Giao tiếp là một hình thái quan hệ giữa
người với người, một nhu cầu diễn ra hàng
ngày và dường như chiếm một tỷ lệ thời gian
khá nhiều trong cuộc đời của mỗi người. Hoạt
động giao tiếp xuất hiện trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, có thể dưới dạng ngôn từ
hoặc phi ngôn từ song dù với hình thức nào đi
nữa, giao tiếp cũng nhằm truyền đi một lượng
thông tin nhất định, chính điều đó giúp con
ngưòi hiểu nhau hơn, gắn kết với nhau hơn.
Trong hoạt động du lịch nếu giao tiếp ngôn từ
làm nhiệm vụ truyền đến du khách một lượng
từ vựng mang hàm nghĩa nhất định thì giao
tiếp phi ngôn từ có nhiệm vụ chuyển tải sự
trân trọng, sự nhiệt huyết, tình cảm và sự hiểu
biết của mỗi nhân viên đến với du khách.
Giao tiếp phi ngôn từ còn thể hiện những nét
đặc trưng văn hóa của các quốc gia, dân tộc,
vì thế cũng góp phần không nhỏ trong giao
lưu văn hóa.Từ việc xem xét các khía cạnh trên,
không thể phủ nhận tầm quan trọng của giao
tiếp phi ngôn từ trong hoạt động du lịch.
7 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 459 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giao tiếp phi ngôn từ trong hoạt động du lịch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
71Số 4 - Tháng 6 - 2013
TRAO ĐỔI
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
1. Giao tiếp và giao tiếp phi ngôn từ
1.1. Giao tiếp
Trong lịch sử, vấn đề giao tiếp đã được
nghiên cứu bởi các nhà triết học, locgic học,
hùng biện học. Khi đưa ra định nghĩa về giao
tiếp, các nhà nghiên cứu đều thống nhất :
Giao tiếp là một quá trình tương tác, một hoạt
động trao đổi thông tin nhằm nhận biết và
tác động lẫn nhau trong quan hệ giữa người
với người để đạt được mục đích nhất định.
Nguyễn Quang đã hệ thống những định nghĩa
về giao tiếp của các học giả nước ngoài, các
định nghĩa này có mức độ nhấn mạnh khác
nhau vào các yếu tố khác nhau.
- Có thể nhấn mạnh vào người nghe (người
nhận tin): Giao tiếp hàm chỉ quá trình người ta
phản hồi lại hành vi tượng trưng trực diện của
những người khác (4, tr.37).
- Có thể nhấn mạnh vào cả người nói và
người nghe: Giao tiếp là sự truyền tải từ người
này đến người khác một thông điệp được người
nhận hiểu theo đúng ý của người (4, tr.37).
- Giao tiếp là sự chia sẻ ý nghĩa thông qua
hành vi ngôn từ và phi ngôn từ.
- Hoặc tập trung vào ý nghĩa của thông
điệp được truyền tải:
Giao tiếp là quá trình trong đó người ta gắn
các ý nghĩa vào các sự kiện và đặc biệt là vào
hành vi của người khác (4, tr.37).
- Hoặc tập trung vào quá trình truyền tải
thông tin: Giao tiếp được coi là quá trình trao
đổi thông tin giữa mọi người bằng cả ngôn từ
và phi ngôn từ (4, tr.38).
- Hoặc tập trung vào cả thông tin ý niệm,
thái độ và tình cảm của thông điệp được trao
GIAO TIẾP PHI NGÔN TỪ
TRONG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
NGUYỄN MINH THÚY
Tóm tắt
Giao tiếp phi ngôn từ là một bộ phận quan trọng của giao tiếp nói chung. Nó được hiện thực hoá
bằng các yếu tố cận ngôn và ngoại ngôn. Trong hoạt động du lịch, không thể phủ nhận vai trò của giao
tiếp phi ngôn từ. Bài viết đề cập đến một số biểu hiện của giao tiếp phi ngôn từ nhằm khẳng định vai
trò, tầm quan trọng của nó đối với hoạt động giao tiếp du lịch.
Từ khóa: Giao tiếp, phi ngôn từ, du lịch.
Abstract
Nonverbal communication is an important part of communication in general. It was realized
by the nonverbal elements and verbal elements. In tourism, we can not deny the role of nonverbal
communication. The article refers to a number of expressions of nonverbal communication in order to
confirm its role and importance with tourism activities.
