Trên thực tế, căn cứ vào năng lực và mục
tiêu đào tạo của các trường mà CTĐT bậc đại
học ngành Du lịch sẽ có sự khác nhau, bao gồm
việc có hay không môn học có nội dung về văn
hóa, và nếu có thì hàm lượng kiến thức sẽ thế
nào. Hiện nay, một số trường đại học ở Tp. Hồ
Chí Minh còn đánh giá thấp hoặc không giảng
dạy các môn học có nội dung về văn hóa trong
CTĐT ngành Du lịch vì lý do ngành được phát
triển theo hướng quản trị. Đây là một cách
lựa chọn của các trường, điều cốt yếu vẫn là
sinh viên khi ra nghề có thể đáp ứng được các
phương diện của công việc, nhanh chóng theo
kịp sự phát triển của cộng đồng du lịch, nhất
là trong thời đại toàn cầu hóa sâu rộng khiến
cho các khoảng cách văn hóa ngày càng thu
hẹp. Bài viết này không nhằm mục đích đánh
giá thấp CTĐT bậc đại học ngành Du lịch không
có hoặc ít có môn học có nội dung về văn hóa.
Tác giả bài viết chỉ mong muốn qua đây gợi mở
thêm những định hướng để phát triển ngành
Du lịch bậc đại học ở Tp. Hồ Chí Minh bằng việc
đưa các môn học có nội dung về văn hóa vào
CTĐT. Muốn vậy, cần có sự phối hợp đồng đều
giữa đội ngũ nhân lực, nội dung và chất lượng
các môn học, cùng quá trình thực tế hóa các
kiến thức về văn hóa được học cho sinh viên
trong quá trình học tập tại các trường.
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 527 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giảng dạy các môn học có nội dung về văn hóa trong chương trình đào tạo đại học ngành du lịch (qua khảo sát tại thành phố Hồ Chí Minh), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 31 (Tháng 3 - 2020) 95
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ
GIẢNG DẠY CÁC MÔN HỌC CÓ NỘI DUNG VỀ VĂN HÓA
TRONG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC NGÀNH DU LỊCH
(QUA KHẢO SÁT TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH)
LƯU TUẤN ANH*
Tóm tắt
Hiện nay việc đưa các môn học có nội dung về văn hóa vào chương trình đào tạo bậc đại học khối
ngành Du lịch ở các trường đại học tại thành phố Hồ Chí Minh diễn ra trong 3 mức độ là cần thiết, bình
thường và không cần thiết. Thực tế công việc ở ngành nghề du lịch cho thấy người làm trong ngành
cần có sự am hiểu và khả năng ứng dụng kiến thức về một loại văn hóa nào đó để làm việc thuận lợi và
hiệu quả hơn. Bài viết đánh giá cao việc giảng dạy các môn học có nội dung về văn hóa ở khối ngành
Du lịch bậc đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh trên cơ sở phân tích thực trạng chương trình đào tạo
của các trường và đề xuất một số định hướng giảng dạy hiệu quả này.
Từ khóa: Ngành Du lịch, văn hóa giáo dục, chương trình đào tạo, giáo dục đại học, đào tạo du lịch,
Thành phố Hồ Chí Minh
Abstract
Currently, the subjects with cultural content have been added into the university training program
of tourism industry at universities in Ho Chi Minh City at 3 levels: necessary, normal and unnecessary
through the number of subjects with cultural content and credits arranged in the program. There are
some subjects or faculties of tourism that do not even teach subjects with cultural content. Actual
working in the tourism industry shows that people in the industry need to have the knowledge and
ability to apply knowledge of a certain culture to work more smoothly and effectively. The article highly
appreciates the teaching of subjects with cultural content at higher education in Ho Chi Minh City on
the basis of analyzing the status of the training programs and suggesting some effective teaching
directions.
Keywords: Tourism industry, educational culture, training programs, higher education, tourism
training, Ho Chi Minh City
Đặt vấn đề
Việc xây dựng các chương trình đào tạo (CTĐT) hợp lý là một trong những tiêu chuẩn quan trọng đầu
tiên quyết định tính hiệu quả của công tác
giáo dục ở các trường đại học. Nó là kim chỉ
nam để các ngành, bộ môn, khoa định hướng
chiến lược đào tạo trong suốt những năm học
của sinh viên, đồng thời cũng là phương tiện
quảng bá thu hút đối tượng học sinh chuẩn
bị bước vào cánh cửa đại học lựa chọn ngành
nghề cho họ. CTĐT càng khoa học, cụ thể sẽ
càng giúp người quản lý kiểm soát được quá
trình đào tạo và xử lý kịp thời những vấn đề
liên quan đến các môn học, ngành học. Hiện
nay, du lịch đang là ngành học hấp dẫn, hầu
như có mặt ở các trường đại học tại Tp. Hồ
Chí Minh với các phân ngành khác nhau. Việc * TS., Trường Đại học KHXH&NV - ĐHQG Tp.HCM
Số 31 (Tháng 3 - 2020)96
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
nghiên cứu các khía cạnh như nội dung giảng
dạy trong CTĐT của ngành Du lịch ở các trường
cần thiết được thực hiện vì mục tiêu nâng cao
chất lượng học tập và năng lực chuyên môn
của sinh viên, đáp ứng nhu cầu nhân lực của xã
hội và theo kịp xu hướng đào tạo chung ở Việt
Nam cũng như trên thế giới.
Bài viết đánh giá thực trạng phân bổ các
môn học có nội dung về văn hóa trong CTĐT
bậc đại học chính quy khối ngành Du lịch ở Tp.
Hồ Chí Minh trên cơ sở khảo sát 6 CTĐT tiêu
chuẩn của 6 trường. Từ đó đề xuất một số định
hướng giảng dạy hiệu quả các môn học có nội
dung về văn hóa. Phương pháp nghiên cứu hệ
thống và phương pháp nghiên cứu so sánh
được vận dụng kết hợp để làm rõ các nội dung
trong bài viết.
1. Nhu cầu cần thiết giảng dạy các môn học
có nội dung về văn hóa trong chương trình
đào tạo bậc đại học khối ngành Du lịch
Du lịch trong cách hiểu đơn giản thường bị
đánh đồng với lữ hành, tức là đi du lịch. Theo
đó, việc ăn uống, ngủ nghỉ, mua sắm, giải
trí trong suốt chuyến đi du lịch chỉ là những
phát sinh đáp ứng các nhu cầu tức thời của
con người mà không phải là yếu tố chính yếu
thuộc về du lịch. Đây là cách hiểu hẹp của từ
du lịch bị giới hạn trong ý nghĩa của một động
từ, một hành động. Nếu hiểu đầy đủ thì du
lịch phải là một quá trình trong đó bao gồm
các hành động, nhu cầu của con người được
diễn ra và phát sinh trong các chuyến đi. Khi
đưa du lịch vào trong giảng dạy chính quy ở
các trường đại học thì cần thiết phải hiểu nó
theo nghĩa rộng ở phạm vi của một lĩnh vực,
một khối ngành (cũng có thể gọi là ngành),
tức là không chỉ có mỗi lữ hành. Trong Chương
5 của Luật Du lịch Việt Nam năm 2017 đã xác
định cụ thể việc kinh doanh du lịch bao gồm
kinh doanh dịch vụ lữ hành, kinh doanh vận
tải khách du lịch, kinh doanh lưu trú du lịch,
kinh doanh dịch vụ du lịch khác (như dịch vụ
ăn uống, dịch vụ mua sắm, dịch vụ thể thao,
dịch vụ vui chơi, giải trí, dịch vụ chăm sóc sức
khỏe, dịch vụ liên quan khác phục vụ khách du
lịch) [3, chương V].
