Thành tố mục đích luận (teleogical
element)
Nếu đã căn cứ vào từ ngữ và ngữ
pháp của điều khoản mà chưa thể giải
thích được, cơ quan giải thích cần phải
đi đến một bước cao hơn là xét xem tính
mục đích luận (Teleology) của điều khoản
là gì. Khác với gramatisches Element, vốn
hướng vào tính ngoại diên của các điều
khoản, thành tố mục đích luật không còn
nằm trong bản thân của câu từ nữa, nó
thuộc về phạm trù nội hàm, do đó thành
tố này chứa đựng yếu tố tinh thần (spirit),
ý nghĩa (meanning) hay thậm chí là tính
mục đích luận của điều khoản. Tinh thần
hay ý nghĩa của một điều khoản thể hiện
ở việc điều khoản này chứa đựng những
thực thể tinh thần nào, những thực thể
tinh thần đó tác động, ảnh hưởng và phản
ánh lẫn nhau ra sao(1). Phương pháp này
trên thực tế thực sự rất hiệu quả, vì như đã
trình bày, từ ngữ không thể diễn đạt hết tất
cả ý của nhà làm luật, nhưng tinh thần và
ý nghĩa của nhà làm luật luôn luôn có thể
nhận biết được. Nếu tinh thần và ý nghĩa
của văn bản còn mù mờ, cơ quan giải thích
có thể dựa vào cứu cánh là tính mục đích
luận của điều khoản. Tính mục đích luận
sẽ cung cấp cho cơ quan giải thích các câu
hỏi góp phần vào việc giải thích pháp luật
như: Điều khoản được ban hành để làm
gì? Nếu không có điều khoản thì vấn đề
pháp lý có được giải quyết hay không?
Tại sao điều khoản lại quy định như vậy?
Chủ thể hoặc/và khách thể nào có thể bị
tác động bởi điều khoản? Việc tác động
có mục đích gì và tại sao lại như vậy?.
Việc trả lời một cách rành mạch, rốt ráo
những câu hỏi này sẽ giúp ích rất nhiều
cho cơ quan giải thích trong việc đưa ra
các quyết định của mình, thông qua việc
giải thích một điều khoản mà việc xem xét
câu từ là chưa đủ.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 201 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giải thích pháp luật tại một số nước theo hệ thống pháp luật Civil Law kiểu đức ở châu Âu: Nhìn từ việc sử dụng các thuật ngữ Latin, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
55Số 01 - 2018 Khoa học Kiểm sát
GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT TẠI MỘT SỐ NƯỚC
THEO HỆ THỐNG PHÁP LUẬT CIVIL LAW KIỂU ĐỨC Ở CHÂU ÂU:
NHÌN TỪ VIỆC SỬ DỤNG CÁC THUẬT NGỮ LATIN
NGUYỄN NGỌC KIỆN * - LÊ NGUYỄN GIA THIỆN **
Giải thích pháp luật đóng vai trò quan trọng cả về mặt lý luận và thực
tiễn bởi giải thích pháp luật và áp dụng pháp luật là hai vấn đề luôn tương
hỗ và không thể tách rời nhau. Trong phạm vi bài viết, vấn đề giải thích
pháp luật được phân tích dựa trên tinh thần của các thuật ngữ Latin, vốn đã
được hình thành từ trong lòng nền pháp chế La Mã và được kế thừa tại các
nước civil law kiểu Đức tại Châu Âu. Đồng thời bài viết cũng đề xuất một
phương thức giải thích pháp luật mang tính đa diện được sử dụng rất phổ
biến tại các nước theo hệ thống pháp luật civil law kiểu Đức.
Từ khóa: Giải thích pháp luật, dân luật kiểu Đức, tính bất khả vẹn toàn
của luật, sự khiếm khuyết của luật, phương thức đa diện.
Interpretation of the law plays an important role theoretically as well
as practically, as interpretation and application of the law have always
shared a close and reciprocal bond. Within the scope of the article, the
interpretation is analysed based on the spirit of the Latina terminologies
which was initially rooted in the Roman legislation and has been
inherited by European countries under the German civil law system. The
article additionally brings out a popular multi-faceted method for the
interpretation in those countries.
Keywords: Interpretation of the law, imperfection of the law, defects
of the law, multi-faceted method.
Các nước civil law kiểu Đức quan niệm rằng giải thích pháp luật có liên quan mật thiết đến tính
bất khả vẹn toàn của pháp luật. Bởi nếu
pháp luật hoàn thiện và không có bất
kỳ một sai sót nào thì cơ quan áp dụng
pháp luật sẽ áp dụng trực tiếp mà không
cần giải thích. Ngược lại, nếu thừa nhận
pháp luật có khiếm khuyết, nói khác đi
là mang tính bất khả vẹn toàn, thì pháp
luật khi được áp dụng cần phải được
giải thích. Giải thích pháp luật rõ ràng
là không thể tách rời khỏi văn bản pháp
luật. Hơn nữa, giải thích pháp luật phải
được tiếp cận dưới cả hai góc độ là nội
hàm và ngoại diên của điều khoản cần
giải thích. Điều này cũng có nghĩa rằng
cơ quan giải thích pháp luật phải tìm
hiểu và giải thích cho được cả nội dung
và hình thức của câu từ, đồng thời nắm
bắt được các ý nghĩa và mục đích của
văn bản. Ngoài ra, khi giải thích pháp
luật, cơ quan giải thích cần phải sử dụng
một biện pháp mang tính đa diện, kết
hợp hài hòa giữa các thành tố: ngữ pháp,
mục đích luận và lịch sử.
* Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Huế
** Thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG
GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT TẠI MỘT SỐ NƯỚC THEO HỆ THỐNG...
56 Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2018
1) Tính bất khả vẹn toàn của pháp
luật và khả năng giải thích pháp luật
Trong suốt tiến trình phát triển của
lịch sử pháp luật thế giới, bất kể pháp
luật được hình thành từ nguồn nào (lẽ
công bằng, khế ước hay do nhà nước
ban hành), pháp luật(1) đều được xem
xét dưới lăng kính của tính bất khả vẹn
toàn. Tại các nước civil law kiểu Đức,
tồn tại hai học thuyết hoàn toàn trái
ngược nhau, học thuyết thứ nhất xem
pháp luật là toàn mỹ và hoàn thiện (học
thuyết bất khả khiếm khuyết), ngược lại,
học thuyết thứ hai cho rằng nội tại của
pháp luật luôn chứa đựng những yếu tố
khiếm khuyết (học thuyết bất khả vẹn
toàn). Sự khác biệt một cách căn bản về
mặt quan niệm giữa hai học thuyết này
ảnh hưởng đến việc pháp luật có khả
năng được giải thích hay không.
1.1. Các luật gia theo học thuyết bất
khả khiếm khuyết(2), tiêu biểu là Carl von
Savigny, tin tưởng rằng pháp luật là toàn
vẹn và không thể có một sự khiếm khuyết
nào. Bởi vì pháp luật là sự luật hóa ý chí
và nguyện vọng của quần chúng nhân
dân. Tiến trình luật hóa này vô cùng
TP.HCM
1 Thuật ngữ pháp luật được hiểu gói gọn trong nội
hàm của “luật viết”. Luật viết không bao hàm luật
tục (tập quán pháp - customary law), án lệ (tiền lệ
pháp - case law) hay các học lý (học thuyết pháp
lý - legal doctrine). Về các phương pháp phân tích
luật viết, xem: Nguyễn Ngọc Điện, Một số vấn đề lý
luận về các phương pháp phân tích luật viết, Nxb. Tư
pháp, 2006. Về các nguồn của luật dân sự Việt Nam,
xem: Nguyễn Ngọc Điện (Chủ biên), Giáo trình Luật
Dân sự: Tập I, Nxb. ĐHQG TP.HCM, 2014.
2 Heinrich Honsell/Nedim Peter Vogt/Thomas Geiser,
Kommentar zum schweizerischen Privatrecht:
Schweizerisches Zivilgesetzbuch I (Art. 1-359), Nxb.
Helbing & Lichtenhahn, 1996, tr.12.
phức tạp, từ việc các nhà làm luật(3) phải
ghi nhận các ước vọng của nhân dân, rồi
hoạch định và dự liệu các ước vọng này
thành một dự thảo luật (dự luật). Dự
luật này sau khi được hình thành phải
được đem ra bàn bạc, chỉnh sửa, thêm
bớt các điều khoản để cho phù hợp với
từng điều kiện và hoàn cảnh nhất định.
Cuối cùng, chính những người đại diện
cho quyền lợi và ý chí của nhân dân (đại
biểu quốc hội/dân biểu/nghị sỹ) sẽ là
những người bỏ phiếu để thông qua dự
luật. Chính vì quy trình tạo ra luật chặt
chẽ và thể hiện ý chí của người dân từ
bước khởi thảo cho đến bước thông qua
như vậy, nên trên thực tế luật sẽ không
thể nào có khiếm khuyết được.
Chính vì tính toàn vẹn và chuẩn mực
của pháp luật như vậy nên vấn đề giải
thích pháp luật sẽ không được đặt ra, vì
sự giải thích một văn bản đã toàn vẹn và
chuẩn mực là điều không những không
cần thiết mà còn có khả năng gây ra
những tác động xấu đến pháp luật, như
3 Thực tiễn của các nền pháp chế chứng minh rằng,
bất kỳ một dự luật nào cũng được biên soạn bởi một
nhóm các luật gia uy tín và có năng lực cũng như
trình độ lập pháp tốt, tụ họp lại thành một “Ban soạn
thảo”. Ban soạn thảo này thường không có quá nhiều
thành viên, họ làm việc thực sự ăn ý và có quan điểm
lập pháp cơ bản là tương đồng với nhau (đương
nhiên, những khác biệt nếu có là không đáng kể). Bởi
lẽ, biên soạn một dự luật không hề dễ dàng, nếu có
quá nhiều thành viên thì việc thiết kế các dự luật sẽ
đi theo nhiều hướng, không đảm bảo tiến độ biên
soạn. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi ấn tượng
mạnh mẽ với hai ban soạn thảo, một của nước ngoài,
một của nước ta và đại diện cho hai nền pháp chế đặc
thù một của phương Tây và một của phương Đông,
đó là ban soạn thảo Bộ Corpus Civilis theo sự chỉ đạo
của Hoàng đế Justinian I (Emblemata Triboniani gồm
Tribonianus, Theophilus và Dorotheus) và ban soạn
thảo Bộ Hoàng Việt Luật Lệ được thiết lập theo lệnh
của vua Gia Long (gồm Tổng tài Nguyễn Văn Thành,
Vũ Trinh và Trần Hựu).