Keyword: Communication, nonverbal, tourism.
Số 4 - Tháng 6 - 201372
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
đổi: Giao tiếp là một quá trình hữu thức hoặc
vô thức, hữu ý hoặc vô tình trong đó các tình
cảm và ý tưởng được diễn tả bằng các thông
điệp ngôn từ hoặc phi ngôn từ. Nó xảy ra ở các
cấp độ nội nhân, liên nhân và công cộng. Giao
tiếp của con người vốn năng động và liên tục,
bất hồi tương tác và mang tính chu cảnh.
Giao tiếp là bất cứ quá trình nào trong đó
người ta chia sẻ thông tin, ý niệm và tình cảm,
nó viện đến ngôn từ không chỉ ở dạng khẩu
ngữ, bút ngữ mà cả ngôn ngữ thân thể, phong
cách và kiểu cách cá nhân, ngoại cảnh và mọi
thứ bổ sung ý nghĩa cho thông điệp.
Trong các khái niệm giao tiếp nêu trên có
thể thấy các khái niệm của Berko et al (1989)
và Hybel& Weaver (1992) là đầy đủ và thuyết
phục hơn cả bởi các khái niệm này đã chỉ ra
được bản chất hành tác, tương tác và xuyên
tác của quá trình giao tiếp; nêu bật được các
đặc tính của giao tiếp; nêu ra được các phương
tiện hiện thực hóa giao tiếp và nêu rõ được các
cấp độ của giao tiếp.
Trong quá trình giao tiếp ta có thể thấy
các thành phần chính yếu sau :
- Người gửi (còn được gọi là người nói) là
người đưa ra hành vi giao tiếp (có thể là ngôn
từ hoặc phi ngôn từ) hay nói cách khác, đây
quá trình mã hoá: thông tin được biến thành
lời nói, chữ viết hay các ký hiệu khác;
- Người nhận (còn được gọi là người nghe)
là người gán nghĩa vào hành vi của người gửi
hay nói cách khác đây là quá trình giải mã các
thông điệp của người gửi;
(Ở một số tài liệu khác, người gửi và người
nhận được gọi là bộ phát và bộ thu, hai thành
phần chính trong giao tiếp).
- Thông điệp là hành vi của người gửi (ngôn
từ và phi ngôn từ; hữu ý hoặc vô tình) được
người nhận gán nghĩa;
- Kênh là phương tiện qua đó các thông
điệp được truyền tải từ người gửi đến người
nhận. Trong giao tiếp trực tiếp, kênh chính
được sử dụng là nghe và nhìn;
- Phản hồi: là thông điệp được người nhận
đưa ra để phản hồi thông điệp do người gửi
chuyển đến, thông thường “phản hồi” thực sự
tạo ra ảnh hưởng đối với hành vi tiếp sau của
người gửi thông điệp ban đầu;
- Chu cảnh: là tính huống trong đó thông
điệp được truyền tải, chu cảnh bao gồm: Địa
điểm giao tiếp, thời gian giao tiếp, phương
tiện truyền tải, số người có mặt...;
- Vật cản: là bất cứ cái gì, điều gì làm ngắt
quãng thông điệp hoặc dòng giao tiếp giữa
người gửi và người nhận;
Các nhà khoa học đã khẳng định “Con
người giao tiếp bằng ngôn từ để chia sẻ những
thông tin mang tính nhận thức và để truyền bá
kiến thức, nhưng họ phụ thuộc rất nhiều vào
giao tiếp phi ngôn từ để chia sẻ tình cảm, cảm
xúc và thái độ” (4, tr.45). Nhận định trên cho
thấy trong hoạt động giao tiếp của con người,
đặc biệt là giao tiếp trực diện, không thể phủ
nhận vai trò của ngôn ngữ (giao tiếp bằng
ngôn từ). Tuy nhiên, trên thực tế, mỗi cá nhân,
khi tham gia vào quá trình giao tiếp, có thể ít
hoặc nhiều, có thể có chủ đích, hay không có
chủ đích, đều sử dụng các yếu tố như cử chỉ
tay chân, biểu hiện nét mặt, ngữ điệu.... (giao
tiếp phi ngôn từ) để truyền tải cụ thể hơn, rõ
ràng hơn thông điệp của mình đến đối tượng
giao tiếp.