“Trong thời gian học tập ở đại học, do ảnh
hưởng của giảng dạy các môn khoa học xã hội,
chuyên ngành và các môn khác và do tham gia
vào đời sống xã hội nên xu hướng nghề nghiệp
của nhân cách được hình thành và phát triển ở
sinh viên” [4, tr.74]. Trong nhận định này, các
môn khoa học xã hội được liệt kê đầu tiên, là
một trong bốn yếu tố tác động đến sự phát
triển của sinh viên bên cạnh các môn chuyên
ngành, các môn học khác và đời sống xã hội.
Thực tế đã minh chứng cho nhận định này khi
các môn học trong khối kiến thức khoa học xã
hội (hiểu theo nghĩa rộng) luôn là một phần
của các CTĐT bậc đại học ở Việt Nam, trong đó
bao gồm các môn học có nội dung về văn hóa
cùng tham gia vào việc hình thành tri thức và
năng lực của sinh viên. Văn hóa gắn liền với du
lịch, kiến thức về văn hóa vốn không thể thiếu
cho các công việc trong ngành Du lịch. Tùy vào
đặc tính của công việc, môi trường làm việc,
tính cách của các đối tượng khách hàng và thị
trường, các đối tác, địa phương sở tại hay các
điểm đến mà người làm du lịch cần thiết có sự
am hiểu và có thể thực hành những nội dung
văn hóa nào đó. Những nội dung văn hóa đó
có thể được nhận thức rõ ràng hoặc không
rõ ràng trong hoạt động du lịch ở dạng kinh
nghiệm và thói quen thông qua cách thức tổ
chức và ứng xử của các bên với du lịch. Việc
sinh viên không được đào tạo về các nội dung
văn hóa cần có cho nghề nghiệp ngay từ lúc
còn trên ghế nhà trường sẽ gây ra một vài bất
lợi cho họ khi đi làm như: (1) Các thông tin về
văn hóa mà họ thu thập được có thể lấy từ
những nguồn không chính thống nên dễ bị
sai lệch, phiến diện hoặc không đầy đủ; (2) Sẽ
bị rối rắm nếu họ không biết cách bao quát, hệ
thống và phân tích các thông tin.
Trong phạm vi của lĩnh vực du lịch, lữ hành
là ngành cần thiết có kiến thức về văn hóa
nhất. Hướng dẫn viên ở cả 3 thị trường (nội địa,
Inbound, Outbound) đều phải có sự am hiểu
văn hóa ngoài kỹ năng nghiệp vụ, chẳng hạn
về lịch sử văn hóa các di tích, văn hóa ứng xử
với khách trong các tour tuyến (nhất là khách
đến từ các vùng miền khác nhau và các quốc
gia khác), ý nghĩa của các di sản, văn hóa bảo
đảm đời sống của cư dân địa phương Những
người làm công tác quản lý, tổ chức các hoạt
động lữ hành ở các công ty du lịch ngoài khả
năng về quản trị cũng cần hiểu biết về văn hóa
Số 31 (Tháng 3 - 2020) 97
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ
để có thể xây dựng được các chương trình tour
hấp dẫn, giao tiếp hiệu quả với các kiểu đối tác
và khách hàng (gồm khách hàng bên trong và
khách hàng bên ngoài), huấn luyện về các kỹ
năng cho nhân viên (chẳng hạn kỹ năng xây
dựng bài thuyết minh), tổ chức hoặc phối hợp
tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về văn hóa vùng
miền trong du lịch Ngoài ra, những người
làm việc ở các nhà hàng, khách sạn cũng cần
được trang bị kiến thức về văn hóa liên quan
đến công việc, chẳng hạn văn hóa ẩm thực,
văn hóa giao tiếp, văn hóa các nước, để biết
cách ứng xử, có phương án phát triển sản
phẩm ẩm thực hoặc thiết kế không gian kinh
doanh phù hợp với các đối tượng khách hàng
mục tiêu. Những người làm trong ngành giải
trí hoặc tổ chức sự kiện lại càng phải am hiểu
về văn hóa vì tính đa dạng và gắn liền với các
khía cạnh đời sống văn hóa - xã hội của các sự
kiện. Thậm chí, ngay cả tài xế đưa đón khách
du lịch cũng cần biết ít nhất là văn hóa giao
tiếp với hướng dẫn viên và với du khách trên
xe trong các chuyến đi.
Nói chung, dù ở cấp độ nhân viên hay quản
lý, dù phải trực tiếp ra ngoài hướng dẫn hay
làm những công việc trong nhà thì người làm
du lịch đều cần phải am hiểu ít nhiều về văn
hóa, văn hóa nào hay trình độ am hiểu thế
nào thì tùy vào tính chất của công việc và môi
trường làm việc của họ.
Có thể tổng kết 4 nhóm văn hóa mà người
làm trong ngành du lịch cần biết, đó là: (1) Văn
hóa Việt Nam, cụ thể là các điểm đến ở từng
vùng miền; (2) Văn hóa thế giới, cụ thể là điểm
đến ở các nước; (3) Văn hóa tổ chức, (4) Văn hóa
ứng xử, văn hóa giao tiếp với môi trường làm
việc, đồng nghiệp, khách hàng và đối tác. Sự
thích ứng xã hội của sinh viên được hình thành
từ hai quá trình là giáo dục - giáo dưỡng và xã
hội hóa. Trong đó, sự giáo dục và giáo dưỡng
“được thực hiện bởi xã hội mà trước hết là nhà
trường và hướng vào việc phát triển những
tiềm năng nhất định về tri thức và hệ thống
các giá trị cho cá nhân” [4, tr.74]. Trường đại học
là cơ sở chính quy, chuyên nghiệp về giáo dục
và đào tạo của các địa phương, quốc gia. Một
ngành học hay một khoa về du lịch được mở ra
thì chắc chắn phải trải qua quá trình đăng ký,
kiểm định theo tiêu chuẩn của trường, của Nhà
nước, đảm bảo sinh viên sau khi tốt nghiệp là
nguồn nhân lực du lịch đủ trình độ và kỹ năng.
Thiết nghĩ, các trường cần có CTĐT về du lịch
đảm bảo quy tắc mà chúng tôi gọi là 3Đ: đúng
đắn, đầy đủ và đáp ứng. Đúng đắn chính là đúng
về phương pháp, đúng về nội dung, đúng về
chuẩn mực và đạo đức nghề nghiệp theo quy
định của xã hội, quốc gia và thế giới. Đầy đủ
tức là đầy đủ về kiến thức, đầy đủ về kỹ năng
để hướng tới đạt được sự đầy đủ về khả năng.
Đáp ứng ở đây nghĩa là nguồn nhân lực được
đào tạo phải thỏa mãn được nhu cầu và yêu
cầu của xã hội, ít nhất cũng là cơ bản, để trong
tương lai có thể trở thành nguồn nhân lực du
lịch chất lượng cao cho xã hội. Chúng tôi cho
rằng, trong cả 3Đ này thì văn hóa, từ việc rèn
luyện văn hóa học đường để sinh viên có thể
thích ứng với xã hội cho đến nội dung học tập
về văn hóa trong CTĐT để sinh viên thích ứng
với sự đa dạng của ngành nghề trong du lịch,
vẫn luôn là yếu tố chắc chắn không thể thiếu.