LÊ NGUYỄN GIA THIỆN - NGUYỄN NGỌC KIỆN
57Số 01 - 2018 Khoa học Kiểm sát
tinh thần của thuật ngữ Latin Maledicta
expositioquae corrumpit textum(1) (sự giải
thích sai lầm làm hỏng tinh thần của văn
bản).
1.2. Các luật gia theo học thuyết bất khả
vẹn toàn thì hoàn toàn khác. Những luật
gia này cho rằng pháp luật, về cơ bản,
là không thể vẹn toàn được. Bởi vì mặc
dù luật thể hiện và hiện thực hóa ý chí
của nhân dân. Nhưng, từ những ý niệm
cơ bản và sơ khởi ban đầu trong nhận
thức của nhân dân đến việc hình thành
và thông qua một dự luật cụ thể, chi
tiết phải đi qua rất nhiều công đoạn. Số
lượng công đoạn càng nhiều thì sự khác
biệt giữa ý định của nhà lập pháp (ratio
legis) và việc diễn tả ý định này thông
qua các từ ngữ pháp lý (wordings) càng
cao, vì sở dĩ câu từ không thể nào diễn
tả được hết ý(2). Thêm nữa, luật với tư
cách là văn bản mang tính quy phạm
chỉ có thể dự liệu và hạn định trong một
số trường hợp nhất định, không thể và
cũng không nên quy định quá chi tiết
về từng vấn đề nhỏ trong nội dung văn
bản pháp luật. Ví dụ, khi văn luật đề
cập đến các thuật ngữ như “important
cause” (nguyên nhân quan trọng),
“inadequateness” (không rõ ràng),
“reasonableness” (hợp lý), “morality”
(đạo đức), “good faith” (thiện chí)(3)
1 Digest 27.3.1-14, bình luận của Ulpian. Detlef Liebs,
Lateinische Rechtsregeln und Rechtssprichwörter:
zusammengestellt, übersetzt und erläutert von,
Verlag C.H.Beck, 1982, tr. 116.
2 Peter Breitschmid/Alexandra Rumo-Jungo (Chủ
biên), Handkommentar zum Schweizer Privatrecht,
Personen- und Familienrecht inkl. Kindes- und
Erwachsenenschutzrecht (Art. 1-456 ZGB), Nxb.
Schulthess, 2012, tr. 7.
3 Konstantinos D. Kerameus/ Phaedon J. Kozyris,
Introduction to Greek Law (3rd Ed.), Nxb. Kluwer
thì việc áp dụng trên thực tế sẽ thực sự
khó khăn vì chúng đều là các từ định
tính, chứ không phải định lượng.
Chính vì tính không thể vẹn toàn
của pháp luật, nên pháp luật luôn luôn
mang theo mình những “sự khiếm
khuyết” (legal gaps) nhất định. Văn bản
luật càng nhiều điều khoản, càng chứa
đựng nhiều chế định, càng điều chỉnh
nhiều quan hệ pháp luật thì sự khiếm
khuyết càng cao. Học thuyết về tính
khiếm khuyết của pháp luật có ý nghĩa
rất quan trọng, vì một mặt học thuyết
này phủ định hoàn toàn thuyết bất khả
khiếm khuyết như phần trên trình bày,
mặt khác gợi mở và đưa ra giải pháp hợp
lý và xác đáng, đó là vấn đề “giải thích
pháp luật” (legal interpretation). Chỉ sự
giải thích và làm sáng tỏ những sự khiếm
khuyết, thiếu sót của luật mới giúp văn
bản luật thực sự phát huy được hết hiệu
quả điều chỉnh của mình. Sự giải thích
này không phải được tiến hành bởi bất
cứ chủ thể nào, mà phải được thực hiện
một cách chính thức thông qua hoạt
động của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phù hợp. Vậy, giải thích pháp luật
là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
làm sáng tỏ tinh thần và ý nghĩa của văn
bản luật căn cứ vào câu từ của văn bản đó,
qua đó cơ quan giải thích đưa ra những giải
pháp nhằm khắc phục và hoàn thiện những
khiếm khuyết của pháp luật(4). Việc khắc
Law International, 2008, tr. 13.
4 Cũng cần lưu ý là việc ban hành một văn bản mới
thay thế cho văn bản cũ ví dụ như ban hành BLDS
2015 thay cho BLDS 2005, hay ban hành một văn bản
sửa đổi bổ sung một văn bản đã ban hành trước đó
thì không thể quan niệm là giải thích pháp luật. Bởi
lẽ, giải thích pháp luật được xây dựng trên nền tảng
những điều luật cần giải thích và việc giải thích pháp
GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT TẠI MỘT SỐ NƯỚC THEO HỆ THỐNG...
58 Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2018
phục những khiếm khuyến này cũng đã
góp phần tu chỉnh luật và kết quả là nền
pháp chế có những quy định luật mới,
mang tính phái sinh, phát xuất trên nền
tảng là các từ ngữ trong một văn bản
nhất định trước đó.
