Từ những điều đã phân tích ở phần trên,
chế định giải thích Hiến pháp và luật là một
chế định thể hiện cơ chế cũ hệ thống pháp luật
xã hội chủ nghĩa trước đây, được sao chép lại
hay có thể nói một cách mềm hơn là kế thừa từ
hệ thống pháp luật của Liên xô cũ, mà sâu xa
hơn nữa chế định này được sao chép/kế thừa
từ hệ thống pháp luật Civil Law, hệ thống pháp
luật văn bản của Châu Âu phần lục địa, mà đến
nay nhiều nước của hệ thống này cũng không
sử dụng. Hệ thống văn bản pháp luật do con
người làm ra, con người có khuyết tật nên văn
của con người cũng có khuyết tật, vẫn được gọi
là những lỗ hổng. Những lỗ hổng này sẽ được
sửa chữa bằng chính họat động lập pháp của
Quốc hội và bằng chính các hoạt động giải
thích của Tòa án. Việc giải thích Hiến pháp
thường rơi vào việc giải thích của Tòa án tối
cao. Việc liên quan đến quy định của Hiến
pháp là những quy định rất khó khăn cho mỗi
khi áp dụng, vì vậy những vụ việc này thường
được đẩy lên cấp cuối cùng của hệ thống tư
pháp.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 249 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải thích hiến pháp và luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá thaùng 1/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
3
GIẢI THÍCH HIẾN PHÁP VÀ LUẬT
Nguyễn Đăng Dung 1
CAÛI CAÙCH TÖ PHAÙP
1 Giáo sư, Tiến sỹ, Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
2 Xem, Phạm Hồng Thái và Đinh Văn Mậu: Lý luận chung Nhà nước và pháp luật tr. 413 - 414 Nxb. Giao thông
vận tải Ha nội 2009. Xem : Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà nội: Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật
Trong lý luận nhà nước và pháp luật của
các nước xã hội chủ nghĩa, thông thường giải
thích pháp luật có hai hình thức: giải thích
chính thức – bắt buộc phải thực hiện – và giải
thích không chính thức – không bắt buộc phải
thực hiện2. Giải thích không chính thống là giải
thích của tất cả chủ thể trong xã hội nhưng
không bắt buộc các chủ thể trong xã hội phải
thực hiện. Trong số đó phải tính đến giải thích
của các nhà khoa học luật pháp đóng một vai
trò quan trọng. Hàng ngày đội ngũ này cung
cấp một loại các bài báo, các sách vở khác
nhau giúp cho xã hội tăng cường sự nhận thức
về các văn bản pháp luật, nhưng đó không phải
là những giải thích chính thống. Người sử dụng
các sản phẩm giải thích này trong hoạt động
của mình phải hoàn toàn chịu trách nhiệm
trước pháp luật. Phạm vi của bài viết này chỉ
tập trung vào bàn những vấn đề có liên quan
đến phạm vi, chủ thể của giải thích chính
thống. Những giải thích có mục tiêu bắt buộc
các chủ thể trong xã hội phải thực hiện khi có
liên quan.
Giải thích chính thức luật pháp được Hiến
pháp trước đây và hiện nay quy định cho Ủy
ban Thường vụ Quốc hội. Trong những trường
hợp các quy định của Hiến pháp cần có một sự
giải thích thì Ủy ban thường vụ Quốc hội
thường ban hành một văn bản được gọi là nghị
quyết, chứa đựng nội dung của sự giải thích.