Hiện tại, ngành Du lịch ở các trường đại học
tại Việt Nam nói chung, Tp. Hồ Chí Minh nói
riêng được đào tạo theo 3 hướng: (1) Hướng
du lịch nói chung, như bộ môn hoặc khoa Du
lịch; (2) Hướng văn hóa du lịch và đất nước
học, như các bộ môn hoặc khoa Văn hóa du
lịch, Việt Nam học - du lịch; (3) Hướng quản trị,
như bộ môn Quản trị du lịch, Quản trị lữ hành,
Quản trị nhà hàng - khách sạn, có thể trực
thuộc khoa Quản trị du lịch - nhà hàng - khách
sạn, khoa Quản trị kinh doanh hoặc khoa Kinh
tế. Dù cho ngành Du lịch được đào tạo theo
hướng nào, tác giả bài viết vẫn đánh giá cao
việc đưa các môn học có nội dung về văn hóa
vào trong các CTĐT bậc đại học nhằm mục
tiêu vì sự thích ứng tốt nhất với xã hội và nghề
nghiệp của sinh viên, bởi lẽ “thích ứng tốt sẽ
tạo thành cơ sở cho sự ổn định nghề nghiệp”
[4, tr.74] cho sinh viên sau khi tốt nghiệp.
2. Thực trạng phân bổ các môn học có nội
dung về văn hóa trong chương trình đào
tạo bậc đại học ngành Du lịch ở các trường
đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh
Bài viết khảo sát 6 CTĐT tiêu chuẩn bậc
đại học chính quy (giảng dạy bằng tiếng Việt)
ngành Du lịch từ 6 trường đại học ở Tp. Hồ Chí
Minh đã được công bố chính thức trên website
Số 31 (Tháng 3 - 2020)98
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
của các trường, đó là: CTĐT ngành Quản trị dịch
vụ Du lịch và Lữ hành của Trường Đại học Văn
Lang (khóa 2019 - 2023), CTĐT ngành Quản trị
dịch vụ Du lịch và Lữ hành của Trường Đại học
Công nghệ Tp. Hồ Chí Minh - HUTECH (áp dụng
từ khóa tuyển sinh năm 2019), CTĐT ngành Du
lịch của Trường Đại học Văn Hiến (áp dụng từ
khóa tuyển sinh năm 2018), CTĐT ngành Du
lịch của Trường Đại học Văn hóa Tp. Hồ Chí Minh
(ban hành vào tháng 8 năm 2019), CTĐT ngành
Quản trị dịch vụ Du lịch và Lữ hành của Trường
Đại học Ngoại ngữ - Tin học Tp. Hồ Chí Minh
- HUFLIT (áp dụng từ khóa tuyển sinh năm
2015), CTĐT ngành Quản trị Du lịch - Nhà hàng
- Khách sạn của Trường Đại học Hùng Vương
Tp. Hồ Chí Minh (áp dụng từ năm học 2017 -
2018) (Bảng 1).
Kết quả khảo sát cho thấy có 5 CTĐT chọn
dạy môn Cơ sở văn hóa Việt Nam trong khối
kiến thức giáo dục đại cương. Ngoài ra, Môn
Văn hiến Việt Nam của Trường Đại học Văn
Hiến nếu theo tên gọi thì vẫn có nội dung
tương đồng với môn Cơ sở văn hóa Việt Nam.
Khối kiến thức này thường được giảng dạy
vào khoảng học kỳ 1 và học kỳ 2 của năm thứ
nhất, nghĩa là khi sinh viên vừa bước vào giảng
đường đại học ngành Du lịch thì đã được tiếp
cận môn học có nội dung về văn hóa. Đây là
sự sắp xếp thuận lợi cho môn học về văn hóa
Việt Nam vì thời điểm này sinh viên vẫn đang
trong tâm thế mọi thứ còn mới mẻ và chưa
phải ghi nhớ quá nhiều kiến thức. Tuy nhiên,
cũng vì vậy càng đòi hỏi giảng viên phụ trách
môn học này phải có kinh nghiệm giảng dạy
và kiến thức chuyên môn tốt, để vừa cung cấp
cho sinh viên nội dung về văn hóa Việt Nam
làm hành trang cho nghề nghiệp của họ sau
này, vừa tạo động lực học tập cho họ trong
những năm học tiếp theo.
Chúng tôi cho rằng môn Cơ sở văn hóa Việt
Nam nên được dạy trong 3 tín chỉ (45 tiết), trong
đó có tối đa 1 tín chỉ (15 tiết) thực hành các nội
dung văn hóa được học bằng các hình thức:
(1) Giảng viên đặt câu hỏi cho sinh viên
thảo luận cá nhân hoặc theo nhóm, câu hỏi có
thể được đặt ra tại lớp hoặc cho sinh viên về
nhà chuẩn bị vào buổi học trước.
(2) Giảng viên tạo tình huống ngay tại lớp
liên quan đến nội dung về văn hóa đã học
và cho sinh viên đóng vai để giải quyết tình
huống đó. Ở hình thức 2, giảng viên cần để
sinh viên chủ động, có thể cố vấn khi cần thiết
hoặc tham gia đóng 1 vai trong tình huống
để thử thách khả năng xử lý của sinh viên,
nhận xét và góp ý cho họ sau khi kết thúc tình
huống. Các câu hỏi và tình huống được đặt ra
đều phải vận dụng được kiến thức về văn hóa
đã được học trong hoạt động du lịch, tức là
gắn lý thuyết với thực tế ngành học, như vậy,
hiệu quả đạt được sẽ sâu và lâu dài hơn.
(3) Nếu được trường cho phép và giảng viên
có khả năng quản lý lớp học bên ngoài trường,
số lượng sinh viên có thể kiểm soát được, thì
giảng viên có thể tổ chức 1 buổi (tương đương
với 5 hoặc 6 tiết học) cho sinh viên đi thực tế
về văn hóa Việt Nam trong phạm vi thành phố,
không quá xa trường học để thuận tiện và đảm
bảo an toàn cho sinh viên khi đi lại, chẳng hạn
thực tế ở các bảo tàng, nhà hát múa rối nước,
các di tích, công trình kiến trúc, chợ Hình
thức này phù hợp với môn học có 3 tín chỉ. Địa
điểm thực tế không phân biệt là nơi có giá trị
truyền thống, lâu đời hay hiện đại, cao cấp hay
bình dân. Mục đích của các chuyến đi là giúp
sinh viên được trải nghiệm, được phát triển
khả năng tư duy và lập luận, biết cách tổ chức
bản thân. Qua đó có thể làm thay đổi không
khí học tập, khiến sinh viên yêu thích môn học,
gần gũi hơn với lớp. Sau chuyến thực tế, sinh
viên sẽ làm báo cáo thu hoạch theo dạng đề
mở, viết những đánh giá, quan điểm của họ về
các điểm đến, không cho phép sao chép từ các
nguồn. Giảng viên khi chấm bài cần chú trọng
vào khả năng bao quát, phân tích, lập luận của
sinh viên vì những khả năng này sẽ hỗ trợ tích
cực cho công việc của người làm du lịch trong
tương lai. Đối với những nội dung nhạy cảm,
quan điểm tiêu cực về văn hóa của dân tộc,
đi ngược lại với đạo đức xã hội và chuẩn mực
nghề nghiệp, giảng viên nên trao đổi riêng với
sinh viên trên tinh thần cố vấn và định hướng
cho họ, sau đó nên tạo cơ hội cho họ hoàn
thiện lại bài báo cáo nếu họ có nguyện vọng.