2. Một số nguyên tắc của giải thích
pháp luật
2.1. Tính tương hỗ giữa giải thích pháp
luật và luật thực định
Luật thực định của các nước châu
Âu, mà nhất là các nước civil law kiểu
Đức như Đức, Áo, Thụy Sỹ và Bồ Đào
Nha chỉ ra rằng pháp luật hoặc giải thích
pháp luật sẽ trả lời cho tất cả các câu hỏi
pháp lý phát sinh từ một điều khoản
nào đó(1). Tuy nhiên, theo nhiều tác
giả, thì chữ “hoặc” phải hiểu là “và” vì
chữ “hoặc” không phù hợp về mặt ngữ
pháp và không thể tách bạch giữa việc
áp dụng pháp luật với giải thích pháp
luật. Hai nhân tố này dựa trên mối quan
hệ cộng sinh, tương hỗ và không thể
tách rời nhau (“symbiotic relationship”)(2).
luật chỉ có ý nghĩa làm rõ hơn câu từ của văn bản,
chứ không nhằm thay thế và loại bỏ các câu từ này.
Ngược lại, việc ban hành văn bản mới đã thay thế và
xóa bỏ hoàn toàn các điều khoản, kèm theo đó là các
câu từ, của văn bản cũ.
1 Ví dụ: khoản 1 Điều 1 Bộ Dân luật Thụy Sỹ, Điều
1-5 Bộ Dân luật Áo, Điều 1 Bộ Dân luật Bồ Đào Nha.
Bộ Dân luật Đức dù không quy định rõ như bộ dân
luật của Thụy Sỹ và Áo nhưng thực tiễn xét xử của
Tòa Tư pháp liên bang cũng như Tòa Hiến pháp liên
bang luôn công nhận nguyên tắc này. Về một số vấn
đề của Bộ Dân luật Đức, xem: Lê Nguyễn Gia Thiện/
Lê Nguyễn Gia Phúc, Những nguyên tắc cơ bản của
các bộ luật dân sự trên thế giới và kinh nghiệm cho
Việt Nam, Nghiên cứu lập pháp, Số 13, Tháng 7/2014,
tr. 58.
2 Peter Breitschmid/Alexandra Rumo-Jungo (Chủ
biên), Handkommentar zum Schweizer Privatrecht,
Personen- und Familienrecht inkl. Kindes- und
Erwachsenenschutzrecht (Art. 1-456 ZGB), Nxb.
Schulthess, 2012, tr. 6.
Chúng tôi chia sẻ với nhận định này vì
một số lý do như sau:
(i) Theo nguyên tắc hình thành
dựa trên tính tối thượng của văn bản
(decisiveness of clear wordings), nếu văn
bản luật đã rõ ràng rồi thì không cần giải
thích nữa. Văn bản luật mang những từ
ngữ rõ ràng sẽ được áp dụng một cách
trực tiếp mà không cần phải thông qua
việc giải thích bất cứ điều gì, vì tính rõ
ràng và không mập mờ của văn bản sẽ có
hiệu lực ràng buộc các chủ thể (clear and
unambiguous legal wording), kể cả cơ quan
áp dụng pháp luật và các đương sự trong
mối quan hệ được pháp luật điều chỉnh.
(ii) Nếu từ ngữ của văn bản luật đã
minh bạch thì việc giải thích pháp luật rõ
ràng là không cần thiết vì việc giải thích
không những không làm từ ngữ của luật
rõ ràng hơn, mà trái lại, nếu giải thích
sai lầm và phiến diện sẽ phá hủy hay
thậm chí là “ăn mòn” văn bản (như cách
diễn đạt của thuật ngữ Latin Viperina est
exposition, quae corrodit viscera textus).
(iii) Việc giải thích pháp luật phải
căn cứ vào nền tảng là luật thực định,
phải giải thích câu từ theo nghĩa hẹp và
sát nhất, như tinh thần của thuật ngữ
Statuta sunt stricte interpretanda(3). Việc
càng mở rộng nội hàm chứa đựng trong
câu từ của luật, thông qua việc giải thích,
sẽ càng đi xa tinh thần cơ bản và nhiệm
vụ chính yếu của luật khi được thiết lập,
điều này mang lại nhiều rủi ro pháp lý
hơn cho cả cơ quan áp dụng pháp luật
và các đương sự.
3 Detlef Liebs, Lateinische Rechtsregeln und
Rechtssprichwörter: zusammengestellt, übersetzt und
erläutert von, Verlag C.H.Beck, 1982, tr. 201.