1.2. Giao tiếp phi ngôn từ
Giao tiếp phi ngôn từ được định nghĩa là
toàn bộ các bộ phận kiến tạo nên giao tiếp
không thuộc mã ngôn từ, có nghĩa là không
được mã hoá bằng từ ngữ. Nếu giao tiếp
ngôn từ được thực hiện thông qua Nội ngôn
ngữ bao gồm các đơn vị từ vựng: từ đơn, từ
ghép,cụm từ, thành ngữ...; các qui tắc ngữ
pháp, ngữ âm, qui tắc sử dụng ngôn ngữ và
các kỹ năng tương tác thì giao tiếp phi ngôn
từ được hiện thực hoá thông qua hai yếu tố là
Cận ngôn ngữ và ngoại ngôn ngữ.
- Cận ngôn ngữ bao gồm các thành tố: Các
đặc tính của ngôn thanh: tốc độ, cao độ, cường
độ (độ nhanh chậm,cao thấp, mạnh nhẹ của
chuỗi lời nói); phẩm chất của ngôn thanh(chất
73Số 4 - Tháng 6 - 2013
TRAO ĐỔI
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
giọng: khàn, trong, rè, the thé...), các yếu tố xen
ngôn thanh (hắng giọng, ậm ừ, ờ, à...); các loại
thanh lưu và đôi khi cả sự im lặng.
- Ngoại ngôn ngữ bao gồm các thành tố:
Ngôn ngữ thân thể: tiếp xúc qua ánh mắt;
các biểu hiện trên khuôn mặt; đặc tính thể
chất: cao, thấp, béo, gầy...; các cử chỉ của tay
và chuyển động của thân thể, tư thế, hành vi
động chạm... Ngôn ngữ vật thể: trang phục,
quần áo, giầy dép...; đồ trang sức, cách trang
điểm; các phụ kiện đi kèm: kính, đồng hồ túi
sách...; mùi hương nhân tạo: nước hoa, băng
phiến, xà phòng... Ngôn ngữ môi trường: địa
điểm, khoảng cách, thời gian, hệ thống ánh
sáng, mầu sắc, nhiệt độ.... (4, tr. 61)
Như vậy trong mọi tình huống giao tiếp xã
hội, ta đều có thể nhận thấy các dạng thức của
giao tiếp phi ngôn từ chỉ là ở mức độ đậm nhạt
khác nhau mà thôi. Hay nói cách khác, người
ta không thể không giao tiếp phi ngôn từ bởi
ngay cả khi ta không nói năng, không hoạt
động thì ở những mức độ khác nhau, hoặc hữu
ý hoặc vô tình, ta vẫn đang giao tiếp với người
khác, thông báo với họ về thái độ (thờ ơ, phân
vân, khinh thị hay kính trọng), tình cảm (say
mê, đau khổ, căm giận, yêu thương), tình
trạng sức khoẻ (cường tráng, suy sụp), trạng
thái tâm lý (căng thẳng, lo âu, phấn khích).
Trong một số trường hợp, giao tiếp phi ngôn
từ giúp người nghe nhìn thấy rõ tình cảm thật
của người nói hơn là giao tiếp ngôn từ. Ngôn
từ thường rất chính xác trong việc mô tả các
trạng thái tình cảm tinh tế khác nhau xong
trên thực tế chúng chỉ miêu tả được một khía
cạnh hoặc biểu thị được một trạng thái của
một cảm giác nào đó mà thôi. Ví dụ khi nói
“đứa trẻ vô cùng sung sướng khi nhận món
quà từ tay bố”, sẽ không biểu đạt được rõ nét
sự “vô cùng sung sướng” của đứa trẻ bằng “đứa
trẻ nhảy cẫng lên, gương mặt sáng bừng rạng
rỡ khi nhận món quà từ tay bố”.
Đặc biệt nhiều biểu hiện phi ngôn từ có thể
được nhận diện và được tiếp nhận như nhau
trong nhiều cộng đồng ngôn ngữ và văn hóa
khác nhau. Bằng chứng là nhiều hiện tố phi
ngôn từ một thời vốn thuộc về một hay một số
cộng đồng nhất định, nay đã được phổ biến và
chấp nhận rộng rãi. Ví dụ, giơ ngón tay cái lên
để biểu thị ý nghĩa “tốt, giỏi, đồng tình” hoặc
giơ ngón trỏ và ngón giữa thành hình chữ V và
quay lòng bàn tay ra ngoài để biểu thị ý nghĩa
“chiến thắng, chúc thành công”.
