lột vỏ, ngâm vào nước và thay nước nhiều lần trước khi thái lát và phơi khô. Cũng có thể nấu chín để loại bỏ HCN. - Bánh khô dầu: là một nhóm các phụ phẩm có được sau khi chiết tách dầu từ các loại hạt có dầu bao gồm: khô dầu lạc, khô dầu đậu Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 11/2016 [20] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI với khoáng vi lượng vốn rất cần thiết nhưng lại chỉ với số lượng nhỏ, nên khó bảo đảm chính xác về định lượng. Vì vậy, người ta thường phối hợp nhiều loại khoáng với nhau theo tỷ lệ nhất định dưới dạng premix khoáng, dùng để trộn vào các loại thức ăn tinh. Người ta cũng có thể bổ sung khoáng cho trâu bò dưới dạng đá liếm, có trộn lẫn với rỉ mật hoặc đất sét, xi măng... 4. Phối hợp khẩu phần ăn Khẩu phần ăn là hỗn hợp các loại nguyên liệu thức ăn để thỏa mãn các nhu cầu dinh dưỡng cho gia súc trong một ngày đêm. 4.1. Yêu cầu (nguyên tắc) chung của khẩu phần Khi phối hợp khẩu phần cho bò thịt cần đảm bảo các yêu cầu sau đây: Đáp ứng đầy đủ và cân đối các chất dinh dưỡng theo tiêu chuẩn của chúng; Khối lượng và thể tích phải phù hợp với dung tích bộ máy tiêu hóa; Đảm bảo tính ngon miệng, vật nuôi có thể ăn hết và đủ no; Đảm bảo an toàn vệ sinh thú y và an toàn vệ sinh thực phẩm cho sản phẩm tạo ra; Tận dụng các nguồn nguyên liệu thức ăn sẵn có và thuận lợi cho việc tổ chức chăn nuôi; Khẩu phần phải rẻ để đảm bảo hiệu quả kinh tế chăn nuôi. 4.2. Các phương pháp xây dựng khẩu phần Xây dựng khẩu phần là cơ sở quan trọng để người chăn nuôi dựa vào đó mà cung cấp thức ăn đáp ứng đầy đủ dinh dưỡng cho con vật, làm cho chúng có hoạt động sản xuất (cho thịt, sữa, trứng) theo yêu cầu. Thông thường có hai cách phối hợp khẩu phần cho bò: Cách thứ 1: Tính toán tiêu chuẩn ăn cho con vật, tiếp theo làm bảng phối hợp thử, sau đó điều chỉnh và bổ sung các loại nguyên liệu thức ăn có giá trị dinh dưỡng khác nhau sao cho phù hợp với nhu cầu. Cách thứ 2: Xây dựng một khẩu phần thức ăn cơ sở, sau đó bổ sung thức ăn tinh, tùy theo mức tăng trọng cần đạt. Cách làm này dễ áp dụng hơn, cho phép chủ động sử dụng các loại nguyên liệu thức ăn sẵn có ở địa phương. Dù áp dụng phương pháp nào, các thông tin cơ bản cần có khi xây dựng khẩu phần ăn cho bò thịt là: Nhu cầu dinh dưỡng của bò (bao gồm nhu cầu cho duy trì, nhu cầu cho sản xuất); Thành phần, giá trị dinh dưỡng và đặc điểm tiêu hóa của các loại nguyên liệu thức ăn dự kiến sẽ sử dụng; Khả năng thu nhận và giới hạn sử dụng các loại nguyên liệu thức ăn khác nhau trong khẩu phần; Nguồn, số lượng sẵn có và giá của các loại nguyên liệu thức ăn dự kiến đưa vào khẩu phần. 4.3. Nguyên tắc chung trong chế độ ăn Cung cấp đầy đủ thức ăn theo tiêu chuẩn, khẩu phần ăn; Thức ăn được cung cấp đồng thời, đồng đều, liên tục và ổn định; Không thay đổi thức ăn đột ngột mà phải tiến hành thay đổi từ từ bằng cách đưa dần thức ăn mới vào khẩu phần, thời gian làm quen thức ăn mới là 4-5 ngày; Bảo đảm trong thức ăn tinh phải có cả loại giàu năng lượng và giàu protein. 