Các hình thức giảng dạy trên chỉ là 3 trong
rất nhiều hình thức mà giảng viên có thể vận
dụng cho môn Cơ sở văn hóa Việt Nam, Lịch
sử Việt Nam hay Lịch sử văn hóa Việt Nam nói
riêng, các môn học có nội dung về văn hóa nói
Số 31 (Tháng 3 - 2020) 99
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ
chung. Điều cốt yếu là làm sao cho sinh viên
học tập và rèn luyện tốt nhất, hiệu quả, có thể
ứng dụng được vào công việc trong tương lai.
Một môn học khác có nội dung về văn
hóa mà chúng tôi đánh giá là cần thiết cho
CTĐT ngành Du lịch là Văn hóa du lịch. Trong 6
trường, chỉ có CTĐT ngành Du lịch của Trường
Đại học Văn hóa Tp. Hồ Chí Minh có giảng dạy
môn này trong 2 tín chỉ. Việc phân bổ số tín
chỉ như vậy là phù hợp với tính chất và lượng
kiến thức của môn học. Môn học này giúp
sinh viên có cái nhìn trọn vẹn hơn về mối quan
hệ giữa văn hóa với du lịch, hiểu được các khái
niệm liên quan như văn hóa du lịch và du lịch
Trường ĐH
Văn Lang
CTĐT ngành
Quản trị dịch
vụ Du lịch và
Lữ hành
Trường ĐH
HUTECH
CTĐT ngành
Quản trị dịch vụ
Du lịch và
Lữ hành
Trường ĐH
Văn Hiến
CTĐT ngành
Du lịch
Trường ĐH
Văn hóa
Tp.HCM
CTĐT ngành
Du lịch
Trường ĐH
HUFLIT
CTĐT ngành
Quản trị dịch
vụ Du lịch và
Lữ hành
Trường ĐH
Hùng Vương
Tp.HCM
CTĐT ngành
Quản trị Du
lịch - Nhà hàng
- Khách sạn
Thông
tin về
các
môn
học
có nội
dung
về văn
hóa
(TC:
tín
chỉ)
Khối
kiến
thức
giáo
dục
đại
cương
Cơ sở văn hóa
Việt Nam
(2 TC, lý thuyết)
Cơ sở văn hóa
Việt Nam
(3 TC, lý thuyết)
Văn hiến Việt
Nam
(3 TC, lý thuyết)
Cơ sở văn hóa
Việt Nam
(3 TC)
Cơ sở văn hóa
Việt Nam
(2 TC, lý thuyết)
Cơ sở văn hóa
Việt Nam
(3 TC, lý thuyết)
Kinh tế, văn hóa,
xã hội ASEAN
(3 TC, lý thuyết)
Lịch sử văn
minh thế giới
(2 TC. Môn tự
chọn)
Lịch sử văn
minh thế giới
(3 TC, lý thuyết)
Đại cương lịch
sử Việt Nam
(3 TC, lý thuyết)
Lịch sử tư tưởng
phương Đông
và Việt Nam
(2 TC. Môn tự
chọn)
Văn hóa và
nghệ thuật ẩm
thực
(2 TC, lý thuyết.
Môn tự chọn)
Kiến trúc và mỹ
thuật
(2 TC, lý thuyết.
Môn tự chọn)
Di sản văn hóa
Việt Nam và thế
giới
(2 TC, lý thuyết.
Môn tự chọn)
Khối
kiến
thức
giáo
dục
chuyên
nghiệp
Văn hóa ẩm thực
(2 TC, lý thuyết.
Môn tự chọn)
Văn hóa các nước
Đông Nam Á
(3 TC, lý thuyết)
Tôn giáo và tín
ngưỡng
(2 TC, lý thuyết)
Lịch sử Việt Nam
(3 TC)
Văn minh văn
hóa các nước
Đông Nam Á
(3 TC, lý thuyết.
Môn tự chọn
thay thế
khóa luận)
Lịch sử văn hóa
Việt Nam
(2 TC, lý thuyết.
Môn tự chọn)
Văn hóa ẩm thực
trong du lịch
(2 TC, lý thuyết)
Văn hóa các dân
tộc Việt Nam
(3 TC. Môn tự
chọn)
Văn hóa thế giới
(3 TC, lý thuyết)
Văn hóa Đông
Nam Á
(3 TC. Môn tự
chọn)
Văn hóa du lịch
(2 TC)
Tổng Bắt buộc: 2 TCTự chọn: 2 TC Bắt buộc: 6 TC Bắt buộc: 13 TC
Bắt buộc: 8 TC
Tự chọn: 10 TC
Bắt buộc: 5 TC
Tự chọn: 9 TC
Bắt buộc: 6 TC
Tự chọn: 2 TC
Bảng 1. Thực trạng phân bổ các môn học có nội dung về văn hóa
trong CTĐT bậc đại học ngành Du lịch tại Tp. Hồ Chí Minh (Nguồn: Tác giả lập)
Số 31 (Tháng 3 - 2020)100
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
văn hóa, nắm bắt được những đặc điểm cơ
bản của văn hóa nhận thức, văn hóa tổ chức,
văn hóa ứng xử trong các hoạt động du lịch
trong nước và quốc tế. Vai trò của môn học này
trong CTĐT ngành Du lịch có phần tương ứng
với môn Kinh tế du lịch ở các khoa theo định
hướng quản trị hoặc kinh tế. Ngoài ra, môn Văn
hóa giao tiếp hoặc những môn tương tự như
Văn hóa ứng xử, Văn hóa đàm phán và ngoại
giao cũng là những môn học có thể gợi ý đưa
vào CTĐT ngành Du lịch vì tính liên quan và
khả năng ứng dụng của chúng vào các công
việc du lịch. Tuy nhiên, cả 6 CTĐT được khảo
sát đều không có những môn học này.
Các môn học còn lại trong CTĐT của 6
trường có thể chia vào 4 nhóm: (1) Văn hóa ẩm
thực, như môn học Văn hóa ẩm thực, Văn hóa
ẩm thực trong du lịch, Văn hóa và nghệ thuật ẩm
thực; (2) Văn hóa thế giới và các môn gần với
văn hóa Việt Nam, như Văn hóa các nước Đông
Nam Á, Văn minh văn hóa các nước Đông Nam
Á, Văn hóa thế giới, Di sản văn hóa Việt Nam và
thế giới, Văn hóa các dân tộc Việt Nam; (3) Lịch
sử và lịch sử văn hóa, như Đại cương lịch sử Việt
Nam, Lịch sử văn minh thế giới, Lịch sử tư tưởng
phương Đông và Việt Nam, Lịch sử văn hóa Việt
Nam, Lịch sử Việt Nam; (4) Các môn học khác,
như Kinh tế, văn hóa, xã hội ASEAN, Tôn giáo và
tín ngưỡng, Kiến trúc và mỹ thuật. Các môn học
ở nhóm 1 và nhóm 2 đều phù hợp đào tạo cho
tất cả các chuyên ngành như lữ hành, nhà hàng,
khách sạn. Các môn học ở nhóm 3 và nhóm 4 có
thể được cân nhắc đưa vào CTĐT tùy theo mục
tiêu và chuẩn đầu ra mà các bộ môn, các khoa
đề ra cho môn học, vì trong chừng mực thì các
môn học trong 2 nhóm này vẫn có sự liên quan
đến các công việc du lịch sau này của sinh viên.
Chẳng hạn, môn Tôn giáo và tín ngưỡng rất hữu
ích cho người làm hướng dẫn du lịch, làm trong
nhà hàng và khách sạn để biết được cách giao
tiếp, có thể tổ chức bữa ăn, chỗ ở hoặc các hoạt
động phù hợp với đối tượng khách từ các tôn
giáo hoặc niềm tin khác nhau trong quá trình
họ sử dụng các dịch vụ du lịch.