LÊ NGUYỄN GIA THIỆN - NGUYỄN NGỌC KIỆN
59Số 01 - 2018 Khoa học Kiểm sát
2.2. Giải thích pháp luật trong trường
hợp còn hồ nghi
Khi giải thích pháp luật, không phải
lúc nào cơ quan giải thích(1) cũng đối
mặt với sự hiện diện của các điều khoản
trong văn bản luật. Nhiều khi, cơ quan
giải thích phải giải thích pháp luật trong
tình huống còn hồ nghi. Tình huống hồ
nghi này sẽ gây ra ít nhiều khó khăn cho
cơ quan áp dụng pháp luật vì cơ quan
này phải đưa ra phán quyết căn cứ vào
những sự nghi ngờ, bất hợp lý. Trong
những tình huống như vậy, cơ quan giải
thích có thể đưa ra phán quyết thông
qua việc giải thích pháp luật được thiết
lập bởi quan niệm của một số thuật ngữ
Latin như sau:
(i) Nguyên tắc chung của luật La Mã
áp dụng cho cả luật và giải thích pháp
luật là Favores ampliandi, odia restringenda
(mở rộng ân huệ, hạn chế bất lợi)(2). Nghĩa
1 Pháp luật các nước trao quyền giải thích cho cơ quan
áp dụng pháp luật (hầu hết là tòa án các cấp). Tuy
nhiên, cũng có một số trường hợp đặc biệt như Việt
Nam, quyền giải thích pháp luật được trao cho cả Ủy
ban thường vụ Quốc hội và tòa án các cấp. Giải thích
pháp luật của Ủy ban thường vụ Quốc hội mang tính
minh thị (de jure), trong khi việc giải thích pháp luật
của tòa án các cấp mang tính mặc thị (de facto).
2 Ta thấy rằng, từ những quan niệm mang tính căn
nguyên nhất, luật phương Tây (có nguồn gốc và
tiêu biểu bởi luật La Mã) và luật phương Đông (chịu
nhiều ảnh hưởng của văn hóa pháp lý Trung Hoa)
đã có những xuất phát điểm hoàn toàn khác nhau về
bản chất của pháp luật. Nếu luật La Mã xem pháp
luật là công cụ để hiện thực hóa các quyền và nghĩa
vụ dân sự của người dân (hay nói đúng hơn là công
dân) thì Trung Hoa cổ đại xem pháp luật là công cụ
để nhà vua, thông qua hệ thống quan lại, cai trị và
lập lại những cân bằng (balances) chứ không phải là
công bằng (equity) cho xã hội. Luật theo quan niệm
phương Đông cổ đại (tiêu biểu là Trung Hoa) được
hình thành từ những tư tưởng chính trị pháp quyền
nhằm tôn sùng vai trò thống trị của Thiên tử hay bá
chủ các nước chư hầu là chính yếu, việc bảo vệ các
quyền tài sản và nhân thân của thần dân chỉ là thứ
yếu.
là, luật ban hành nhằm để tăng cường
và mở rộng các quyền lợi, cũng như hạn
chế những bất lợi, chế tài mà các chủ thể
chịu sự quy định của pháp luật gặp phải.
Khi áp dụng vào việc giải thích pháp
luật, các luật gia La Mã có quan niệm
cụ thể hơn là Dubia in meliorem partem
interpretari debent(3) (pháp luật phải được
giải thích theo hướng tốt nhất). Quan
niệm này nói rằng hướng tốt nhất mà
cơ quan giải thích có thể áp dụng khi
giải thích pháp luật trong tình trạng còn
hồ nghi chính là “giải thích theo hướng
có lợi nhất cho chủ thể bị điều luật tác
động”. Quan niệm này được củng cố bởi
một thuật ngữ khác là Verba accipienda
sunt secundum subjectam materiam (từ
ngữ phải được giải thích theo chủ thể)(4).
Quan niệm, hay nói khác đi là nguyên
tắc này vừa mang tính nhân đạo, thể
hiện tinh thần bảo vệ các quyền tài sản
và nhân thân của đương sự, vừa mang
tính hợp lý. Bởi lẽ luật được lập ra, dù
là trong địa hạt dân sự, cũng đã hạn chế
một phần nào đó các quyền cơ bản của
chủ thể, vốn được điều chỉnh bởi luật tự
nhiên. Hơn nữa, khi luật còn có điểm hồ
nghi, tính “có lợi (hay ân huệ)” (favor)
mà cơ quan áp dụng pháp luật dành cho
các đương sự mang tính chủ quan của
cơ quan áp dụng, vì vậy nếu không tuân
thủ nguyên tắc này, cơ quan áp dụng
pháp luật dễ áp đặt những bất lợi cho
các đương sự khi giải thích pháp luật.
3 Detlef Liebs, Lateinische Rechtsregeln und
Rechtssprichwörter: zusammengestellt, übersetzt und
erläutert von, Verlag C.H.Beck, 1982, tr. 60.
4 Detlef Liebs, Lateinische Rechtsregeln und
Rechtssprichwörter: zusammengestellt, übersetzt und
erläutert von, Verlag C.H.Beck, 1982, tr. 216.
GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT TẠI MỘT SỐ NƯỚC THEO HỆ THỐNG...
