Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu

1. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại. Giao kết hợp đồng là một nội dung quan trọng cần phải xem xét khi nghiên cứu pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại gồm những nội dung chính sau: Nguyên tắc giao kết hợp đồng, thẩm quyền giao kết hợp đồng, trình tự giao kết hợp đồng và sửa đổi, bổ sung, chấm dứt hợp đồng mua bán hàng hóa. 1.1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại. Việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại cũng phải tuân thủ nguyên tắc cơ bản như đối với một hợp đồng dân sự thông thường. Theo điều 389 Bộ Luật Dân Sự (BLDS), việc giao kết hợp đồng dân sự cần tuân thủ các nguyên tắc sau: ã Thứ nhất, nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại, các cá nhân, tổ chức không kể là thương nhân hay không phải là thương nhân, nếu có đủ các điều kiện mà pháp luật quy định đều có thể tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá trong thương mại mà không bị ai ngăn cản. Nguyên tắc này cũng cho phép các bên được tự do thoả thuận tất cả những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên. Tuy nhiên quá trình giao kết hợp đồng phải đảm bảo hợp pháp và không trái đạo đức xã hội, hợp đồng phải được giao kết hợp pháp về cả nội dung cũng như hình thức, đúng thẩm quyền của các bên. ã Thứ hai, nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng. Nguyên tắc này thể hiện bản chất của các quan hệ hợp đồng. Trong quá trình giao kết hợp đồng, các bên đều bình đẳng với nhau. Không ai được áp đặt ý chí của mình lên người khác, các bên phải thoả thuận với nhau trên cơ sở trung thực, ngay thẳng và hợp tác. Tất cả những hợp đồng giao kết do nhầm lẫn, bị lừa dối hoặc bị đe doạ đều không đáp ứng được nguyên tắc này. Vì vậy, những hợp đồng đó sẽ bị coi là vô hiệu, không có hiệu lực pháp luật. Như vậy, quá trình giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại cần phải tuân thủ các nguyên tắc trên. Quá trình giao kết hợp đồng chỉ cần vi phạm một trong hai nguyên tắc sẽ dẫn đến hợp đồng vô hiệu.

doc5 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2018 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại. Giao kết hợp đồng là một nội dung quan trọng cần phải xem xét khi nghiên cứu pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại gồm những nội dung chính sau: Nguyên tắc giao kết hợp đồng, thẩm quyền giao kết hợp đồng, trình tự giao kết hợp đồng và sửa đổi, bổ sung, chấm dứt hợp đồng mua bán hàng hóa. Nguyên tắc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại. Việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại cũng phải tuân thủ nguyên tắc cơ bản như đối với một hợp đồng dân sự thông thường. Theo điều 389 Bộ Luật Dân Sự (BLDS), việc giao kết hợp đồng dân sự cần tuân thủ các nguyên tắc sau: Thứ nhất, nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại, các cá nhân, tổ chức không kể là thương nhân hay không phải là thương nhân, nếu có đủ các điều kiện mà pháp luật quy định đều có thể tham gia giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá trong thương mại mà không bị ai ngăn cản. Nguyên tắc này cũng cho phép các bên được tự do thoả thuận tất cả những vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên. Tuy nhiên quá trình giao kết hợp đồng phải đảm bảo hợp pháp và không trái đạo đức xã hội, hợp đồng phải được giao kết hợp pháp về cả nội dung cũng như hình thức, đúng thẩm quyền của các bên. Thứ hai, nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng. Nguyên tắc này thể hiện bản chất của các quan hệ hợp đồng. Trong quá trình giao kết hợp đồng, các bên đều bình đẳng với nhau. Không ai được áp đặt ý chí của mình lên người khác, các bên phải thoả thuận với nhau trên cơ sở trung thực, ngay thẳng và hợp tác. Tất cả những hợp đồng giao kết do nhầm lẫn, bị lừa dối hoặc bị đe doạ đều không đáp ứng được nguyên tắc này. Vì vậy, những hợp đồng đó sẽ bị coi là vô hiệu, không có hiệu lực pháp luật. Như vậy, quá trình giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại cần phải tuân thủ các nguyên tắc trên. Quá trình giao kết hợp đồng chỉ cần vi phạm một trong hai nguyên tắc sẽ dẫn đến hợp đồng vô hiệu. Thẩm quyền giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại. Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại có thể là cá nhân, pháp nhân, các tổ chức không phải là pháp nhân, tổ hợp tác và hộ gia đình. Vì vậy, thẩm quyền kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại có sự khác biệt đối với từng loại chủ thể. Đối với chủ thể là cá nhân, tổ chức, tổ hợp tác, hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân, thẩm quyền kí kết hợp đồng thuộc về chính cá nhân đó, tổ trưởng tổ hợp tác, chủ hộ, chủ doanh nghiệp tư nhân. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thẩm quyền kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại. Trong trường hợp người có thẩm quyền kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa không thể tự mình tham gia đàm phán và kí kết hợp đồng được thì họ có thể uỷ quyền cho người khác. Việc uỷ quyền có thể được thực hiện bằng văn bản. Nội dung uỷ quyền có thể là uỷ quyền thường xuyên hoặc uỷ quyền theo vụ việc. Về mặt pháp lý, người được uỷ quyền chỉ có thể thực hiện việc kí kết hợp đồng trong phạm vi được uỷ quyền. Trong trường hợp vượt quá phạm vi được uỷ quyền mà không có sự đồng ý của người uỷ quyền thì quyền hợp đồng sẽ không có hiệu lực pháp luật. Trình tự giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa. Theo quan điểm của pháp luật thương mại quốc tế trình tự kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa được chia làm hai trường hợp: trường hợp các bên kí kết trực tiếp gặp nhau và trường hợp các bên không trực tiếp gặp nhau. Trong trường hợp các bên có thể gặp nhau, việc kí kết hợp đồng diễn ra trên cơ sở đàm phán trực tiếp. Đối với trường hợp các bên kí kết không trực tiếp gặp nhau, hợp đồng thường được kí kết qua hai giai đoạn: giai đoạn chào hàng và giai đoạn chấp nhận chào hàng. Ở giai đoạn chào hàng, bên chào hàng phải thể hiện ý định muốn bán hoặc muốn mua một mặt hàng nào đó đối với bên kia. Việc chào hàng phải tuân theo một số quy định của pháp luật như điều kiện hiệu lực của đơn chào hàng, thời hạn hiệu lực của đề nghị, điều kiện để đơn phương tuyên bố hủy bỏ chào hàng… Thông thường, hợp đồng sẽ được kí kết nếu đơn chào hàng được chấp nhận vô điều kiện. Bên được chào hàng sẽ trở thành bên chào hàng mới khi họ đưa ra một số điều kiện khác với điều kiện khác với điều kiện ban đầu của bên chào hàng. Các điều kiện mới này được coi như đơn chào hàng mới và bên chào hàng sẽ trở thành bên được chào hàng. Vấn đề trình tự giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại không được quy định trong Luật thương mại 2005. Vì vậy, vấn đề này do BLDS 2005 điều chỉnh (từ Điều 390 đến Điều 400 BLDS 2005). Theo BLDS 2005 thì quá trình giao kết hợp đồng được thực hiện qua hai giai đoạn: Thứ nhất, đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là hành vi pháp lý đơn phương của một chủ thể, thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể. Cả bên bán và bên mua đều có thể đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa và đều phải chịu trách nhiệm về đề nghị đã đưa ra. Đề nghị giao kết hợp đồng được thể hiện dưới hình thức lời nói, văn bản hay hành vi cụ thể và có thể được gửi cho một hay nhiều chủ thể xác định. Thứ hai, chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị với bên đề nghị, thể hiện việc toàn bộ chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị và đồng ý tiến hành giao kết hợp đồng với bên đề nghị. Về nguyên tắc, khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau thì bên được đề nghị phải trả lời ngay về việc chấp nhận hay không chấp nhận đề nghị. Trường hợp cần có thời gian để bên được đề nghị cân nhắc, suy nghĩ, bên đề nghị có thể ấn định thời hạn trả lời. Việc trả lời chấp nhận đề nghị chỉ có hiệu lực trong thời gian đã được ấn định (Điều 397 BLDS 2005). Bên được đề nghị có thể chấp nhận một phần hoặc toàn bộ nội dung đề nghị. Bên được đề nghị cũng có thể sửa đổi nội dung đề nghị hoặc đưa them nhưng nội dung mới. Trong trường hợp này, bên được đề nghị sẽ trở thành người đề nghị mới và người đề nghị trước đó sẽ trở thành người được đề nghị. Sửa đổi, chấm dứt hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại. Hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại có bản chất là sự thỏa thuận dựa trên cơ sở quyền tự định đạt của các bên tham gia hợp đồng. Chính vì vậy, các bên hoàn toàn có thể sửa đổi hợp đồng để phù hợp với nhu cầu và lợi ích của mình. Khoản 1, Điều 423 BLDS năm 2005 quy định: “Các bên có thể thỏa thuận sửa đổi hợp đồng và giải quyết hậu quả của việc sửa đổi, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Sửa đổi hợp đồng à việc các bên tham gia giao kết hợp đồng thỏa thuận với nhau làm thay đổi một số điều khoản trong nội dung của hợp đồng đã giao kết. Quá trình sửa đổi hợp đồng cũng cần tuân theo các thủ tục như quá trình giao kết hợp đồng trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Việc sửa đổi hợp đồng phải được ghi nhận dưới hình thức phù hợp với hình thức của hợp đồng đã giao kết. Khoản 2, Điều 423 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp hợp đồng được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký hoặc cho phép thì việc sửa đổi hợp đồng cũng phải tuân theo hình thức đó”.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiao k769t h417803p 273768ng mua ba769n ha768ng ho769a vaamp7.doc
Tài liệu liên quan