Giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp những vấn đề lý luận và thực tiễn

Có quan điểm cho rằng, việc Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH và Đoàn ĐBQH giám sát việc giải quyết các vụ án cụ thể là làm thay chức năng điều tra của cơ quan điều tra, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát, chức năng giám đốc xét xử của TANDTC và cho rằng, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội là những cơ quan có chức năng quyết định, hoạch định chính sách ở tầm vĩ mô nên việc đi vào giám sát các vụ án cụ thể là không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ cũng như cơ cấu tổ chức của các cơ quan này, hơn nữa, việc giám sát vụ án có thể phải đi đến kết luận đúng/sai thì khó tránh khỏi việc xem xét, đánh giá các chứng cứ trong vụ án, trong khi đó, việc đánh giá chứng cứ lâu nay thuộc chức năng của các cơ quan tư pháp; cá biệt có quan điểm cho rằng, hoạt động giám sát việc giải quyết các vụ án cụ thể của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội giống như việc xem xét đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với các vụ án.

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 175 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp những vấn đề lý luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt: Hoạt động tư pháp là việc thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, quyền tự do, tính mạng nhân phẩm, danh dự, tài sản của công dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tổ chức và cá nhân; bảo vệ pháp chế, chế độ XHCN, quyền làm chủ của Nhân dân. Hoạt động tư pháp ở Việt Nam do các cơ quan có thẩm quyền thực hiện, gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Giám sát của Quốc hội đối với hoạt động tư pháp là một đặc thù của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và được thực hiện trên nhiều phương diện. Bài viết đề cập đến một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp, các nội dung chủ yếu của hoạt động tư pháp thuộc đối tượng giám sát của Quốc hội. GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN TƯ PHÁP NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Nguyễn Đình Quyền* Abstract: Judicial activity is the realization of the state power in the field of justice, to protect the justice, freedom, life, human dignity, honor, property ... of the residents; to protect the property of the state, of the organizations and individuals; the legal protection, the socialist regime, the mastery of the people. Judicial activities in Vietnam are carried out by competent agencies, including the investigating bodies, the procuracies and the courts. The supervision of the National Assembly against the judiciary activities is a specialized feature of the socialist rule-of-law state of Viet Nam and is carried out in several aspects. This article addresses a number of theoretical and practical matters on the supervision of the National Assembly against the performance of the judicial entities, the main contents of judicial activities subject to the National Assembly’s supervision. Thông tin bài viết: Từ khóa: Hoạt động tư pháp, giám sát của Quốc hội, Viện Kiểm sát, Toà án, Cơ quan điều tra. Lịch sử bài viết: Nhận bài: 20/10/2017 Biên tập: 26/10/2017 Duyệt bài: 31/10/2017 Article Infomation: Keywords: Judicial activity, supervision of the National Assembly, the procuracy, the courts, investigation agency. Article History: Received: 20 Oct. 2017 Edited: 26 Oct. 2017 Appproved: 31 Oct. 2017 * TS. Viện trưởng Viện Nghiên cứu Lập pháp. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 3Số 21(349) T11/2017 1. Hoạt động tư pháp tại Việt Nam Hiện nay, theo quy định của pháp luật hiện hành, hoạt động tư pháp ở Việt Nam bao gồm hoạt động điều tra, công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp và xét xử. Khác với nhiều nước trên thế giới, hoạt động tư pháp là hoạt động của hệ thống Tòa án các cấp. Hoạt động tư pháp ở Việt Nam được thực hiện bởi các cơ quan có thẩm quyền, đó là: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Trong đó Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Hoạt động tư pháp là việc hiện thực hóa quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp hay còn gọi là