Nếu sắp xếp theo số lượng giảm dần các
môn học có nội dung về văn hóa (bao gồm cả
các môn tự chọn) trong 6 CTĐT đã nêu ở bảng
1 thì sẽ có thứ tự các trường như sau: Trường
Đại học Văn hóa Tp. Hồ Chí Minh (7 môn),
Trường Đại học HUFLIT (6 môn), Trường Đại
học Văn Hiến (5 môn), Trường Đại học Hùng
Vương (3 môn), Trường Đại học HUTECH và
Trường Đại học Văn Lang (đều có 2 môn). Thứ
tự này cũng thể hiện rõ khi so sánh về tỷ lệ
phần trăm phân bổ số tín chỉ các môn học có
nội dung về văn hóa so với tổng số tín chỉ của
khối kiến thức toàn khóa đào tạo bậc đại học
ngành Du lịch ở các trường (Bảng 2). Số lượng
các môn học có nội dung về văn hóa trong 6
CTĐT phản ánh việc đánh giá của các trường
đối với sự cần thiết của các môn học có nội
dung về văn hóa trong CTĐT ngành Du lịch.
Với Trường Đại học Văn hóa Tp. Hồ Chí Minh,
số lượng các môn học có nội dung về văn hóa
nhiều nhất (7 môn) có lẽ cũng dễ hiểu, vì đây
là một trong những trường đầu ngành về văn
hóa. Tuy nhiên, trong số 7 môn học đó thì đã
có 4 môn tự chọn, chỉ có 3 môn bắt buộc được
giảng dạy. Số liệu cho thấy Trường Đại học
Văn Hiến vẫn có phần trội hơn về các môn bắt
buộc có nội dung về văn hóa (với tỷ lệ 9,77%)
so với Trường Đại học Văn hóa Tp. Hồ Chí Minh
(với tỷ lệ 6,15%). Song, nếu 4 môn học tự chọn
đó là môn tự chọn có định hướng thì Trường
Đại học Văn hóa Tp. Hồ Chí Minh vẫn có thể là
trường giảng dạy nhiều môn học có nội dung
về văn hóa nhất trong 6 trường.
So sánh giữa tỷ lệ phân bổ tổng số tín chỉ
các môn học có nội dung về văn hóa (bắt buộc
và tự chọn) với tổng số tín chỉ của Khối kiến
thức toàn khóa bậc đại học ngành Du lịch tại
Bảng 2, có thể nhận thấy: ngoại trừ cao nhất
là Trường Đại học Văn hóa Tp. Hồ Chí Minh với
13,84%, thì các trường còn lại trong khoảng từ
3,07% (Trường Đại học Văn Lang) đến 9,85%
(Trường Đại học HUFLIT), trung bình của 6
trường là 7,95%. Tỷ lệ này còn tương đối thấp,
cũng cho thấy các môn học có nội dung về văn
hóa chưa được chú trọng trong CTĐT ngành
Du lịch của các trường. Nếu quan sát cụ thể
thực tế các công việc trong ngành Du lịch thì
rõ ràng sự am hiểu các kiến thức về văn hóa và
khả năng thực hành chúng là 2 trong những
yêu cầu quan trọng cần có của người làm du
lịch song song với yêu cầu về năng lực quản trị.
Trong một vài công việc (như hướng dẫn viên
du lịch, thiết kế tour tuyến, thuyết minh viên
tại điểm), thậm chí chúng còn được đánh giá
Số 31 (Tháng 3 - 2020) 101
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ
cao hơn năng lực quản trị. Điểm đặc biệt trong
Bảng 1 là môn Văn minh văn hóa các nước Đông
Nam Á là 1 trong số các môn tự chọn thay thế
khóa luận tốt nghiệp trong CTĐT của Trường
Đại học HUFLIT. Đây là điểm khác biệt so với
5 trường còn lại trong việc phân bổ các môn
học tự chọn thay thế khóa luận hoặc đồ án tốt
nghiệp (Bảng 3). Điều này tuy có thể cho thấy
Trường Đại học HUFLIT đánh giá cao sự am hiểu
văn hóa và văn minh của khu vực Đông Nam Á
trong hoạt động du lịch, nhưng vẫn chưa thể
làm thay đổi bối cảnh chung về việc giảng dạy
các môn học có nội dung về văn hóa trong CTĐT
bậc đại học ngành Du lịch ở Tp. Hồ Chí Minh.
3. Một số định hướng giảng dạy môn học có
nội dung về văn hóa trong chương trình đào
tạo bậc đại học ngành Du lịch ở các trường
đại học tại Thành phố Hồ Chí Minh
Định hướng thứ nhất, về nội dung và tỷ lệ
phân bổ các môn học có nội dung về văn hóa.
Trong khối kiến thức toàn khóa của CTĐT
bậc đại học ngành Du lịch, ngoài khối kiến
thức giáo dục đại cương, các môn học trong
khối kiến thức giáo dục chuyên nghiệp có
thể chia vào 4 nhóm: (1) Nhóm kiến thức về
kỹ năng cứng (gồm các môn như Nghiệp vụ
hướng dẫn, Nghiệp vụ buồng phòng, Nghiệp
vụ bàn, Thiết kế sản phẩm du lịch, Thiết kế
và điều hành tour); (2) Nhóm kiến thức về
quản trị - kinh tế; (3) Nhóm kiến thức về năng
lực mềm (gồm các môn như Địa lý du lịch,
Tổng quan du lịch, Lễ tân ngoại giao, Luật và
khởi nghiệp); (4) Nhóm khóa luận, đồ án
tốt nghiệp (hoặc các môn học thay thế). Nếu
chia đều số tín chỉ cho 4 nhóm thì mỗi nhóm
sẽ chiếm 25% tổng số tín chỉ khối kiến thức
giáo dục chuyên nghiệp. Các môn học có nội
dung về văn hóa sẽ thuộc nhóm 3, trừ môn
Cơ sở văn hóa Việt Nam thuộc khối kiến thức
giáo dục đại cương. Vì trong nhóm 3 còn có
một số môn học khác, do đó số tín chỉ của các
môn học có nội dung về văn hóa (bắt buộc)
ít nhất nên chiếm khoảng 15% tổng số tín
chỉ khối kiến thức giáo dục chuyên nghiệp.