60 Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2018
(ii) In dubio semper id, quod minus
est, debetur (khi còn hồ nghi thi áp dụng
nghĩa vụ nhẹ hơn). Có thể thấy rằng,
nguyên tắc này là nguyên tắc phái sinh
từ chính nguyên tắc ở trên. Nếu như
nguyên tắc Dubia in meliorem partem
interpretari debent là quan niệm được
áp dụng chung cho tất cả các khía cạnh
pháp lý của chủ thể, thì nguyên tắc In
dubio semper id, quod minus est, debetur là
sự cụ thể hóa và chỉ giới hạn trong vấn
đề nghĩa vụ. Theo đó, nếu một chủ thể
có nghĩa vụ, nhưng vẫn còn hồ nghi, thì
sẽ được cơ quan giải thích áp dụng theo
hướng nhẹ hơn. Ví dụ: trong một hợp
đồng mua bán hàng hóa, bên bán hàng
đã vận chuyển hàng đến kho của bên
mua, nhưng giữa đường xảy ra các tình
huống bất khả kháng (thiên tai, địch
hoạn) (force majeure) thì những tình
huống bất khả kháng này phải được cơ
quan giải thích áp dụng một cách tối đa
để giảm thiểu nghĩa vụ bồi thường thiệt
hại và/hoặc phạt vi phạm của bên bán,
nếu bên bán chứng minh được những
tình huống bất khả kháng này.
(iii) Khi đối mặt với những ngoại
lệ, những vấn đề cá biệt thì cơ quan
giải thích pháp luật chỉ áp dụng những
giải thích này cho chính vấn đề cá biệt
đó, chứ không được phép mở rộng
sang những vấn đề khác như tinh thần
của thuật ngữ Expressio specialis omnem
impedit extensionem(1). Thuật ngữ này có
mối liên hệ hết sức mật thiết với một
1 Detlef Liebs, Lateinische Rechtsregeln und
Rechtssprichwörter: zusammengestellt, übersetzt und
erläutert von, Verlag C.H.Beck, 1982, tr. 68.
tục dao khác là Indusio unius est exclusio
alterius (quy định cho việc này thì không
mở rộng sang những việc khác)(2). Một
vấn đề pháp lý đã gọi là cá biệt được
luật định thì vốn dĩ chỉ có thể áp dụng ở
mức độ hạn hữu đối với chính vấn đề đó,
việc mở rộng sang những vấn đề khác
không những là bất hợp lý mà còn mang
lại nhiều rủi ro pháp lý. Khi áp dụng
vào việc giải thích pháp luật, vấn đề này
càng phải được cơ quan giải thích chú
ý hơn nữa, vì việc giải thích trước hết
là phải xuất phát từ chính tinh thần của
luật, sau đến là phải chiếu cố đến trạng
thái đặc thù của từng vấn đề cần giải
thích. Ví dụ: luật quy định rằng bên bán
hàng được miễn hoặc giảm nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại hoặc phạt vi phạm nếu
xảy ra tình huống bất khả kháng, tuy
nhiên việc giải thích mức độ thực hiện
nghĩa bồi thường thiệt hại của bên bán
không thể được áp dụng cho nghĩa vụ
phạt vi phạm, vì hai loại nghĩa vụ này
về bản chất là khác nhau hoàn toàn, mặc
dù cùng chịu tác động của tình huống
bất khả kháng.
3. Phương thức giải thích pháp luật
Như phần trên đã trình bày, việc
giải thích pháp luật của cơ quan giải
thích không thể tách rời khỏi nội hàm
của văn bản cần được giải thích, cả về
mặt nội hàm và ngoại diên (nghĩa là cả
về mặt câu từ cũng như là ý nghĩa nội tại
của văn bản). Tuy vậy, khi giải thích, vì
lý do cơ quan giải thích thực hiện hành
2 Bryan A. Garner (Chủ biên), Black’s Law Dictionary (9th
Ed.), Nxb. West Publishing Co. (Thomson Reuters), 2009,
tr. 1830.
LÊ NGUYỄN GIA THIỆN - NGUYỄN NGỌC KIỆN
61Số 01 - 2018 Khoa học Kiểm sát
vi của mình thông qua những con người
cụ thể, nên không thể tránh khỏi việc
giải thích pháp luật sẽ chịu sự tác động
và ảnh hưởng của các tác nhân mang
tính ngoại lai như: tính thất thường
(arbitrariness), tính tùy tiện (spontaneity)
và cảm xúc (feeling)(1). Chính vì thế, các
luật gia tại các nước civil law kiểu Đức
đề xuất một phương thức mang tính đa
diện (pluralistic method) bao hàm một số
thành tố để giúp cho cơ quan giải thích
pháp luật có thể tránh được sự tác động
của các tác nhân ngoại lai nhưng lại ảnh
hưởng rất lớn đến việc giải thích pháp
luật như vừa nêu. Các thành tố này
không thể tách rời nhau, vì chúng tạo
nên tính tổng thể của một phương thức
giải thích thống nhất. Các thành tố này
sắp theo mức độ từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp, cũng như sự ưu tiên
áp dụng căn cứ vào tiến trình giải thích
pháp luật, bao gồm(2):
3.1. Thành tố ngữ pháp (grammatical
element)
Thành tố này đòi hỏi việc giải thích
pháp luật phải được dựa trên cách thức
sử dụng từ ngữ và bố cục ngữ pháp,
nghĩa là đi tìm cái ngoại diên, của điều
khoản luật cần giải thích(3). Thành tố
1 Tuor/Schnyder/Schmid, Das Schweizerische
Zivilgesetzbuch, Nxb. Schulthess Polygraphischer Verlag
Zürich, 1995, tr. 31.