quyền tư pháp. Hoạt động này có nhiệm vụ bảo vệ công lý, quyền tự do, tính mạng nhân phẩm, danh dự, tài sản của công dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tổ chức và cá nhân; bảo vệ pháp chế, chế độ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân... Theo bản chất, hoạt động tư pháp luôn có tính độc lập cao trong mối quan hệ với hoạt động lập pháp và hành pháp; được thực hiện theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn, thời hiệu hết sức chặt chẽ theo quy định của pháp luật tổ chức, pháp luật tố tụng và do những người giữ chức danh tư pháp (điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán) thực hiện. Đây là đặc điểm cần hết sức lưu ý khi nghiên cứu về giám sát của Quốc hội đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp. Trên phương diện phân công thực hiện quyền lực nhà nước, các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp luôn có mối quan hệ, sự phối hợp và ảnh hưởng lẫn nhau. Sự ảnh hưởng này còn tùy thuộc mô hình tổ chức bộ máy nhà nước, bản chất nhà nước, nguyên tắc hoạt động và truyền thống của mỗi nước. Ở Việt Nam, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, đồng thời là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất không chỉ có chức năng lập hiến, lập pháp mà còn có chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước theo nguyên tắc nền tảng “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” và “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” đã được quy định trong Nghị quyết của Đảng và Hiến pháp năm 2013. Giữa Quốc hội với các cơ quan trong bộ máy nhà nước luôn có mối quan hệ khăng khít và ảnh hưởng tác động qua lại, Quốc hội có vị trí, vai trò tạo nền tảng pháp lý cơ bản có tính chất nguyên lý cho hoạt động của các cơ quan tư pháp. 2. Giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp - những vấn đề lý luận và thực tiễn Giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH), các Ủy ban của Quốc hội đối với hoạt động tư pháp là một đặc thù của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Trong những năm qua, Quốc hội, UBTVQH, Ủy ban Pháp luật (trước đây), Ủy ban Tư pháp (hiện nay) và các Đoàn ĐBQH, các đại biểu Quốc hội (ĐBQH) đã thể hiện vai trò, trách nhiệm của mình trong việc tiến hành giám sát đối với hoạt động tư pháp trên các phương diện như: thẩm tra, cho ý kiến và xét báo cáo công tác hàng năm của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC), của Chính phủ về công tác điều tra, công tác thi hành án; tổ chức các Đoàn giám sát để trực tiếp giám sát về hoạt động tư pháp của các cơ quan ở trung ương và địa phương; giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) của TANDTC, VKSNDTC và của Chính phủ; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp và giám sát việc giải quyết đối với một số vụ án cụ thể; tiến hành NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 4 Số 21(349) T11/2017 chất vấn Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, Bộ trưởng Bộ Công an. Qua giám sát, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội không chỉ đánh giá việc chấp hành pháp luật, trách nhiệm và hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp mà còn xem xét tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, phù hợp với thực tiễn của các VBQPPL do mình ban hành trong quá trình thi hành và thực tế áp dụng pháp luật, qua đó đã góp phần vào công tác hoàn thiện pháp luật hoặc cung cấp các thông tin trong việc Quốc hội xem xét, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Tuy nhiên vai trò, thẩm quyền giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH và Đoàn ĐBQH đối với hoạt động tư pháp như thế nào và phạm vi ra sao thì trên thực tế trong quá trình áp dụng pháp luật ý kiến cũng còn khác nhau, do đó, về phương diện lý luận đây là vấn đề cần được làm rõ để thống nhất về nhận thức trong việc áp dụng các quy định của Hiến pháp và pháp luật về giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH và Đoàn ĐBQH đối với hoạt động tư pháp. Hoạt động giám sát của Quốc hội đối với hoạt động tư pháp là việc thực hiện quyền lực nhà nước được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận; được cụ thể hóa thành những nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm. Do