Quy trình giải thích Hiến pháp của Ủy ban
Thường vụ như quy trình thông qua một dự
thảo pháp lệnh được quy định trong Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
Chương XIV với tiêu đề: Giải thích Hiến pháp,
luật và pháp lệnh, Luật nói trên quy định
nguyên tắc của giải thích: i.Đúng với tinh thần,
mục đích, yêu cầu, quan điểm chỉ đạo ban
Tóm tắt: Mặc dù được Hiến pháp quy định quyền giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh,
nhưng vì không trực tiếp áp dụng pháp luật, nên rất hiếm khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội thực
hiện. Giải thích Hiến pháp nên được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Ở nghĩa rộng nhất,
mọi chủ thể trong xã hội đều có quyền giải thích Hiến pháp. Nhưng ở nghĩa hẹp nhất, giải thích
này được quy định cho tất cả các chủ thể là các cơ quan nhà nước, nhưng quyền giải thích cuối
cùng nằm trong tay cơ quan Tòa án. Mọi sự giải thích phải được đặt trong phạm vi quyền hạn
xét xử của cơ quan Tòa án.
Từ khóa: Giải thích Hiến pháp; hoạt động lập pháp của Quốc hội; hoạt động giải thích của
Tòa án.
Nhận bài: 10/10/2016; Hoàn thành biên tập: 25/11/2016; Duyệt đăng: 20/12/2016
Interpretation of the Constitution and the Law
Abstract: The Standing Committee of the National Assembly seldomly performs the authority
of interpreting constitution, laws and ordinance which is regulated by the Consitution since it
doesnot directly execute these legal documents. Constitution interpretation should be defined
both broadly and narrowly. In the broadest sense, all subjects in the society reserve right to
interprete constitution. The most narrowly, the interpretation is reserved to subjects of the State
bodies, but the final interpretation is assigned to the court. All the explanations must be placed
within the jurisdiction of the courts.
Keywords: Interpretation of the Constitution; Legislative activities of the National Assembly;
Active interpretation of the Court.
Received: Oct 10th, 2016; Editingcompleted: Nov 25th, 2016; Accepted for publication: Dec
20 th, 2016.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
4
hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh; ii. Phù hợp
với nội dung, ngôn ngữ của Hiến pháp, luật,
pháp lệnh; và iii. Không được sửa đổi, bổ sung
hoặc đặt ra quy định mới. (Điều 158 Luật
BHVBQPPL). Quy định là phạm vi giải thích.
Nói một cách khác giải thích phải nằm trong
phạm vi khuôn khổ cũng như tinh thần của nhà
lập pháp.
Nhiệm vụ này được Hiến pháp quy định tại
Điều 74, khoản 2: Ủy ban Thường vụ Quốc hội
có quyền giải thích Hiến pháp, luật và pháp
lệnh. Quy định Hiến pháp này được Luật Tổ
chức Quốc hội năm 2014 quy định trình tự thủ
tục thực hiện quyền giải thích pháp luật tại
Điều 47 như sau:
1. Ủy ban thường vụ Quốc hội tự mình
hoặc theo đề nghị của Chủ tịch nước, Chính
phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Hội đồng dân tộc, Ủy ban
của Quốc hội, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, cơ quan trung ương của tổ
chức thành viên của Mặt trận hoặc kiến nghị
của đại biểu Quốc hội quyết định việc giải
thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh.
2. Tùy theo tính chất, nội dung của vấn đề
cần được giải thích, Ủy ban thường vụ Quốc
hội giao Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Hội đồng
dân tộc, Ủy ban của Quốc hội xây dựng dự
thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật,
pháp lệnh trình Ủy ban thường vụ Quốc hội
xem xét, quyết định.
3. Dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp,
luật, pháp lệnh phải được Hội đồng dân tộc, Ủy
ban của Quốc hội thẩm tra về sự phù hợp của
dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật,
pháp lệnh với tinh thần và nội dung quy định
được giải thích của Hiến pháp, luật, pháp lệnh.