Tuy vậy trong quá trình giao tiếp phi ngôn
từ cũng cần cẩn trọng bởi nhiều biểu hiện phi
ngôn từ giống nhau nhưng được nhận diện
và diễn giải khác nhau, thậm chí với ý nghĩa
trái ngược nhau trong các cộng đồng ngôn
ngữ -văn hóa khác nhau. Ví dụ: cùng là hành
động nối hai đầu ngón tay cái và ngón tay trỏ
của một bàn tay để tạo thành một vòng tròn
thì với người Anh, Mỹ, Úc, biểu hiện phi ngôn
từ này được hiểu là Ok (tốt, được), nhưng với
người Nhật nó lại có nghĩa là tiền, trong khi
đó người Pháp và người Lào lại hiểu nó theo
nghĩa là zero (không có gì hoặc là vô giá trị).
Như vậy khi thực hiện giao tiếp phi ngôn
từ, chúng ta không chỉ xem xét và diễn giải
một hiện tố phi ngôn từ hay một cử chỉ đơn lẻ
mà phải xem xét chúng trong mối tương giao
với một loạt các yếu tố như thời gian, không
gian, quan hệ, đề tài trao đổi.
Tóm lại, giao tiếp nói chung và giao tiếp
phi ngôn từ nói riêng là hoạt động gắn liền với
đời sống xã hội của con người. Giao tiếp giúp
cho các cá nhân, các tổ chức xã hội thực hiện
việc trao đổi thông tin, kinh nghiệm và trong
một chừng mực nhất định, giao tiếp (đặc biệt
là giao tiếp phi ngôn từ) góp phần vào quá
trình giao lưu trao đổi văn hóa giữa các quốc
gia các cộng đồng, giúp các cộng đồng xích
lại gần nhau.
2. Một số biểu hiện của giao tiếp phi ngôn
từ trong hoạt động du lịch
Du lịch là ngành kinh tế dịch vụ tổng hợp.
Sản phẩm của du lịch có thể là sự kết hợp của
một chuỗi các sản phẩm dịch vụ như : lưu trú,
ăn uống, vận chuyển, tham quan giải trí
nhằm đem lại cho du khách một kỳ nghỉ tương
xứng với đồng tiền họ đã đầu tư. Đối tượng
Số 4 - Tháng 6 - 201374
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
phục vụ của du lịch rất đa dạng về quốc tịch,
giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp, Mục đích, sở
thích đi du lịch của khách cũng rất khác nhau.
Do đó, để kinh doanh có hiệu quả, đòi hỏi phải
có sự đầu tư toàn diện, đồng bộ từ hệ thống
cơ sở vật chất kỹ thuật hoàn chỉnh, phù hợp
với loại hạng và đối tượng khách hàng mà
doanh nghiệp hướng tới đến đội ngũ những
người phục vụ được đào tạo một cách bài bản,
có khả năng tác nghiệp tốt, đặc biệt là khả
năng giao tiếp và nắm bắt được tâm lý khách.
Như đã phân tích ở phần trên, mỗi cá nhân
có thể thực hiện hoạt động giao tiếp dưới hai
hình thức giao tiếp ngôn từ và giao tiếp phi
ngôn từ. Hoạt động giao tiếp trong du lịch
cũng không ngoại lệ, tuy nhiên trong phạm vi
bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến một số
biểu hiện của giao tiếp phi ngôn từ trong hoạt
động kinh doanh du lịch để khẳng định thêm
vai trò, tầm quan trọng của nó trong hoạt động
kinh doanh mang tính tổng hợp này.
2.1. Yếu tố cận ngôn ngữ trong giao tiếp
với khách du lịch
Trong hoạt động giao tiếp du lịch, yếu tố
cận ngôn ngữ được diễn giải hay được thể hiện
thông qua “cách đàm thoại” của nhân viên với
khách hàng trực tiếp hoặc gián tiếp. Điều đó
có nghĩa là ngoài nội dung của thông điệp
thì cách chuyển tải thông điệp đóng một vai
trò đặc biệt quan trọng. Chính vì thế, để giao
tiếp thành công, ngoài việc “nói cái gì”, người
nhân viên còn phải chú ý đến việc “nói như thế
nào”. Giao tiếp với khách hàng trong du lịch
không chỉ đơn thuần là sự truyền đi và tiếp
nhận thông điệp giữa các đối tượng tham gia
giao tiếp mà là sự giao tiếp giữa người được
phục vụ (khách hàng) và người phục vụ (nhân
viên). Do đó một giọng nói vừa đủ nghe, âm
điệu nhẹ nhàng, lịch sự, ngôn từ được chuyển
tải một cách rõ ràng mạch lạc, sẽ có sức thuyết
phục cao hơn.