đó, Quốc hội, UBTVQH, Ủy ban Tư pháp, ĐBQH và Đoàn ĐBQH là các chủ thể trực tiếp thực hiện thẩm quyền giám sát và chịu trách nhiệm về việc thực hiện thẩm quyền này. Do tính chất quan trọng và phức tạp của hoạt động giám sát mà việc thực hiện thẩm quyền đó đòi hỏi phải có năng lực chủ thể đặc biệt mà chỉ có Quốc hội, UBTVQH, Ủy ban Tư pháp, các ĐBQH, Đoàn ĐBQH mới có khả năng thực hiện và được pháp luật thừa nhận. Theo đó, mọi hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội phải được tiến hành trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội; phải xuất phát từ phạm vi đó, nên mọi hoạt động giám sát phải được tiến hành trong khuôn khổ các nguyên tắc hoạt động của Quốc hội; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH và Đoàn ĐBQH tuyệt đối bảo đảm không có sự lấn sân sang lĩnh vực hành pháp và tư pháp. Đồng thời, với tính chất là cơ quan đại diện thì hoạt động giám sát còn phải xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của người dân, gắn bó với nhân dân, phát huy sự tham gia của nhân dân mới bảo đảm tăng cường hiệu quả giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp. Giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH và Đoàn ĐBQH đối với hoạt động tư pháp theo bản chất của cơ quan đại diện phải được tiến hành công khai, minh bạch, dân chủ, khách quan và phải được tiến hành thường xuyên; không làm ảnh hưởng tới hoạt động bình thường của các cơ quan tư pháp; phải bảo đảm nguyên tắc độc lập, chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động của Tòa án; giám sát nhưng không can thiệp, không làm thay và phải đặt trong sự phân công, phối hợp giữa Quốc hội với UBTVQH, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, ĐBQH và Đoàn ĐBQH, tránh chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót nội dung hoạt động. Phạm vi hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH và Đoàn ĐBQH đối với hoạt động tư pháp được xác định như thế nào cũng đang là vấn đề còn tranh luận. Có ý kiến cho rằng, Quốc hội với tính chất là giám sát tối cao nên chỉ giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp ở trung ương; ý kiến khác cho rằng, Quốc hội giám sát đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước nên phạm vi giám sát bao gồm cả các cơ quan tư pháp ở địa phương. Thực tế cho thấy, hàng năm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội tiến hành thẩm tra Báo cáo công tác của Chánh án TANDTC, Báo cáo của Viện trưởng VKSNDTC về hoạt NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 5Số 21(349) T11/2017 động của toàn ngành Tòa án, ngành Kiểm sát, Báo cáo của Chính phủ về công tác phòng, chống tội phạm, thi hành án; UBTVQH và Quốc hội cho ý kiến và tiến hành việc xem xét, thảo luận ra Nghị quyết đối với Báo cáo này, chứ không chỉ thẩm tra, cho ý kiến, xem xét đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp trung ương. Thực tế này phản ánh đúng phạm vi, thẩm quyền giám sát của Quốc hội được quy định tại Điều 69 của Hiến pháp, theo đó, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Qua thực tiễn áp dụng pháp luật cho thấy, nếu không có hoạt động giám sát việc chấp hành pháp luật và việc giải quyết các vụ việc, vụ án cụ thể do các cơ quan tư pháp ở địa phương tiến hành thì không có căn cứ thực tiễn, cơ sở để giám sát hoạt động của TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC và các cơ quan khác, nhất là xem xét trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan này trong việc quản lý, lãnh đạo, điều hành việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định. Theo chủ trương về cải cách tư pháp, thì hầu hết hoạt động xét xử sơ thẩm, phúc thẩm do các Tòa án nhân dân địa phương thực hiện, TANDTC tập trung vào việc tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; bồi dưỡng, tập huấn nâng cao nghiệp vụ xét xử cho đội ngũ thẩm phán, cán bộ, công chức, viên chức trong ngành. Do đó, việc làm rõ phạm vi hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH và Đoàn ĐBQH đối với hoạt động tư pháp có ý nghĩa quan trọng về cả lý luận và thực tiễn trong việc triển khai tổ chức thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật về giám sát đối với hoạt động tư pháp. Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (HĐND) hiện hành đã quy định rất cụ thể, theo đó bên cạnh việc giám sát các chủ thể ở trung ương thì Quốc hội còn có thẩm quyền giám sát bất kỳ cơ quan, tổ chức nào khi xét thấy cần thiết. Tham khảo pháp luật của một số nước (các nước theo chế độ tam quyền phân lập) cho thấy, giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH đối với hoạt động của Tòa án nhân dân cũng được Hiến pháp, pháp luật của các nước đó quy định. Hiến pháp năm 2000 của Thụy Sỹ cũng xác định thẩm quyền giám sát cấp cao của Quốc hội, Ủy ban của Quốc hội đối với Tòa án (Điều 169). Quốc hội Thụy Điển cũng trao cho Thanh tra Quốc hội giám sát hoạt động của Tòa án. Tuy nhiên, việc xét xử của Tòa án là độc lập và chỉ tuân theo pháp luật nên pháp luật các nước cũng nhấn mạnh không có một cơ quan công quyền nào, kể cả Quốc hội có thể can thiệp vào việc xét xử các vụ án cụ thể và hoạt động thực thi, áp dụng pháp luật của Tòa án. - Giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp qua phương thức thẩm tra, cho ý kiến và xem xét báo cáo công tác Hàng năm, tại mỗi kỳ họp, Quốc hội xem xét thảo luận và có thể ra Nghị quyết về việc xét báo cáo công tác của Chánh án TANDTC, của Viện trưởng VKSNDTC, của Chính phủ về công tác phòng chống tội phạm, công tác thi hành án. Để tham mưu giúp Quốc hội trong vấn đề này, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội tổ chức thẩm tra các báo cáo của các cơ quan trên trình Quốc hội, theo đó, để chuẩn bị thẩm tra, Ủy ban Tư pháp đã tổ chức các Đoàn giám sát, khảo sát, nắm tình hình chấp hành pháp luật của các cơ quan tư pháp ở trung ương và địa phương, tổ chức họp Thường trực Ủy ban để nghe các cơ quan, tổ chức hữu quan báo cáo về những vấn đề mà Ủy ban Tư pháp quan tâm hoặc yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu liên quan làm cơ sở cho việc thẩm tra, cũng như việc cho ý kiến của UBTVQH, việc xem xét của Quốc hội. Việc Quốc hội xem xét báo cáo được đánh giá toàn diện trên các mặt công tác NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 6 Số 21(349) T11/2017 như việc thực hiện nhiệm vụ chính trị theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do luật định; kết quả đạt được, những hạn chế, khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân; việc chấp hành pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ; công tác xây dựng, kiện toàn, củng cố phát triển ngành; thực hiện các chủ trương, đường lối về cải cách tư pháp, các phương hướng, giải pháp của các năm sau, v.v.. Việc xem xét, đánh giá của Quốc hội đối với hoạt động của các cơ quan tư pháp được tiến hành một cách khách quan, dân chủ, công khai, minh bạch theo đúng quy định của pháp luật; bảo đảm nguyên tắc làm việc tập thể và quyết định theo đa số. Do đó, việc Quốc hội xem xét báo cáo của các cơ quan tư pháp là cơ sở quan trọng để ra Nghị quyết về kết quả, chất lượng hoạt động, trách nhiệm, việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan này. Việc Quốc hội xem xét báo cáo không chỉ đơn thuần là đánh giá kết quả, chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp mà điều quan trọng hơn là thông qua hoạt động giám sát để xem xét, khẳng định các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng được quy định, cụ thể hóa trong các VBQPPL do Quốc hội ban hành có đi vào cuộc sống và đem lại hiệu quả thiết thực không, kịp thời phát hiện những bất cập, hạn chế vướng mắc chưa phù hợp để xem xét, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. Quá trình Quốc hội xem xét các báo cáo cũng là quá trình xem xét trách nhiệm của các cơ quan tư pháp, người đứng đầu của các cơ quan này trong việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do luật định. Về cơ chế, pháp luật, cho đến nay Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND và các văn bản pháp luật có liên quan chưa quy định cụ thể nội dung bắt buộc mà Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC và Chính phủ phải báo cáo, mà nội dung, kết cấu, phạm vi của báo cáo tùy thuộc vào nhận thức chủ quan của các cơ quan này nên trong một số trường hợp, các báo cáo trình trước Quốc hội chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu trong việc phản ánh, đánh giá kết quả hoạt động cũng như xem xét trách nhiệm, gây khó khăn cho Quốc hội, UBTVQH