Quy định này tương tự như việc giải thích
Hiến pháp và Luật của Đoàn Chủ tịch Xô viết
tối cao3. Thực ra quy định này còn có xuất xứ
từ nguyên tắc của hệ thống pháp luật văn bản
(Luật Dân sự - Civil law) của Châu Âu lục địa
Theo nguyên tắc: “Người làm được việc lớn,
thì tất nhiên bao giờ cũng làm được việc nhỏ”
của hệ thống Luật La mã cổ đại (qui peut le
plus peut le moins)4 . Trong điều kiện hiện nay
điều trên có lẽ là không còn phù hợp. Người
thủ trưởng của một tổ chức không thể có một
khả năng làm được tất cả mọi việc. Trước đây
người Pháp cũng có quy định về việc giải thích
Hiến pháp và luật cho cơ quan lập pháp của
mình. Nhưng sau nhiều thời gian cơ quan lập
pháp không thực hiện được nên hiện nay chức
năng giải thích Hiến pháp và luật được chuyền
cho Tòa án tư pháp. Trong khi đó, mặc dù
không nằm trong hệ thống/ dòng họ Civil Law,
pháp luật của các nước thuộc hệ thống xã hội
chủ nghĩa trước đây vẫn có những đặc điểm cơ
bản mang biểu hiện của dòng pháp luật này:
Tòa án không được quyền giải thích luật.
Quyền đó thuộc về Ủy ban thường vụ Quốc hội
– cơ quan thường trực hoạt động thường xuyên
của cơ quan có quyền lập pháp. Hiến pháp
trước đây và Hiến pháp hiện hành cũng quy
định như vậy, không có sự thay đổi.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội Việt Nam
trong lịch sử của Việt Nam rất ít sử dụng quyền
hiến định này.Theo thống kê kể từ ngày Hiến
pháp quy định Ủy ban Thường vụ Quốc hội có
thẩm quyền giải thích Hiến pháp, Luật, pháp
lệnh đến nay mới tiến hành được 5 lần5 .
Sở dĩ có hiện tượng trên, vì Uỷ ban thường
vụ Quốc hội không phải là chủ thể quan trọng
của sự áp dụng Hiến pháp và luật. Một khi
không là chủ thể áp dụng thì, sẽ không bao giờ
cảm thấy sự mắc mớ của quy phạm Hiến pháp
và luật. Không thể là một sự ngẫu nhiên mà
người ta giao thẩm quyền giải thích luật cho
các Thẩm phán của Toà án ở nhiều nước.
Một quy tắc của quy phạm có thể được
hiểu ở nhiều giác độ khác nhau, các chủ thể có
3 Xem, Luật Nhà nước CHLBXV. Moscow 1989 tr. 304 (tiếng Nga)
4 Xem, Vũ Văn Mẫu, Dân luật khái luận, Bộ Giáo dục quốc gia, S. 1961, t. 104
5 Trần Ngọc Đường: Thực trạng và nhu cầu giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh trong thời gian tới từ thực
tiễn hoạt độngcủa Quốc hội / Hội thảo Giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh theo Hiến pháp năm 2013 của Viện
Nghiên cứu lập pháp Hà nội tháng 6 năm 2016
Soá thaùng 1/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
5
thể áp dụng theo cách hiểu đa dạng, phụ thuộc
vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể, để có được
quyền lợi thuộc về mình. Một khi giữa họ
không có mâu thuẫn về quyền lợi, thì là điều
tốt. Nhưng một khi quyền lợi mâu thuẫn trong
cùng một việc áp dụng nội dung của quy phạm,
thì họ phải nại ra toà, nơi duy nhất hiện nay
được nhiều nước quy định có thẩm quyền phán
xử sự đúng sai của mỗi bên. Chính phận sự
phải phán quyết các vụ việc mâu thuẫn buộc
Tòa án phải có chức năng giải thích chính thức
các quy định của pháp luật. Đó là thẩm quyền
được giải thích luật của Toà án, chứ không phải
của một cơ quan nào khác, kể cả Quốc hội –
nơi ban hành ra văn bản chứa đựng quy phạm.
Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội
với tư cách là một cơ quan lập pháp, và cơ cấu
thường trực của quyền lập pháp, có quyền sửa
đổi các đạo luật, pháp lệnh đã được ban hành,
theo một trình tự nhất định. Một khi luật hoặc
pháp lệnh đã được sửa đổi, thì lúc bấy giờ cho
phép các cơ quan, các chủ thể áp dụng theo
tinh thần của luật mới chứ không phải luật cũ.
Đó là quyền lập pháp mà không phải là quyền
giải thích. Quyền làm luật là một chuyện, còn
quyền giải thích nó để áp dụng, lại là một
chuyện khác. Đó là hai chuyện thuộc 2 quyền
lập pháp và tư pháp rất khác nhau, cần phải
phân biệt và không nên nhầm lẫn.
Ở góc độ chấp hành Hiến pháp, việc ban
hành các đạo luật cần phải tuân thủ các quy
định của Hiến pháp, thì ở nghĩa rộng theo tôi
cũng là giải thích Hiến pháp. Quyền giải thích
này nằm ở chỗ các văn bản luật của Quốc hội
khi được thông qua phải tuân thủ các quy định
của Hiến pháp.
Việc thực thi quy định giải thích Hiến pháp,
luật và pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc
hội có một số khó khăn nhất định sau:
Thứ nhất, không được đặt trong một
trường hợp cụ thể cho dù các thành viên của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội có tài ba đến mấy
đi chăng nữa, cũng khó có thể giải thích được.
Giải thích rồi để áp dụng, mà không giải thích
rồi lại để đấy, không áp dụng, tức là sự giải
thích này không có ý nghĩa. Trong trường hợp
Uỷ ban thường vụ Quốc hội giải thích một văn
bản luật nào đó, tức là Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội đã thực hiện quyền ra làm luật/pháp
lệnh của mình để thay thế cho một luật/ pháp
lệnh trước đó. Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật đã quy định trình tự giải thích
như trình tự thông qua một dự án pháp lệnh của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Thứ hai, muốn giải thích được điều luật
một cách chính xác, thì phải trăn trở với nó. Và
muốn trăn trở thì buộc phải đặt việc giải thích
trong một vụ việc cụ thể, gắn với các sự kiện
pháp lý. Chỉ có Toà án với nguyên tắc nghĩa vụ
phải xét xử của Thẩm phán (Obligation de
juger), mà không thể nại ra rằng, vì không có
luật, nên mới có điều kiện cũng như nghĩa vụ
trách nhiệm bắt buộc cho việc giải thích này.
Điều phân tích trên còn có nghĩa, giải thích
điều luật phải gắn với một trường hợp cụ thể,
mà không giải thích chung chung, tức là phải
gắn với hoạt động xét xử một vụ việc cụ thể.
Việc chúng trở thành điều luật là được áp dụng
cho những trường hợp tương tự cho sau này,
mà hoàn toàn thuần khiết chúng vốn dĩ không
phải là luật.
Vì không gắn với một trường hợp cụ thể,
nên trong thực tế ở Việt nam đã có trường hợp:
mặc dù một quy phạm đã được Ủy ban Thường
vụ Quốc hội giải thích, nhưng vì chưa thỏa
mãn với nội dung giải thích người yêu cầu, vẫn
thỉnh cầu UBTVQH giải thích ngay chính
những điều đã giải thích6.
Thứ ba, nếu như để quyền giải thích Hiến
pháp trong thẩm quyền của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội, thì vô hình dung đã nhầm lẫn giữa
quyền tư pháp và lập pháp, không bảo đảm
được nguyên tắc về sự phân công, phân nhiệm
rạch ròi giữa các quyền lập pháp, hành pháp,
và tư pháp. Cần phải phân biệt giữa lập pháp và
tư pháp, ông Sandra Day O’ Connor cho rằng:
6 Vũ Đức Khiển: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải thích luật, pháp lệnh theo quy định của Hiến pháp 2013/
Hội thảo Giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh theo Hiến pháp năm 2013 của Viện Nghiên cứu lập pháp. Hà
nội tháng 6 năm 2016
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
6
“Khi vai trò của những nhà lập pháp và
quan toà được trao cho hai cơ quan khác nhau,
sự quản lý tuỳ tiện sẽ không còn. Khi quyền
làm luật được tách ra khái quyền hiểu và áp
dụng luật, thì chính nền tảng của pháp quyền
sẽ được tăng cường, khi đó các tranh chấp
được điều chỉnh trên cơ sở luật đã được xây
dựng từ trước.”7
GS. Vũ Văn Mẫu của thời Việt Nam Cộng
hòa trước đây cũng có quan điểm tương tự.