2 Peter Breitschmid/Alexandra Rumo-Jungo (chủ biên),
Handkommentar zum Schweizer Privatrecht, Personen- und
Familienrecht inkl. Kindes- und Erwachsenenschutzrecht
(Art. 1-456 ZGB), Nxb. Schulthess, 2012. Tr. 7.
3 Bản thân thành tố này cũng có thể được phát triển
lên thành một phương pháp riêng biệt gọi là Thông
diễn học (hay Phân tích học) dựa vào đặc tính phân
tích các câu chữ nằm trong ngoại diên của điều khoản
cần xem xét. Về thông diễn học nói chung, Hegel có
thể được xem như một trong những nhà lý luận có
này bao gồm các yếu tố tiên quyết như
cấu trúc từ ngữ (structure of wordings)
và cấu trúc câu (structure of sentence).
Trước hết, cơ quan giải thích phải chú
trọng vào từ ngữ, nếu vấn đề cần giải
thích thuộc địa hạt của pháp luật về hợp
đồng (contract) thì các danh từ cần phải
cân nhắc là bên có nghĩa vụ (debtor),
bên có quyền (creditor), phạt vi phạm
(contractual penalty), nghĩa vụ liên đới
(joint obligation) Việc sử dụng từ ngữ
nằm trong một điều khoản nhất định
phải được xem xét và giải thích trong
mối quan hệ với việc sử dụng chính từ
ngữ đó không chỉ trong một điều khoản
khác, mà còn trong cả chế định, cả văn
bản luật chứa đựng điều khoản đó. Giải
thích từ ngữ không thể tách rời khỏi việc
giải thích cấu trúc ngữ pháp của câu văn
và của cả đoạn văn nằm trong điều luật.
Nếu câu văn dùng thì quá khứ, nghĩa
là một sự kiện hay hành vi pháp lý đã
diễn ra rồi thì cơ quan giải thích không
thể quan niệm rằng hành vi hay sự
kiện sẽ diễn ra mới cấu thành quyền và
nghĩa vụ của các bên. Hơn nữa, khi điều
khoản chứa nhiều đoạn văn thì phải
xem xét các đoạn văn thật kỹ càng, theo
trình tự từ trên xuống dưới và không
được bỏ sót bất kỳ câu từ nào, vì tính
liên kết (coherence) giữa các đoạn văn
trong cùng một điều luật nói lên sự ăn
khớp và ràng buộc lẫn nhau giữa các ý,
do đó không thể giải thích pháp luật mà
bỏ qua sự gắn kết này.
những tư tưởng rõ ràng và mạch lạc nhất. Xem: Paul
Redding, Hegel‘s Hermeneutics (Thông diễn học của
Hegel), Lê Huy Tuấn dịch, Nxb. Tổng hợp Thành phố
Hồ Chí Minh, 2005.
GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT TẠI MỘT SỐ NƯỚC THEO HỆ THỐNG...
62 Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2018
3.2. Thành tố mục đích luận (teleogical
element)
Nếu đã căn cứ vào từ ngữ và ngữ
pháp của điều khoản mà chưa thể giải
thích được, cơ quan giải thích cần phải
đi đến một bước cao hơn là xét xem tính
mục đích luận (Teleology) của điều khoản
là gì. Khác với gramatisches Element, vốn
hướng vào tính ngoại diên của các điều
khoản, thành tố mục đích luật không còn
nằm trong bản thân của câu từ nữa, nó
thuộc về phạm trù nội hàm, do đó thành
tố này chứa đựng yếu tố tinh thần (spirit),
ý nghĩa (meanning) hay thậm chí là tính
mục đích luận của điều khoản. Tinh thần
hay ý nghĩa của một điều khoản thể hiện
ở việc điều khoản này chứa đựng những
thực thể tinh thần nào, những thực thể
tinh thần đó tác động, ảnh hưởng và phản
ánh lẫn nhau ra sao(1). Phương pháp này
trên thực tế thực sự rất hiệu quả, vì như đã
trình bày, từ ngữ không thể diễn đạt hết tất
cả ý của nhà làm luật, nhưng tinh thần và
ý nghĩa của nhà làm luật luôn luôn có thể
nhận biết được. Nếu tinh thần và ý nghĩa
của văn bản còn mù mờ, cơ quan giải thích
có thể dựa vào cứu cánh là tính mục đích
luận của điều khoản. Tính mục đích luận
sẽ cung cấp cho cơ quan giải thích các câu
hỏi góp phần vào việc giải thích pháp luật
như: Điều khoản được ban hành để làm
1 Thành tố này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các
nguyên lý về triết học pháp quyền của Hegel. Trong
tư tưởng của Hegel, nhà nước, pháp luật và cả bản
thân triết học pháp quyền đều là các thực thể tinh
thần có mối liên hệ biện chứng với nhau. Xem: Georg
Wilhelm Friedrich Hegel, Grundlinien der Philosophie
des Rechts oder Naturrecht und Staatswissenschaft im
Grundrisse (Các nguyên lý của triết học pháp quyền hay
là Đại cương về pháp quyền tự nhiên và khoa học về nhà
nước), Nxb. Verlag von Felix Meiner, 1911.
gì? Nếu không có điều khoản thì vấn đề
pháp lý có được giải quyết hay không?
Tại sao điều khoản lại quy định như vậy?