Giáo sư Nguyễn Văn Lê đã đưa ra những
nhận định về tầm quan trọng của yếu tố cận
ngôn ngữ trong giao tiếp với khách du lịch
như sau:
- Giọng nói ấm áp và hấp dẫn cộng với đôi
mắt sáng tạo thành cái duyên trong giao
tiếp; không cần đẹp mà cần cái “duyên”.
- Về cường độ: tiếng nói đủ to, đủ mạnh sẽ
làm rung chuyển người nghe, những tiếng nói
lếu lếu hoặc lờ đờ trong miệng, những tiếng
nói nhựa nhựa không thể nào cảm được người
nghe.
- Về âm sắc: Âm sắc trong trẻo, mềm mại
làm cho tiếng nói dễ nghe, ngược lại âm sắc
cứng đờ, chát chúa hay mai mỉa làm chối tai
thính giả.
- Về âm vực: Âm vực rộng phát ra từ những
giọng thật trầm đến những giọng thật bổng
mới có đủ phương tiện để diễn đạt tất cả tình
cảm (3, tr.158).
Đối với một hướng dẫn viên du lịch, việc
sử dụng cường độ, tốc độ âm thanh không
phù hợp trong quá trình tác nghiệp như “Nói
không rõ làm người nghe khó hiểu, khó tiếp
thu điều mình nói” hay “Nói thao thao bất
tuyệt” là những điều “tối kỵ” khi tác nghiệp bởi
một nét đặc thù của giao tiếp trong hoạt động
hướng dẫn là giao tiếp giữa một người với một
nhóm người, trong điều kiện không gian, thời
gian mở. Chất giọng, âm điệu, của hướng dẫn
viên khi thực hiện việc thuyết minh, hướng
dẫn tại một điểm du lịch cũng rất quan trọng
bởi họ không chỉ thực hiện nhiệm vụ cung
cấp các thông tin về điểm đến tới khách hàng
mà còn gửi gắm, trao truyền cả tâm tư, tình
cảm, cả tình yêu, niềm tự hào của mình về con
người, về cảnh quan... của điểm đến. Đây cũng
là một trong những lý giải việc các công ty lữ
hành thường sử dụng hướng dẫn viên tại điểm
đến như: quê Bác; thành cổ Quảng Trị; ngã ba
Đồng Lộc hay cố đô Huế
Trong khách sạn du lịch, các yếu tố cận
ngôn ngữ không rõ nét như trong hoạt động
hướng dẫn du lịch nhưng cũng góp phần
không nhỏ trong việc tạo ra những hiệu ứng
tích cực cho quá trình giao tiếp. Một nhân
viên có kinh nghiệm sẽ biết “lựa lời” khi đàm
thoại với khách, sẽ biết cách điểu chỉnh giọng
75Số 4 - Tháng 6 - 2013
TRAO ĐỔI
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
nói sao cho trầm ấm nhẹ nhàng, êm dịu ngọt
ngào mà không ấp úng nhát gừng, sao cho
phù hợp với đối tượng giao tiếp. Ví dụ cùng
là lời chào mừng sự trở lại khách sạn của một
khách hàng quen.
“Kính chào ông Michel. Kính chào bà quí
mến. Thật là niềm vui lớn cho chúng tôi, lại
được đón tiếp ông bà lần nữa”.
Nếu nhân viên sử dụng tốc độ nói hơi
nhanh, cao độ âm thanh ở mức cao, chất giọng
tự nhiên, không có yếu tố xen ngôn thanh... sẽ
thể hiện một cách rõ nét sự vui mừng của nhân
viên khi đón khách, ngược lại khi nhân viên nói
câu chào mừng trên với giọng nói chậm, cao
độ âm thanh ở mức thấp, sẽ khiến khách hàng
cảm thấy nhân viên như đang đọc lời chào
mừng. Đặc biệt nhân viên tuyệt đối không
chào mừng khách hàng theo kiểu: “Dạkính
chào ông Michel, dạ... kính chào bà quí mến,...