và Ủy ban Tư pháp trong việc thẩm tra, cho ý kiến, xem xét báo cáo. Việc Quốc hội xem xét báo cáo của các cơ quan tư pháp cũng là kênh quan trọng để Quốc hội thực hiện quyết định những vấn đề quan trọng liên quan tới hoạt động tư pháp. - Quốc hội, UBTVQH, Ủy ban Tư pháp tổ chức Đoàn giám sát để trực tiếp giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp. Có thể thấy, đây là phương thức giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội đã gắn việc hoạch định chính sách của Quốc hội với các hoạt động thực tiễn. Để phục vụ cho việc Quốc hội xem xét báo cáo hàng năm, UBTVQH, Ủy ban Tư pháp tổ chức các Đoàn công tác để tiến hành giám sát việc chấp hành pháp luật của các các cơ quan tư pháp như giám sát chuyên đề như việc tăng thẩm quyền xét xử về hình sự, dân sự cho các Tòa án nhân dân cấp huyện; việc chấp hành pháp luật trong việc giải quyết các vụ án hình sự, dân sự của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án; việc chấp hành pháp luật trong công tác thi hành án hình sự và dân sự hoặc giám sát việc giải quyết đối với một số vụ án cụ thể mà người dân khiếu nại gay gắt, bức xúc kéo dài hoặc theo đề nghị của ĐBQH, các Đoàn ĐBQH, các Ủy ban của Quốc hội. Việc tổ chức Đoàn công tác để giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp được tiến hành trên cơ sở Chương trình hoạt động của UBTVQH, của Ủy ban Tư pháp hoặc theo yêu cầu của Quốc hội, Đoàn ĐBQH, các ĐBQH, đề nghị của các cơ quan, tổ chức hữu quan v.v.. NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 7Số 21(349) T11/2017 Trong quá trình giám sát tại địa phương, hoạt động giám sát của UBTVQH, Ủy ban Tư pháp luôn có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tư pháp, các Đoàn ĐBQH, Thường trực HĐND, Ủy ban nhân dân và các cơ quan, tổ chức hữu quan ở địa phương trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Việc tổ chức thành lập, phạm vi thẩm quyền, trình tự hoạt động của các Đoàn giám sát phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND; phải được chuẩn bị chu đáo và nhận được sự phối hợp chặt chẽ, tích cực của các cơ quan chịu sự giám sát. Việc tổ chức các Đoàn giám sát là điều kiện để Quốc hội, UBTVQH, Ủy ban Tư pháp có căn cứ thực tiễn đánh giá hiệu lực, hiệu quả, sự phù hợp giữa các quy định của pháp luật với thực tiễn; chất lượng, hiệu quả hoạt động và trách nhiệm của các cơ quan tư pháp; là điều kiện phát hiện sự bất cập, sơ hở, thiếu sót trong các quy định của pháp luật liên quan tới hoạt động tư pháp để xem xét, sửa đổi, hoàn thiện. Thông qua hoạt động giám sát của Đoàn cũng như kết luật giám sát của UBTVQH, của Ủy ban Tư pháp đã góp phần để các các cơ quan tư pháp, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cơ quan này thấy rõ hơn trách nhiệm của mình trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; để lãnh đạo các cấp, các đơn vị trong ngành quán triệt chỉ đạo, chấn chỉnh, kiểm điểm, rút kinh nghiệm, kiện toàn về tổ chức và tăng cường hoạt động theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, vai trò của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội qua phương thức giám sát tổ chức Đoàn để giám sát trực tiếp các cơ quan tư pháp cũng đặt ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện về mặt cơ chế, chính sách pháp luật, đó là: phạm vi thẩm quyền, hiệu quả pháp lý đối với giám sát việc giải quyết các vụ án cụ thể để có điều kiện làm rõ được trách nhiệm của các cơ quan Tòa án trong việc thực thi, áp dụng pháp luật, đồng thời phải bảo đảm nguyên tắc không làm thay, không can thiệp vào hoạt động, không làm ảnh hưởng tới hoạt động bình thường của các cơ quan tư pháp. Mặt khác, mối liên kết giữa phương thức hoạt động giám sát này với phương thức xét báo cáo, xem xét giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; chất vấn và trả lời chất vấn cũng chưa có quy định và cơ chế vận hành rõ ràng để tạo sự tác động hỗ trợ lẫn nhau giữa các phương thức giám sát trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát của Quốc hội đối với hoạt động tư pháp. - Giám sát việc ban hành VBQPPL của các cơ quan tư pháp ở trung ương Hoạt động giám sát VBQPPL của Quốc hội được thực hiện chủ yếu thông qua công tác giám sát việc chấp hành pháp luật, nhất là việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tư