Chẳng hạn, nếu lấy trung bình tổng số tín chỉ
Trường ĐH
Văn Lang
CTĐT
ngành
Quản trị
dịch vụ Du
lịch và Dữ
hành
Trường ĐH
HUTECH
CTĐT
ngành
Quản trị
dịch vụ Du
lịch và Lữ
hành
Trường ĐH
Văn Hiến
CTĐT
ngành Du
lịch
Trường ĐH
Văn hóa
Tp.HCM
CTĐT
ngành Du
lịch
Trường ĐH
HUFLIT
CTĐT
ngành
Quản trị
dịch vụ Du
lịch và Lữ
hành
Trường
ĐH Hùng
Vương
Tp.HCM
CTĐT
ngành
Quản trị
Du lịch -
Nhà hàng -
Khách sạn
Trung
bình của 6
trường
Tổng số tín chỉ (TC) của
Khối kiến thức toàn khóa
đào tạo bậc đại học
ngành Du lịch
130 TC 131 TC 133 TC 130 TC 142 TC 126 TC 132 TC
Tỉ lệ phân
bổ số tín
chỉ các
môn học
có nội
dung về
văn hóa/
Tổng số
tín chỉ của
Khối kiến
thức toàn
khóa đào
tạo bậc đại
học ngành
Du lịch
Tổng số tín
chỉ của các
môn học bắt
buộc
1,53% 4,58% 9,77% 6,15% 3,52% 4,76% 5,05%
Tổng số tín
chỉ của các
môn học tự
chọn
1,53% - - 7,69% 6,33% 1,58% 2,9%
Tổng số tín
chỉ của các
môn học bắt
buộc và tự
chọn
3,07% 4,58% 9,77% 13,84% 9,85% 6,34% 7,95%
Bảng 2. Tỷ lệ phân bổ số tín chỉ các môn học có nội dung về văn hóa trên tổng số tín chỉ của Khối kiến thức
toàn khóa trong CTĐT bậc đại học ngành Du lịch tại Tp. Hồ Chí Minh (Nguồn: Tác giả lập)
Số 31 (Tháng 3 - 2020)102
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
của khối kiến thức giáo dục chuyên nghiệp
của 6 trường là 83,1 (Bảng 4), thì số tín chỉ
của các môn học có nội dung về văn hóa (bắt
buộc) sẽ là 12,46 tương đương với khoảng 6
môn học (nếu 1 môn có 2 tín chỉ) hoặc 4 môn
học (nếu 1 môn có 3 tín chỉ). Cách tính này có
vẻ phù hợp với việc phân bổ trong CTĐT của
Trường Đại học Văn Hiến và Trường Đại học
Văn hóa Tp. Hồ Chí Minh (như trong Bảng 1).
Tuy nhiên, số tín chỉ nhiều vẫn chưa phản ánh
được hàm lượng kiến thức về văn hóa cần có
nếu các môn học có ít nội dung đề cập đến
nó. Vì vậy, cần tiến hành lựa chọn các môn
học có nội dung về văn hóa song song với
việc phân bổ số tín chỉ thích hợp để tạo hiệu
quả cao cho CTĐT ngành Du lịch.
Trường ĐH
Văn Lang
CTĐT ngành
Quản trị dịch
vụ Du lịch và
Lữ hành
Trường ĐH
HUTECH
CTĐT ngành Quản
trị dịch vụ Du lịch
và Lữ hành
Trường ĐH
Văn Hiến
CTĐT ngành Du
lịch
Trường ĐH
Văn hóa Tp.HCM
CTĐT ngành Du
lịch
Trường ĐH
HUFLIT
CTĐT ngành
Quản trị dịch
vụ Du lịch và Lữ
hành
Trường ĐH
Hùng Vương
Tp.HCM
CTĐT ngành
Quản trị Du
lịch - Nhà hàng -
Khách sạn
Các
môn
học tự
chọn
thay
thế
Khóa
luận/
Đề án
tốt
nghiệp
- Quản trị rủi ro
trong du lịch
- Quản trị chăm
sóc khách hàng
Nhóm Dịch vụ khách
hàng và sự kiện:
- Dịch vụ chăm sóc
khách hàng
- Du lịch MICE
- Quản trị chất
lượng dịch vụ
- Tổ chức sự kiện
Nhóm Dịch vụ lưu
trú:
- Lễ tân ngoại giao
- Nghiệp vụ lễ tân
- Quản trị buồng
- Quản trị nhà hàng
- Giao tiếp và lễ
tân ngoại giao
- Quản trị chiến
lược trong du lịch
- Quản trị quan hệ
khách hàng trong
du lịch
- Quy hoạch du
lịch
- Quản lý nhà
nước về du lịch
- Quản lý chất
lượng dịch vụ
du lịch,
- Quản trị rủi ro
trong kinh do-
anh du lịch
- Quản lý điểm
đến du lịch
- Văn minh văn
hóa các nước
Đông Nam Á
- Quản trị chiến
lược
- Thiết kế và điều
hành chương
trình du lịch
- Quản trị chất
lượng dịch vụ lữ
hành
- Quản lý điểm
đến du lịch
- Thiết kế và điều
hành chương
trình du lịch
Bảng 3. Danh mục các môn học tự chọn thay thế khóa luận/đề án tốt nghiệp
trong CTĐT bậc đại học ngành Du lịch tại Tp. Hồ Chí Minh (Nguồn: Tác giả lập)
Bảng 4. Phân bổ số tín chỉ trong các khối kiến thức trong CTĐT bậc đại học ngành Du lịch
tại Tp. Hồ Chí Minh (Nguồn: Tác giả lập)
Trường ĐH
Văn Lang
CTĐT
ngành
Quản trị
dịch vụ Du
lịch và Lữ
hành
Trường ĐH
HUTECH
CTĐT
ngành
Quản trị
dịch vụ Du
lịch và Lữ
hành
Trường ĐH
Văn Hiến
CTĐT
ngành Du
lịch
Trường ĐH
Văn hóa
Tp.HCM
CTĐT
ngành Du
lịch
Trường ĐH
HUFLIT
CTĐT ngành
Quản trị dịch
vụ Du lịch và
Lữ hành
Trường
ĐH Hùng
Vương
Tp.HCM
CTĐT ngành
Quản trị
Du lịch -
Nhà hàng -
Khách sạn
Tổng số
tín chỉ
trung
bình
Phân
bổ tín
chỉ
(TC)
Khối kiến
thức toàn
khóa
130 TC 131 TC 133 TC 130 TC 142 TC 126 TC 132 TC
Khối kiến
thức giáo
dục đại
cương
48 TC 43 TC 49 TC 40 TC 68 TC 45 TC 48,8 TC
Khối kiến
thức giáo
dục chuyên
nghiệp
82 TC 88 TC 84T C 90 TC 74TC 81 TC 83,1 TC
Số 31 (Tháng 3 - 2020) 103
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ
Ở đây, chúng tôi không đề cập đến chuyên
ngành Văn hóa du lịch, vì chắc chắn số lượng
và hàm lượng các môn học về văn hóa trong
CTĐT chuyên ngành này sẽ được chú trọng
hơn các chuyên ngành khác. Các môn học có
nội dung về văn hóa cần thiết có trong CTĐT
về du lịch trước hết phải kể đến là Cơ sở văn
hóa Việt Nam, Văn hóa du lịch. Ngoài ra còn có
Văn hóa giao tiếp, Văn hóa ứng xử, Văn hóa kinh
doanh (hoặc Văn hóa doanh nghiệp), Giao tiếp
liên văn hóa (hoặc Giao tiếp đa văn hóa), văn
hóa của khu vực nào đó (chẳng hạn Văn hóa
Đông Nam Á, Văn hóa Đông Bắc Á). Ở đây cần
xác định môn Văn hóa giao tiếp sẽ khác với
môn Kỹ năng giao tiếp mặc dù 1 trong 2 môn sẽ
bao gồm trong đó phần nào nội dung của môn
còn lại. Ở một số trường, môn Kỹ năng giao
tiếp sẽ do các trung tâm phụ trách. Ngoài các
môn học cần thiết trên, các môn học khác có
nội dung về văn hóa sẽ do các khoa lựa chọn,
việc phân bổ chúng ở học kỳ nào, số tín chỉ là
bao nhiêu tùy thuộc vào tính chất và mục tiêu
đào tạo của từng chuyên ngành cụ thể về du
lịch ở các trường. Chẳng hạn, các môn học sẽ
được bố trí theo nội dung từ tổng quan đến
chuyên sâu, từ cơ sở đến chuyên ngành, như
môn Cơ sở văn hóa Việt Nam sẽ được dạy trước
môn Văn hóa các tộc người thiểu số ở Việt Nam.