ờthật là niềm vui lớn cho chúng tôi lại được
đón tiếp ông bà lần nữa”
Xét một cách tổng thể, yếu tố cận ngôn
ngữ là một thành tố tuy không tham gia vào
hệ thống ngôn từ được sử dụng trong giao
tiếp nhưng không thể phủ nhận vai trò của nó
trong việc diễn tả các trạng thái tình cảm, cảm
xúc của người nói đến người nghe. Trong hoạt
động du lịch, yếu tố cận ngôn ngữ góp phần
tạo ra cái “sắc vẻ” của thông điệp mà ngưòi làm
du lịch muốn chuyển tải đến khách hàng.
2.2. Các yếu tố ngoại ngôn ngữ trong giao
tiếp với khách du lịch
2.2.1. Ngôn ngữ thân thể
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng,
cơ thể con người có thể tạo ra hơn 700.000
chuyển động khác nhau để diễn tả các sắc thái
cực kỳ tinh tế của trạng thái, thái độ, xúc cảm
và tình cảm của con người (4, tr. 111). Mỗi một
cử động của thân thể có thể giúp cho từng
cá nhân khi tham gia vào quá trình giao tiếp
“đọc” ra nhiều điều từ người đối diện. Ngôn
ngữ thân thể, nếu nghìn từ góc độ văn hoá, lại
nói lên nhiều điều về thói quen, tập quán, về
những kiêng kỵ của mỗi quốc gia dân tộc. Ví
dụ Người Việt, Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc
thường có thói quen dùng hai tay để trao và
nhận một vật gì đó (quà, thư) từ một người lạ,
một người già hơn hoặc có địa vị xã hội cao
hơn mình. Cử chỉ này được hiểu là biểu thị sự
tôn trọng đối tác giao tiếp. Họ chỉ sử dụng một
tay để trao nhận khi đối tác là đồng niên, đồng
quyền, hoặc trẻ hơn hay có địa vị xã hội thấp
hơn hoặc thậm chí để biểu thị sự coi thường.
Trong khi đó, với văn hóa Âu - Mỹ, cùng một
chức năng trao nhận với mọi đối tác giao tiếp,
người ta thường chỉ sử dụng một tay và các
hàm ý tôn trọng hay coi thường không phụ
thuộc vào cử chỉ này. Tương tự như vậy, trong
văn hóa phương tây (đặc biệt là Anh, Mỹ, Úc)
việc nhìn thẳng vào đối tác giao tiếp được coi
là hành vi tích cực nhằm tỏ ra cởi mở, thẳng
thắn và thích thú; việc tránh tiếp xúc qua ánh
mắt thường bị qui xét là hành vi tiêu cực, được
diễn giải là sự chán chường, không trung thực
và không hợp tác. Trong khi đó, ở các nền văn
hóa Đông Á như Việt, Nhật, Hàn, Trung, Thái
việc nhìn thẳng vào mắt ai đó một lúc lâu, bị
coi là bất lịch sự và mang tính thách thức.
Trong hoạt động du lịch, việc tìm hiểu và
nắm bắt được những hành vi, cử chỉ, điệu bộ
mang tính “dấu hiệu” của du khách sẽ giúp ta
hiểu và dễ tiếp cận với khách hàng hơn, đồng
thời cũng hạn chế tối đa những hành vi, cử
chỉ có thể dẫn đến sự hiểu lầm của khách
hàng hoặc áp dụng một cách cứng nhắc những
nguyên tắc mang tính lý thuyết trong quá trình
giao tiếp với khách hàng. Chẳng hạn khi giúp
đoàn khách Nhật chụp bức ảnh kỷ niệm sau khi
vào viếng lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, hướng
dẫn viên cứ cố gắng động viên để khách cười
mà không biết rằng người Nhật thường không
mỉm cười khi chụp ảnh trong các dịp trang trọng
vì họ e ngại rằng người xem ảnh sẽ cho mình là
người lông bông phù phiếm. Hay khi khách du
lịch đến từ nhiều quốc gia coi “gật đầu” là thể
hiện của sự đồng ý, đồng tình, cho phép thì du
khách đến từ các quốc gia như Thổ Nhĩ Kỳ, Iran,
Bungari và một số vùng thuộc Hi Lạp lại gắn
cho động tác này ý nghĩa ngược lại. Kiểu chào
chắp hai tay vào nhau, hai lòng bàn tay ép vào
Số 4 - Tháng 6 - 201376
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
nhau, các ngón tay để thẳng khá phổ biến ở
các quốc gia như: Ấn Độ, Lào, Thái Lan, nhưng
đối với người Thái Lan khi chào (hay còn gọi là
wai) hai ngón tay cái sẽ chạm vào (hoặc gần
chạm) vào bốn vị trí trên cơ thể người thực hiện
chào (wai) để biểu hiện vị trí xã hội của người ấy
trong mối quan hệ với người tiếp nhận wai. Bốn
vị trí đó là : Ngực, cằm mũi và trán. Wai ngực
dành cho bạn bè con trẻ, đồng nghiệp; wai
cằm dành cho người hơn tuổi, người lạ; wai mũi
dành cho cha mẹ thầy cô; wai trán dành cho
đức vua, các bậc cao tăng và hình ảnh Phật.