Ông viết:
“.. bất luận gặp trường hợp lập pháp tối
nghĩa hay không quy định đầy đủ cũng cần để
cho Thẩm phán có quyền xét xử không phải hỏi
lại các quyền lập pháp giải thích cho rõ nghĩa.
Quyền lập pháp chỉ nhiệm vụ làm ra các luật
có tính tổng quát. Một khi áp dụng các luật ấy
vào từng trường hợp phân tranh, nghĩa là vào
các việc có tính cá nhân, không nên để cho
quyền lập pháp có quyền giải thích để tránh
những thiên vị đáng tiếc xảy ra. Vì vậy quyền
giải thích phải dành cho các Thẩm phán.8”
Rất khác với các Hiến pháp trước đây, Hiến
pháp năm 2013 có phân định rất rõ ràng giữa 3
quyền: Quốc Hội có lập pháp ở Điều 60, Chính
phủ thực hiện quyền hành pháp ở Điều 94 và
Tòa án thực hiện quyền tư pháp ở Điều 102.
Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc hoàn
thiện chế định giải thích Hiến pháp, luật cho
Tòa án ở Việt Nam và chính án lệ là nguồn bổ
sung cho sự thiếu hụt các quy định của Hiến
pháp và luật.
Chữ “tư pháp”, cùng quyền tư pháp hiện
nay ở Việt Nam dùng chỉ hoạt động của Tòa án
theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013, Điều
102 là một thành công rất lớn trong hoạt động
lập hiến của Việt Nam. Nhưng hoạt động tư
pháp này chỉ dùng để chỉ cho hoạt động xét xử
của Tòa án thì lại quá hẹp. Vì nó chưa nói lên
hoạt động phải giải thích luật của Tòa án.
Muốn áp dụng luật cho một trường hợp cụ thể
đòi hỏi người Thẩm phán phải giải thích quy
phạm đó cho một trường hợp phải áp dụng.
Thuở ban đầu mới thành lập ra nhà nước
dân chủ đầu tiên ở Châu Mỹ La tinh, nước Mỹ
cũng chưa hình dung ra được quyền giải thích
Hiến pháp và giải thích luật của Tòa án. Nhưng
với sự cấp bách của vấn đề, họ đã nhận ra chức
năng ngay ở những ngày đầu tiên thi hành Hiến
pháp mới được thông qua của nền cộng hòa:
Tư tưởng dân chủ nhấn mạnh vai trò của cơ
quan lập pháp với tư cách là cơ quan đại diện
cho ý chí của nhân dân. Nhưng người Mỹ đã
sớm nhận ra cơ quan lập pháp của họ cũng
giống như những ông hoàng có thể đe dọa đến
quyền con người và tự do của họ. Chính vì lẽ
đó cùng với tư tưởng phân quyền với nguyên
tắc kiểm soát và cân bằng, chế độ bảo hiến
bằng tư pháp / Tòa án đã mau chóng trở thành
trụ cột nền dân chủ nước Mỹ. Không đầy một
chục năm sau khi thành lập ra nhà nước liên
bang chặt chẽ, ở cấp độ liên bang, Chánh án J.
Marshall đã tuyên bố công khai quyền xem xét
lại các văn bản luật theo thủ tục tư pháp của
Tòa qua vụ Marbury kiện Madison (1803).