pháp khi gặp vướng mắc trong thực tế; góp phần kịp thời tháo gỡ những khó khăn, hạn chế về cơ chế chính sách, pháp luật, tạo điều kiện để các cơ quan này áp dụng, thực hiện thống nhất pháp luật. Tuy nhiên, đây là phương thức giám sát mà Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội chưa làm được nhiều. Một trong những nguyên nhân của tình trạng này là các quy định của pháp luật về cơ chế giám sát văn bản còn chưa rõ, chưa cụ thể, nhất là trách nhiệm của các cơ quan tư pháp ở trung ương trong việc gửi văn bản đã ban hành cho Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội; trình tự, thủ tục, quy trình, phương thức, cách thức tiến hành giám sát văn bản Một vấn đề quan trọng cần được làm rõ trong giám sát văn bản đó là phạm vi giám sát, theo đó, hoạt động giám sát được tiến hành ở cả giai đoạn trước khi ban hành văn bản và sau khi ban hành văn bản hay chỉ khi VBQPPL đã được ban hành và có hiệu NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 8 Số 21(349) T11/2017 lực. Theo quy định và trên thực tế hoạt động Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội có thẩm quyền giám sát văn bản ngay cả quá trình soạn thảo, chuẩn bị như về trình tự, thủ tục ban hành, nguyên tắc biểu quyết, phạm vi thẩm quyền (nhất là thẩm quyền về mặt nội dung) chẳng hạn như văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật nhưng lại có các quy phạm mang tính chất giải thích (thuộc thẩm quyền của UBTVQH) hoặc việc hướng dẫn vượt quá phạm vi luật giao, về hình thức văn bản (văn bản cụ thể hóa hoặc hướng dẫn áp dụng) lại được ban hành dưới hình thức công văn, không tuân thủ hình thức do Luật Ban hành VBQPPL quy định. Việc phát hiện các VBQPPL không phù hợp hoặc trái với các quy định của Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, UBTVQH có đặc thù là phải thông qua quá trình giám sát việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tư pháp. Do đó, để tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám sát việc ban hành VBQPPL cần phải tăng cường giám sát việc chấp hành, áp dụng pháp luật của các cơ quan tư pháp làm cơ sở cho việc giám sát VBQPPL của các cơ quan này. - Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; việc giải quyết các vụ án cụ thể Hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp là phương diện hoạt động quan trọng của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH và Đoàn ĐBQH được quán triệt thực hiện trong các nhiệm kỳ Quốc hội vừa qua. Đây là phương thức giám sát được quy định trong Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND, Luật Tổ chức Quốc hội. Hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo là một kênh quan trọng, vừa góp phần bảo đảm thực hiện tốt quyền khiếu nại, tố cáo của công dân, vừa là phương thức để Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội phát hiện những hạn chế trong hoạt động tư pháp để quyết định tiến hành giám sát chuyên đề, giám sát các vụ án cụ thể khi có khiếu nại gay gắt, bức xúc, kéo dài hoặc giám sát VBQPPL và nhất là có căn cứ cụ thể, xác đáng để đánh giá chất lượng, việc tuân thủ pháp luật và hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp khi thẩm tra, cho ý kiến, xem xét thẩm tra các báo cáo công tác. Thực tế cho thấy, với việc tăng cường giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH và Đoàn ĐBQH có tác động quan trọng thúc đẩy Tòa án các cấp nâng cao trách nhiệm trong việc giải quyết các vụ án cũng như xem xét giải quyết các khiếu nại, tố cáo của công dân đối với hoạt động tư pháp; góp phần nâng cao chất lượng hoạt động và việc chấp hành pháp luật của các các cơ quan tư pháp, giúp cho các cơ quan này kịp thời phát hiện những sai sót, vi phạm để xem xét, kiến nghị, kháng nghị, giải quyết khắc phục. Hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội đối với hoạt động tư pháp còn góp phần thiết thực bảo vệ pháp chế trong việc thực hiện quyền tư pháp mà Tòa án là trung tâm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi bị hành vi trái pháp luật của trong hoạt động tư pháp gây nên; kịp thời phát hiện để xử lý nghiêm minh đối với cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan tư pháp có phẩm chất đạo đức yếu kém, vi phạm pháp luật hoặc tha hóa, biến