Chủ thể hoặc/và khách thể nào có thể bị
tác động bởi điều khoản? Việc tác động
có mục đích gì và tại sao lại như vậy?...
Việc trả lời một cách rành mạch, rốt ráo
những câu hỏi này sẽ giúp ích rất nhiều
cho cơ quan giải thích trong việc đưa ra
các quyết định của mình, thông qua việc
giải thích một điều khoản mà việc xem xét
câu từ là chưa đủ.
3.3. Thành tố lịch sử (historical element)
Điều trước hết cần phải khẳng định là
thành tố lịch sử (historical element) với tư
cách là một bộ phận của phương thức giải
thích pháp luật đa diện không nên bị nhầm
lẫn với Phương pháp lịch sử (historical
method). Phương pháp lịch sử trong lĩnh
vực luật học được xây dựng dựa trên việc
so sánh, đánh giá, bình luận các vấn đề cần
nghiên cứu dưới lăng kính so sánh giữa luật
hiện tại và luật trong quá khứ, qua đó có thể
nêu lên tiến trình thay đổi (bao hàm cả phát
triển và suy thoái) của chế định cần nghiên
cứu. Khi thực hiện phương pháp lịch sử
này, người nghiên cứu cùng lúc đóng hai
vai trò là luật gia và sử gia vì phải sử dụng
song hành các phương pháp thuộc chuyên
ngành luật học cũng như chuyên ngành lịch
sử. Phương pháp này đặc biệt quan trọng
khi vấn đề cần nghiên cứu là một chế định
thuộc chuyên ngành về lịch sử nhà nước và
pháp luật, cũng như bất cứ chuyên ngành
nào khác khi cần phải xem xét đến sự tiến
triển của một vấn đề nhất định nào đó.
(Xem tiếp trang 68)
THỰC TIỄN – TRAO ĐỔI
68 Khoa học Kiểm sát Số 01 - 2018
Tình huống 1:
Vũ Văn C phạm tội “Làm giả con dấu,
tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo quy định
tại khoản 1 Điều 267 BLHS năm 1999 (sửa
đổi, bổ sung năm 2009); nay là khoản
1 Điều 341 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017).
Tình huống 2:
Nguyễn Văn H không đồng phạm
với T về tội “Tham ô tài sản” mà phạm tội
“Mua bán trái phép hóa đơn” quy định tại
Điều 164a BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009), nay là Điều 203 BLHS
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tình huống 3:
Việc giữ người trong trường hợp
khẩn cấp đối với La Văn A là đúng.
Sau khi đăng tải và tập hợp ý kiến trao đổi của các tác giả gửi tới Tòa soạn về 03 tình huống
trên Tạp chí Khoa học Kiểm sát số 05 năm 2017, Ban biên tập đã có sự trao đổi với các chuyên gia
trong lĩnh vực Luật hình sự và đi đến thống nhất:
TRẢ LỜI CỦA TÒA SOẠN TẠP CHÍ KHOA HỌC KIỂM SÁT
VỀ 03 TÌNH HUỐNG ĐĂNG TẢI TRÊN TẠP CHÍ SỐ 05/2017
GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT
TẠI MỘT SỐ NƯỚC...
(Tiếp theo trang 62)
Ngược lại, thành tố lịch sử chỉ là một
thành tố nằm trong phương pháp giải
thích mang tính đa diện, bản thân thành
tố này không thể là một phương pháp
riêng biệt vì phải chịu sự tác động và
điều chỉnh của các thành tố khác. Thành
tố lịch sử đóng góp vào việc giải thích
pháp luật thông qua việc căn cứ vào ý
chí của nhà làm luật tại thời điểm ban
hành văn bản luật. Thành tố này được
phát triển trên tinh thần của các tục dao
Latin Quilibet verborum suorum optimus
interpres (người giải thích từ ngữ tốt nhất
chính là người viết) và Contemporanea
exposition est optima (hoàn cảnh đương
thời là tối thượng)(1). Hoàn cảnh ban
1 Detlef Liebs, Lateinische Rechtsregeln und
hành và tồn tại của luật có ý nghĩa rất
quan trọng đối với việc giải thích pháp
luật vì nếu cơ quan giải thích muốn giải
thích đúng tinh thần của văn bản luật,
cơ quan này không thể căn cứ vào các
điều kiện kinh tế - xã hội đương thời,
mà trái lại phải đặt việc giải thích luật
vào bối cảnh phù hợp với sự hình thành
và tồn tại của văn bản luật. Có thể thấy
rằng, thành tố lịch sử là sự kết hợp hài
hòa giữa thành tố ngữ pháp và thành tố
mục đích luận, khi thành tố này vừa căn
cứ vào câu chữ của điều khoản luật vừa
căn cứ vào mục đích, ý chí của nhà làm
luật. Mặt khác, thành tố lịch sử cũng nêu
lên mối quan hệ giữa nội hàm, ngoại
diên của các câu từ được trình bày và dự
luật trong các điều khoản luật./.
Rechtssprichwörter: zusammengestellt, übersetzt und
erläutert von, Verlag C.H.Beck, 1982, tr. 173.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giai_thich_phap_luat_tai_mot_so_nuoc_theo_he_thong_phap_luat.pdf