Định hướng thứ hai, về đội ngũ quản lý và
giảng viên
Du lịch vốn là lĩnh vực năng động, linh
hoạt, dễ biến đổi theo sự biến động của xã
hội và đặc biệt là mang tính liên ngành. Tính
liên ngành thể hiện ở phạm vi bao quát của
các công việc trong du lịch và sự liên kết giữa
chúng, đồng thời còn thể hiện ở phạm vi kiến
thức đa dạng cần có của người làm du lịch.
Kiến thức đó là sự tổng hợp từ nhiều ngành
liên quan như địa lý du lịch, văn hóa học, quản
lý văn hóa, kinh tế, quản trị kinh doanh, tâm lý
học, lịch sử, nghệ thuật học, dân tộc học, y học
điều dưỡng Trong đó, có 2 ngành liên quan
trực tiếp đến tất cả các phân ngành trong khối
ngành Du lịch là quản trị và văn hóa.
Hiện tại, đội ngũ quản lý và giảng viên trong
các bộ môn, khoa về du lịch ở nhiều trường đại
học tại Tp. Hồ Chí Minh có bằng cấp chuyên
môn là những ngành liên quan (phổ biến là
địa lý, văn hóa học, quản trị kinh doanh, kinh
tế), hiếm có người đúng ngành Du lịch hoặc lữ
hành, nhà hàng, khách sạn, nếu có thì thường
là từ nước ngoài về. Thế hệ sinh viên du lịch
đã tốt nghiệp hiện nay ở Tp. Hồ Chí Minh đều
được học từ các giảng viên có chuyên môn từ
các ngành học khác nhau. Đây là thực tế cần
chấp nhận trong thời gian dài sắp tới khi việc
đào tạo giảng viên có bằng cấp sau đại học
ngành Du lịch ở Việt Nam vẫn còn hạn chế.
Vì vậy, những người làm quản lý các bộ
môn và khoa về du lịch ở các trường đại học tại
Tp. Hồ Chí Minh cần có tư duy mở, tổng hợp và
linh hoạt để chấp nhận việc giảng dạy du lịch
theo hướng liên ngành, trong đó tất nhiên có
nội dung về văn hóa, ít nhất là trong giai đoạn
hiện nay. Tư duy mở thể hiện ở việc: (1) Chấp
nhận một bộ phận đội ngũ giảng viên đến từ
những ngành học liên quan; (2) Chấp nhận
việc đưa các môn học có nội dung về văn hóa
vào CTĐT bậc đại học như một phần thiết yếu
của năng lực chuyên môn của sinh viên ngành
Du lịch. Đội ngũ giảng viên dạy các môn học có
nội dung về văn hóa tối thiểu phải có trình độ
thạc sỹ vì yêu cầu về mức độ lý luận nhất định
trong các bài giảng, đồng thời phải tốt nghiệp
từ các ngành Văn hóa học, Quản lý văn hóa,
Di sản văn hóa hoặc các ngành liên quan như
Dân tộc học, Nhân học, Việt Nam học, Lịch sử
Việt Nam, Lịch sử thế giới, Đông Phương học,
Châu Á học, Triết học, thậm chí là Văn học (ở
các nước phát triển như Trung Quốc, Hàn Quốc
hay Nhật Bản, văn học được chú trọng trong sự
nghiệp đào tạo giáo dục con người).
Định hướng thứ ba, về việc tạo điều kiện
cho sinh viên thực hành các nội dung về văn hóa
đã được học
Việc học tập của sinh viên cần được kết hợp
với những hoạt động thực nghiệm nhằm củng
cố và phát huy khả năng vận dụng kiến thức
đã học, tạo cơ hội cho những sự sáng tạo của
họ liên quan đến ngành nghề đang học.
Hiện tại, việc thực tập của sinh viên ngành
Du lịch tại các trường là thực tập nghề nghiệp
tại các doanh nghiệp (bao gồm tập sự nghề
nghiệp, thực tập tốt nghiệp, thực tập nhận
thức), riêng ngành lữ hành sẽ có những chuyến
thực tập tuyến điểm đến các địa phương. Du
lịch là ngành học thiên về hướng ứng dụng, nên
khi đưa các nội dung về văn hóa vào giảng dạy
Số 31 (Tháng 3 - 2020)104
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
thì chúng phải vận dụng được để phục vụ cho
nghề nghiệp được đào tạo. Điều này hoàn toàn
có thể thỏa mãn được, vì bản thân văn hóa vẫn
ứng dụng được trong tất cả các khía cạnh của
đời sống. Hiện tại các môn học có nội dung về
văn hóa trong CTĐT ngành Du lịch ở các trường
thường được dạy về lý thuyết, phổ biến phương
pháp thuyết giảng truyền thống. Tuy vẫn trên
cơ sở lấy người học làm trung tâm, vẫn có thời
gian cho sinh viên thảo luận và có hình thức
thi thuyết trình, nhưng có thể do định kiến về
vai trò không quan trọng của các môn học có
nội dung về văn hóa (có hay không có cũng
không sao) trong CTĐT bậc đại học ngành Du
lịch, cùng với việc một số trường đại học hiện
nay chạy theo mục tiêu đạt được các chuẩn giáo
dục một cách công nghiệp, nên vô hình trung
biến giảng viên thành các thợ giảng, tức là giảng
dạy 1 môn học nào đó cho các lớp (thậm chí ở
các khóa) theo 1 đề cương môn học, 1 giáo trình
(thậm chí 1 bài giảng), hình thức thi cử thống
nhất với ngân hàng đề thi sẵn có. Tình trạng này
dễ làm triệt tiêu sự sáng tạo, đổi mới và xúc cảm
của giảng viên trong quá trình dạy học, dẫn đến
việc giảng dạy các môn học có nội dung về văn
hóa bị mang tính hình thức, máy móc, nặng
về lý thuyết, khiến sinh viên không hứng thú,
không biết học để làm gì, dần dần hình thành
cách nghĩ áp đặt về sự không cần thiết của các
môn học đó trong CTĐT ngành Du lịch.
Vì vậy, để thay đổi quan niệm không đúng
về vai trò của các môn học có nội dung về văn
hóa trong CTĐT ngành Du lịch, cần tìm cách
phát huy được khả năng ứng dụng của chúng
ngay lúc sinh viên còn trên ghế nhà trường.
Ngoài việc tạo những điều kiện tích cực cho
việc giảng dạy của giảng viên, có thể thông
qua 4 hình thức tổ chức thực hành các nội dung
được học về văn hóa cho sinh viên như sau:
(1) Mở rộng các hoạt động thảo luận bằng
phương pháp đặt câu hỏi hoặc phương pháp
đóng vai tại lớp, tăng cường việc thi báo cáo,
thuyết trình cho các môn học có nội dung về
văn hóa, khuyến khích sinh viên đăng ký các
đề tài nghiên cứu ứng dụng được các nội dung
về văn hoá trong hoạt động du lịch;
(2) Tổ chức các sự kiện văn hóa thường kỳ
dưới hình thức lễ hội, hội trại hoặc triển lãm
văn hóa;
(3) Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về văn hóa
trong du lịch như thi thuyết trình, phim phóng
sự, dựng video theo cá nhân hoặc đội nhóm;
(4) Chấp nhận thực tập tốt nghiệp liên
quan đến lĩnh vực văn hóa hoặc ở các sở, ban
ngành quản lý văn hóa.