chất, qua đó tăng cường việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Giám sát của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan tư pháp thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân - với cử tri, nhân dân và là kênh quan trọng để Quốc hội xem xét tính đúng đắn, tuân thủ pháp luật trong hoạt động tư pháp, cung cấp những thông tin cần thiết NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 9Số 21(349) T11/2017 để các ĐBQH tiến hành chất vấn Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, Bộ trưởng Bộ Công an; Quốc hội xét báo cáo ra Nghị quyết hoặc các Ủy ban của Quốc hội chọn nội dung để giám sát chuyên đề. Đồng thời, đây cũng là phương diện giám sát quan trọng để kiểm nghiệm tính khả thi, tính phù hợp với thực tế, tính hiệu quả của các chính sách, pháp luật mà Quốc hội đã ban hành làm cơ sở cho việc tiếp tục hoàn thiện trong công tác hoạch định chính sách, lập pháp. Một trong những nguyên tắc của giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo là Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH và Đoàn ĐBQH không làm thay các cơ quan tư pháp trong việc giải quyết các vụ án; không chỉ đạo, can thiệp hoặc tác động vào quá trình giải quyết mà chỉ nêu ra các căn cứ pháp luật để xác định, chỉ ra đúng sai trong việc áp dụng pháp luật, giải quyết của các cơ quan tư pháp, qua đó làm rõ được trách nhiệm hiệu quả công tác, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức; đồng thời là điều kiện để người dân có thể phản ánh ý chí nguyện vọng với cơ quan do mình bầu ra, phản ánh về tính đúng đắn trong hoạt động của các cơ quan tư pháp. - Hoạt động giám sát đối với việc giải quyết vụ án cụ thể trên thực tế cũng còn có những quan điểm khác nhau. Sự khác nhau về quan điểm cũng phản ánh đây là vấn đề mới trong hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH và Đoàn ĐBQH vì nó liên quan tới lý luận về các nguyên tắc cơ bản của việc phân công thực hiện quyền lực nhà nước. Có quan điểm cho rằng, việc Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH và Đoàn ĐBQH giám sát việc giải quyết các vụ án cụ thể là làm thay chức năng điều tra của cơ quan điều tra, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát, chức năng giám đốc xét xử của TANDTC và cho rằng, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội là những cơ quan có chức năng quyết định, hoạch định chính sách ở tầm vĩ mô nên việc đi vào giám sát các vụ án cụ thể là không phù hợp với chức năng, nhiệm vụ cũng như cơ cấu tổ chức của các cơ quan này, hơn nữa, việc giám sát vụ án có thể phải đi đến kết luận đúng/sai thì khó tránh khỏi việc xem xét, đánh giá các chứng cứ trong vụ án, trong khi đó, việc đánh giá chứng cứ lâu nay thuộc chức năng của các cơ quan tư pháp; cá biệt có quan điểm cho rằng, hoạt động giám sát việc giải quyết các vụ án cụ thể của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội giống như việc xem xét đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với các vụ án. Theo chúng tôi, về vấn đề này, cần trở lại lý luận cơ bản trong việc phân định rạch ròi tính chất của các hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra, điều tra, giám đốc xét xử, kiểm sát hoạt động tư pháp về mặt chủ thể, phạm vi thẩm quyền, phương thức thực hiện, trình tự thủ tục, thời hiệu, thời hạn và nhất là hậu quả pháp lý của các hoạt động này. Do đó, theo quy định của Hiến pháp và pháp luật thì Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH và Đoàn ĐBQH hoàn toàn có thẩm quyền và ngày nay lại càng cần thiết phải tiến hành giám sát đối với việc giải quyết các vụ án cụ thể làm cơ sở, minh chứng xác thực cho việc đánh giá chất lượng, hiệu quả việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động của các cơ quan tư pháp. Thực tế cho thấy, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội không làm thay các cơ quan tư pháp trong việc sửa chữa những sai sót, vi phạm trong các bản án, quyết định mà thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội đưa ra những kết luận, kiến nghị để các cơ quan tư pháp có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT 10 Số 21(349) T11/2017

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgiam_sat_hoat_dong_cua_cac_co_quan_tu_phap_nhung_van_de_ly_l.pdf