Bằng ngôn từ nổi tiếng ông đã tuyên bố:
”Trách nhiệm và bổn phận chính của cơ
quan tư pháp là giải thích luật. Bổn phận này
thậm chí bao hàm cả quyền của các Tòa án
bác bỏ các đạo luật của Quốc hội nếu những
đạo luật này vi phạm Hiến pháp.9 ”
Đây là chức năng cơ bản của ngành tư
pháp. Chức năng giải thích này còn rõ hơn và
còn có thể đứng trên cả chức năng xét xử mà
chúng ta vẫn thường gọi. Chính tuyên bố này
đã làm nên tên tuổi của ông trong ngành tư
pháp của nước Mỹ và cả thế giới. Thẩm quyền
này bao gồm quyền Tòa án Mỹ quốc ở bất kỳ
một cấp bậc nào đều có quyền được bác bỏ các
đạo luật bị phát hiện là trái Hiến pháp. Chức
năng này góp phần tạo nên nhiều án lệ vừa bổ
sung cho sự thiếu hụt hệ thống pháp luật của
7Xem, Remarks by Sandra Day O’ Connor, The importance of Judicical Independence, Arab Judicical Forum,
Manama, Bahrain, September 15, 2003.
8 Vũ Văn Mẫu , Sđ d tr. 301
9 Xem, A. E. Dick Howard: Giải thích pháp luật: Tòa án tối cao với tư cách là cơ quan thảm định tính hợp hiến.
Trong tập TATC Hoa kỳ: Tòa án cao nhất của quốc gia, Electronic Journa l 4- 2005
Soá thaùng 1/2017 - Naêm thöù Möôøi Hai
7
nước Mỹ vừa làm Hiến pháp của họ có cuộc
sống dài hơn. Vì Tòa án của họ được quyền
giải thích các quy phạm Hiến pháp phù hợp với
từng giai đoạn biến chuyển thời gian.
Ngoài việc Hiến pháp quy định quyền giải
thích Hiến pháp và luật cho Ủy ban thường vụ
Quốc hội, trong pháp luật Việt Nam còn quy
định cho việc các cơ quan nhà nước khác chủ
yếu là các cơ quan hành pháp của trung ương
có quyền ban hành những văn bản hướng dẫn
thực thi luật và pháp lệnh. Nhiệm vụ này
thường được quy định rõ trong các điều khoản
của luật, hoặc thường thường như trước đây
được quy định trong chương cuối cùng của mỗi
đạo luật: Chính phủ quy định chi tiết việc thi
hành đạo luật. Việc chủ thể ban hành văn bản
pháp luật theo thẩm quyền nhằm hướng dẫn thi
hành luật, pháp lệnh và các văn bản của cơ
quan nhà nước cấp trên cũng là hình thức giải
thích pháp luật. Chúng ta thường bắt gặp trong
các văn bản “quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành” của chủ thể hành pháp đều là thể hiện “ý
định lập pháp” của Quốc hội, Ủy ban thường
vụ Quốc hội. Mặt khác, trong các quy định
hướng dẫn thi hành của cơ quan có thẩm quyền
có nhiều quy định giải thích theo nghĩa đen của
từ ngữ, khái niệm – cũng là một loại giải thích
pháp luật. Chẳng hạn Điều 3, Nghị định số
161/2005/NĐ-CP ngày 28/12/2005 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật (Luật BHVBQPPL) năm 1996
và Luật BHVBQPPL năm 2002 sửa đổi bổ
sung Luật BHVBQPPL năm 1996 giải thích cụ
thể các dấu hiệu của khái niệm “văn bản quy
phạm pháp luật” tại Điều 1 của Luật
BHVBQPPL năm 1996 định nghĩa. Tôi cho
rằng ở nghĩa rộng thì đây cũng chính là quyền
giải thích luật của các cơ quan hành pháp.