Cả 3 định hướng trên đều nhằm mục đích
tăng cường kiến thức và phát triển khả năng
về văn hóa một cách bài bản và chất lượng
cho sinh viên thông qua việc học tập các môn
học có nội dung về văn hóa trong CTĐT bậc
đại học ngành Du lịch ở các trường đại học tại
Tp. Hồ Chí Minh. Định hướng thứ nhất và định
hướng thứ hai cần tiến hành song hành nhưng
không nhất thiết phải cùng một lúc, nghĩa là có
thể xây dựng CTĐT trước rồi tìm kiếm đội ngũ
giảng viên phù hợp, hoặc là, trên cơ sở nguồn
giảng viên sẵn có, tiến hành xây dựng, cấu
trúc lại CTĐT. Đối với định hướng thứ ba, tùy
vào khả năng và điều kiện thực tế ở các khoa,
cùng chính sách phát triển của các trường, mà
bộ phận phụ trách ngành Du lịch có thể lựa
chọn thực hiện trong số (hoặc cùng một lúc) 4
hình thức tổ chức thực hành các nội dung về
văn hoá cho sinh viên được đề xuất trên đây. Cả
3 định hướng nên được tiến hành từng bước,
theo từng giai đoạn để người quản lý có thời
gian kịp thời chỉnh sửa những bất cập trong
việc phân bổ các môn học có nội dung về văn
hóa trong chiến lược và chất lượng đào tạo sinh
viên ngành Du lịch. Đội ngũ quản lý và giảng
viên cần có ý thức cập nhật, hoàn thiện CTĐT
cùng các môn học theo sự phát triển của các
chương trình bậc đại học trong và ngoài nước
ở ngành Du lịch và các ngành học liên quan.
Tất cả đều hướng tới phát triển các môn học có
nội dung về văn hóa phù hợp với CTĐT bậc đại
học ngành Du lịch ở các trường đại học tại Tp.
Hồ Chí Minh một cách chất lượng, ấn tượng và
tiến bộ, mang lại hiệu quả tích cực cho việc học
tập và rèn luyện của sinh viên trước khi làm việc
chính thức trong ngành Du lịch.
Kết luận
Trong thời gian tới, du lịch vẫn là một trong
những lĩnh vực đóng góp rất lớn cho sự phát
triển kinh tế - xã hội và là ngành học thu hút
sự quan tâm của đông đảo học sinh, sinh
Số 31 (Tháng 3 - 2020) 105
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
TRAO ĐỔI - NGHIỆP VỤ
viên ở Tp. Hồ Chí Minh nói riêng, cả nước nói
chung. Sự chuẩn bị cho CTĐT bậc đại học của
ngành được hấp dẫn, đầy đủ kiến thức chuyên
môn lẫn kỹ năng sẽ góp phần rất lớn cho sự
phát triển của sinh viên, của các khoa và các
trường. Từ lâu, văn hóa với du lịch vốn không
có sự tách biệt. Đứng ở góc độ quản trị, trong
chừng mực nào đó, văn hóa càng trở nên cần
thiết cho việc quản lý và vận hành của ngành
Du lịch. Một nhà quản lý hay tổ chức du lịch
thành công, ngoài những kiến thức về kỹ năng
nghiệp vụ, cần có sự am hiểu và thực hành
được các nội dung văn hóa nhất định của
địa phương, vùng miền, khách hàng, đối tác.
Văn hóa sẽ giúp rút ngắn những khoảng cách
không cần thiết giữa người với người và tạo ra
sự hứng thú trong công việc du lịch.
Trên thực tế, căn cứ vào năng lực và mục
tiêu đào tạo của các trường mà CTĐT bậc đại
học ngành Du lịch sẽ có sự khác nhau, bao gồm
việc có hay không môn học có nội dung về văn
hóa, và nếu có thì hàm lượng kiến thức sẽ thế
nào. Hiện nay, một số trường đại học ở Tp. Hồ
Chí Minh còn đánh giá thấp hoặc không giảng
dạy các môn học có nội dung về văn hóa trong
CTĐT ngành Du lịch vì lý do ngành được phát
triển theo hướng quản trị. Đây là một cách
lựa chọn của các trường, điều cốt yếu vẫn là
sinh viên khi ra nghề có thể đáp ứng được các
phương diện của công việc, nhanh chóng theo
kịp sự phát triển của cộng đồng du lịch, nhất
là trong thời đại toàn cầu hóa sâu rộng khiến
cho các khoảng cách văn hóa ngày càng thu
hẹp. Bài viết này không nhằm mục đích đánh
giá thấp CTĐT bậc đại học ngành Du lịch không
có hoặc ít có môn học có nội dung về văn hóa.
Tác giả bài viết chỉ mong muốn qua đây gợi mở
thêm những định hướng để phát triển ngành
Du lịch bậc đại học ở Tp. Hồ Chí Minh bằng việc
đưa các môn học có nội dung về văn hóa vào
CTĐT. Muốn vậy, cần có sự phối hợp đồng đều
giữa đội ngũ nhân lực, nội dung và chất lượng
các môn học, cùng quá trình thực tế hóa các
kiến thức về văn hóa được học cho sinh viên
trong quá trình học tập tại các trường.
L.T.A
Tài liệu tham khảo
1. Đặng Vũ Hoạt (chủ biên), Hà Thị Đức (2017),
Lý luận dạy học đại học, Nxb. Đại học Sư phạm, Tp.
Hồ Chí Minh.
2. Phạm Thành Nghị (2001), Quản lý chất
lượng giáo dục đại học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
3. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam (2017), Luật Du lịch, https://
thuvienphapluat.vn/van-ban/van-hoa-xa-hoi/
Luat-du-lich-2017-322936.aspx
4. Nguyễn Thạc (chủ biên), Phạm Thành Nghị
(2017), Tâm lí học sư phạm đại học, Nxb. Đại học
Sư Phạm, Tp. Hồ Chí Minh.
5. Trường Đại học HUFLIT (2015), “Chương
trình đào tạo ngành Quản trị dịch vụ du lịch và lữ
hành (áp dụng từ khóa 2015)”, https://huflit.edu.
vn/chuong-trinh-dao-tao-DLKS/chuong-trinh-
dao-tao-nganh-quan-tri-dich-vu-du-lich-va-lu-
hanh-163.html
6. Trường Đại học Hùng Vương Thành phố Hồ
Chí Minh (2017), “Chương trình đào tạo ngành
Quản trị du lịch - nhà hàng - khách sạn”, http://
hvuh.edu.vn/chuong-trinh-dao-tao-nganh-
quan-tri-du-lich-nha-hang-khach-san/
7. Trường Đại học HUTECH (2019), “Nội dung
chương trình đào tạo trình độ đại học ngành
Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành”, http://
webdaotao.hutech.edu.vn/daotao/i91184-noi-
dung-chuong-trinh-dao-tao-dai-hoc-chinh-quy-
khoa-2019.aspx
8. Trường Đại học Văn Hiến (2019), “Nội dung
chương trình đào tạo trình độ đại học ngành
Du lịch”, https://dl.vhu.edu.vn/vi/chuong-trinh-
hoc-9/chuong-trinh-dao-tao-khoa-2018
9. Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ
Chí Minh (2019), “Chương trình đào tạo ngành
Du lịch”,
trinh-dao-tao-cac-chuyen-nganh-dao-tao-cua-
truong-dai-hoc-van-hoa-tp-ho-chi-minh.html
10. Trường Đại học Văn Lang (2019), “Chương
trình đào tạo ngành Quản trị dịch vụ du lịch và
lữ hành”,
dao-tao-menu/834-nganh-quan-tri-dich-vu-du-
lich-lu-hanh
Ngày nhận bài: 6 - 3 - 2020
Ngày phản biện, đánh giá: 10 - 3 - 2020
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 3 - 2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giang_day_cac_mon_hoc_co_noi_dung_ve_van_hoa_trong_chuong_tr.pdf