5. Giới thiệu một số khẩu phần ăn trong nuôi bò thịt Trên cơ sở các loại nguyên liệu thức ăn trên, bổ sung khoáng và vitamin phối hợp thành khẩu phần hoàn chỉnh để vỗ béo bò theo công thức. Chúng tôi xin giới thiệu một số ví dụ để độc giả có thể tham khảo. Bảng 1. Khẩu phần cho bò nuôi thịt (kg/con/ngày) Khối lượng bò (kg) Cỏ tươi (kg) Cỏ khô (kg) Rơm lúa (kg) Thức ăn hỗn hợp (kg) 200 15 1 4 1,5 230 20 1 4 2,0 260 20 1 4 2,5 290 25 1 4 3,0 320 30 1 4 3,5 350 30 1 4 4,0 phần vỗ béo, chúng ta phải tập dần để bò quen với thức ăn mới, sau đó tiến hành cho ăn. Nhu cầu dinh dưỡng của bò trong các giai đoạn vỗ béo được trình bày ở bảng 2. Căn cứ vào khối lượng bò đang nuôi, dựa vào các mức thức ăn (khẩu phần) trong bảng 1, người chăn nuôi tìm kiếm các nguồn thức ăn để cung cấp cho bò. Khi cho bò ăn theo khẩu Tạp chí KH-CN Nghệ AnSỐ 11/2016 [21] NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Thông tin trên bảng 3 cho thấy, trong các vụ (mùa) khác nhau trong năm, độ tuổi, khối lượng của bò, theo thời gian nuôi, người chăn nuôi cần cho bò ăn bao nhiêu thức ăn (tinh, xanh)/ngày và đó là những loại thức ăn nào./. Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Xuân Bả (2006), Đánh giá khả năng sử dụng cây dâu tằm (Morus alba), cây dâm bụt (Hi- biscus rosasinensis L.) làm thức ăn cho gia súc nhai lại ở miền Trung, Việt Nam, Luận án tiến sĩ Nông nghiệp. 2. Vũ Duy Giảng, Nguyễn Xuân Bả, Lê Đức Ngoan, Nguyễn Xuân Trạch, Vũ Chí Cương, Nguyễn Hữu Văn (2008), Dinh dưỡng và thức ăn cho bò, NXB Nông nghiệp. 3. Lê Đức Ngoan, Nguyễn Xuân Bả và Nguyễn Hữu Văn (2007), Thức ăn cho gia súc nhai lại trong nông hộ miền Trung, NXB Nông nghiệp. 4. Pozy P., D. Dehareng và Vũ Chí Cương (2002), Nuôi dưỡng bò ở miền Bắc Việt Nam: Nhu cầu dinh dưỡng của bò và giá trị dinh dưỡng của thức ăn, NXB Nông nghiệp. 5. Nguyễn Thiện (2004), Trồng cỏ nuôi bò sữa, NXB Nông nghiệp. 6. Nguyễn Xuân Trạch (2002, 2003, 2004, 2005, 2007), Sử dụng phụ phẩm nuôi gia súc nhai lại, NXB Nông nghiệp. 7. Nguyễn Xuân Trạch (2007), Giáo trình chăn nuôi trâu bò, NXB Nông nghiệp. 8. Viện chăn nuôi quốc gia (1995), Thành phần và giá trị dinh duỡng thức ăn gia súc, gia cầm Việt Nam, NXB Nông nghiệp. 9. FAO, 1998. Tropical feeds, 8th Edition. FAO, Rome ( GA/AGAP/FRG/conf96.htm/guo.htm). trên bảng 2 cho thấy lượng thức ăn được cung cấp như trên bảng 1 phải đảm bảo mức dinh dưỡng theo yêu cầu của bò. Nếu các số liệu trên bảng 1 cho thấy khối lượng thức ăn mà người chăn nuôi phải cung cấp cho 1 con bò/1 ngày đêm, thì các số liệu Bảng 3. Các công thức khẩu phần ăn cho bò vỗ béo theo vụ Vụ Loại bò vỗ béo Thức ăn tinh(kg/ngày) Thức ăn xanh (kg/ngày) Các loại thức ăn Tuổi bò P của bò(kg/con) 15 ngày đầu Trên 60 ngày 15 ngày đầu Trên 60 ngày Đông xuân (tháng 10 năm trước - tháng 3 năm sau) 3,5 >25 >30 Đậu nho nhe, cỏ voi, thân lá lạc, bẹ thân cây ngô, thân chuối 3-6 tuổi 300-400 1,4 >3 30-40 >40 >6 tuổi >400 1,5 >3,5 >40 >40 Các vụ khác trong năm (tháng 4-10) 2 > 25 >30 Cỏ voi, bẹ thân cây ngô, dây khoai, thân lá lạc 3-6 tuổi 300-400 1,1 >2,5 >35 >35 >6 tuổi >400 1,2 >2 >40 >40 Bảng 2. Tiêu chuẩn và nhu cầu dinh dưỡng của bò vỗ béo Loại bò Khối lượng(kg) Chất khô (%) của khối lượng Năng lượng trao đổi (Kcal/kg TĂ) Protein thô (% trong khẩu phần) Tăng trọng (kg) Đang lớn 150 2,6 2.866 15,0 1,0 200 2,7 2.746 13,0 1,0 250 2,9 2.746 12,0 1,3 300 2,8 2.627 11,5 1,3 Đực tơ 350 2,9 2.579 11,2 1,4 400 2,8 2.579 11,0 1,4 500 2,6 2.476 11,0 1,4 Cái tơ 250 3,0 2.627 12,0 1,2300 2,9 2.627 11,5 1,2

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgiai_quyet_van_de_thuc_an_trong_phat_trien_chan_nuoi_bo_thit.pdf
Tài liệu liên quan