Ngoài việc giải thích của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội, việc giải thích Hiến pháp và luật
còn nằm ở các văn bản dưới luật của các cơ
quan hành pháp. Chẳng hạn Luật Doanh
nghiệp bỏ đi hàng loạt các giấy phép, để tăng
quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh cho
các doanh nghiệp và những người muốn tham
gia vào hoạt động kinh doanh, tăng sản phẩm
cho xã hội. Đó là một chính sách mới, với mục
đích làm giảm đi những thủ tục phức tạp gây
khó khăn cho công việc thành lập ra các doanh
nghiệp mới. Nhưng khi đến các cơ quan, ban,
ngành của Nhà nước tổ chức thực hiện luật trên
lại biến các loại giấy phép bị luật bãi bỏ thành
các loại giấy phép con. Chính việc đặt ra các
quy chế như thể vô tình hay cố ý đã xâm phạm
đến quyền của công dân. Các quy định do các
cơ quan nhà nước đặt ra để cụ thể hoá, tức là
giải thích các quy định của các cơ quan nhà
nước cấp trên còn có rất nhiều quy định cần
phải bãi bỏ. Sự đặt ra các quy định riêng của
các cơ quan nhà nước chứng tỏ một thái độ
không tôn trọng pháp luật, không muốn xử lý
công việc theo pháp luật, mà theo các quy định
của riêng mình. Điều này dẫn đến một thực
trạng là nhiều bộ, ngành ban hành những quy
định trái pháp luật.
Việc ban hành các văn bản pháp quy của
các cơ quan quản lý nhà nước nhất là ở cấp
trung ương như Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng có thể chấp nhận được vì một trong
những chức năng cuả các cơ quan đó là có
thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật (pháp
quy) để tổ chức việc thực thi các văn bản pháp
luật của Quốc hội. Nhưng việc ban hành các
văn bản này ở những cơ quan không phải trung
ương, nhất là cấp cơ sở và cấp địa phương
nhằm giải thích các quy định của cấp trên,
nhưng nhiều khi lại mâu thuẫn với quy định
của cấp trên. Về nguyên tắc, tất cả những
hướng dẫn của các cơ quan hành pháp kể cả
của trung ương và địa phương nếu không có sự
ủy thác được quy định rõ trong các văn bản luật
của Quốc hội, văn bản pháp lệnh của Ủy Ban
thường vụ Quốc hội đều không phải là giải
thích chính thống. Các chủ thể có liên quan
không có trách nhiệm phải thực thi. Nếu được
ủy quyền, thì việc giải thích này cũng như của
Ủy Ban Thường vụ Quốc hội là giải thích
chính thống, vì chúng được quy định trong
luật, buộc các chủ thể liên quan phải thực hiện.
Tất cả những giải thích đó phải được đặt
trong vòng xét xử của Tòa án để đảm bảo tính
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
8
hợp hiến của các văn bản giải thích, khi có một
chủ thể nào nại ra rằng văn bản hướng dẫn,
hoặc văn bản giải thích vi phạm Hiến pháp và
luật gây ra/có tác dụng gây ra thiệt hại về
quyền và lợi ích của họ.
Từ những điều phân tích trên, chúng tôi cho
rằng quyền giải thích Hiến pháp, luật theo
nghĩa hẹp nên dành cho chủ thể áp dụng luật
đặc biệt là Tòa án, nhưng mức độ tùy thuộc vào
vấn đề cần phải giải thích. Chủ thể Tòa án nên
chăng có quyền giải thích đầy đủ các văn bản
pháp luật, khi và chỉ khi có những khiếu nại
hay những vụ việc phải xét xử.
Vì vậy, chúng tôi cho rằng chỉ có giải thích
của Tòa án mới là giải thích chính thức. Trong
quá trình thực hiện chức năng xét xử của mình
Tòa án có quyền giải thích chính thức các quy
định của Hiến pháp và luật.
Như vậy, ở nghĩa rộng nhất của vấn đề và
đứng dưới giác độ giải thích Hiến pháp thì có
thể hiểu rằng việc ban hành các văn bản Luật,
nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cũng như
việc ban hành các văn bản dưới luật, dưới pháp
lệnh của các cơ quan hành pháp nhằm mục
đích tổ chức thực hiện luật, cùng việc xét xử
của các thẩm phán đều được hiểu là giải thích
Hiến pháp. Về nguyên tắc mọi văn bản ban
hành dưới Hiến pháp của bất kể cơ quan nào
đều có thể được nại ra trước Tòa án để tuyên
văn bản đó là vi hiến. Nếu không như vậy thì
theo cách nói của J. Marshall, việc ban hành
Hiến pháp chỉ là một cố gắng vô ích10 . Ngoài
những giải thích đã được phân tích ở phần trên
còn có thể có nhiều giải thích của các người
khác như các nhà luật học, các nhà khoa học,
nhưng giải thích của họ không mang tính
chính thống, các chủ thể có liên quan không có
trách nhiệm phải thực thi và cũng không bị Tòa
án xét xử.
Kết luận
Từ những điều đã phân tích ở phần trên,
chế định giải thích Hiến pháp và luật là một
chế định thể hiện cơ chế cũ hệ thống pháp luật
xã hội chủ nghĩa trước đây, được sao chép lại
hay có thể nói một cách mềm hơn là kế thừa từ
hệ thống pháp luật của Liên xô cũ, mà sâu xa
hơn nữa chế định này được sao chép/kế thừa
từ hệ thống pháp luật Civil Law, hệ thống pháp
luật văn bản của Châu Âu phần lục địa, mà đến
nay nhiều nước của hệ thống này cũng không
sử dụng. Hệ thống văn bản pháp luật do con
người làm ra, con người có khuyết tật nên văn
của con người cũng có khuyết tật, vẫn được gọi
là những lỗ hổng. Những lỗ hổng này sẽ được
sửa chữa bằng chính họat động lập pháp của
Quốc hội và bằng chính các hoạt động giải
thích của Tòa án. Việc giải thích Hiến pháp
thường rơi vào việc giải thích của Tòa án tối
cao. Việc liên quan đến quy định của Hiến
pháp là những quy định rất khó khăn cho mỗi
khi áp dụng, vì vậy những vụ việc này thường
được đẩy lên cấp cuối cùng của hệ thống tư
pháp./.
Tài liệu
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà nội: Lý
luận chung về Nhà nước và pháp luật; Luật
Nhà nước CHLBXV. Moscow, 1989; Vũ Văn
Mẫu, Dân luật khái luận, Bộ Giáo dục quốc
gia, S. 1961; Trần Ngọc Đường: Thực trạng
và nhu cầu giải thích Hiến pháp, luật và
pháp lệnh trong thời gian tới từ thực tiễn
hoạt độngcủa Quốc hội / Hội thảo Giải thích
Hiến pháp, luật và pháp lệnh theo Hiến
pháp năm 2013 của Viện Nghiên cứu lập
pháp Hà nội tháng 6 năm 2016; Phạm Hồng
Thái và Đinh Văn Mậu: Lý luận chung Nhà
nước và pháp luật. Nxb. Giao thông vận tải,
Hà nội 2009; Remarks by Sandra Day O’
Connor, The importance of Judicical
Independence, Arab Judicical Forum,
Manama, Bahrain, September 15, 2003; J.
Marshall: Vụ Mabury kháng Madsin 1803;
A. E. Dick Howard: Giải thích pháp luật:
Tòa án tối cao với tư cách là cơ quan thẩm
định tính hợp hiến. Trong tập TATC Hoa kỳ:
Tòa án cao nhất của quốc gia, Electronic
Journal 4- 2005.
10 J. Marshal: Vụ Mabury kháng Madsin 1803
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giai_thich_hien_phap_va_luat.pdf