Ngoài việc sưu tầm tìm hiểu những dấu
hiệu của ngôn ngữ thân thể ở một số thị
trường khách chính, người hoạt động trong
lĩnh vực du lịch nhất thiết phải tuân thủ
những dấu hiệu mang tính chuẩn mực của
ngôn ngữ cơ thể khi tác nghiệp như: tư thế
khi nói chuyện hoặc khi chỉ dẫn thuyết minh
về điểm du lịch; động tác tay khi hướng dẫn;
dáng người, phong thái khi di chuyển; thái độ
khi tiếp nhận những yêu cầu, góp ý của khách
hàng về sản phẩm dịch vụ....Hạn chế tối đa các
động tác thừa trong giao tiếp với khách như
vừa nói vừa gãi đầu, bấm bút bi hoặc nhai kẹo
cao su; vừa chào khách vừa xoa xoa hai bàn
tay vào nhau.
2.2.2. Ngôn ngữ vật thể
Người Anh có câu thành ngữ “Vẻ bề ngoài
dễ đánh lừa” nhưng họ cũng nhận ra rằng “Ông
thợ may tạo ra con người”. Người Việt lại có câu
“Người đẹp về lụa”. Điều đó cho thấy vẻ bên
ngoài của con người đóng vai trò không thể
bỏ qua trong các tương tác xã hội. Cách thức
mà mỗi cá nhân xuất hiện trước người khác
cũng ảnh hưởng không nhỏ đến phản ứng trở
lại của người khác, đặc biệt là trong lần gặp gỡ
đầu tiên, ấn tượng ban đầu thường rất sâu sắc
và lâu bền.
Ý thức được tầm quan trọng của vẻ bên
ngoài khi tiếp xúc với khách, các doanh nghiệp
du lịch tiến hành thiết kế đồng phục cho nhân
viên (trong các doanh nghiệp khách sạn còn
có đồng phục riêng cho từng bộ phận). Ngoài
ra còn có những qui định mang tính chất bắt
buộc đối với nhân viên về trang phục, kiểu
tóc, cách trang điểm, sử dụng nước hoa, mỹ
phẩm... Ví dụ, các khách sạn năm sao đều qui
định rõ về vệ sinh cá nhân: Nhân viên phải
thường xuyên tắm rửa, dùng chất khử mùi,
chống mùi hôi khi cần thiết; thường xuyên
gội đầu, tránh để tóc bị gàu, móng tay phải
giữ sạch sẽ và không để dài. Về hình thức tác
phong: Nhân viên phải mặc đồng phục chỉnh
tề, gọn gàng và sạch sẽ, đeo biển tên trong
giờ làm việc; nhân viên nam phải cạo râu hàng
ngày, tóc được chải, cắt, gọn gàng; nhân viên
nữ trang điểm nhẹ nhàng, không dùng các loại
mỹ phẩm có hương thơm đậm, nếu tóc dài (ở
mức dưới cổ áo) nên buộc hoặc cặp tóc có màu
sắc, kiểu cách giản dị, không đeo đồ trang sức
quá mức cần thiết.
Đối với các hướng dẫn viên du lịch, do
đặc thù công việc (phải di chuyển, vận động
nhiều, tác nghiệp ở nhiều dạng địa hình khác
nhau) nên trang phục, đầu tóc phải gọn gàng,
phù hợp với thuần phong mỹ tục, đảm bảo
tính tiện lợi, thoải mái, không nên quá cầu kỳ,
sang trọng.
Việc ăn mặc, trang điểm, sử dụng nước
hoa hoặc các phụ kiện đi kèm của du khách,
ở mỗi quốc gia cũng có những điểm khác biệt.
Đôi khi ở một số quốc gia còn có những cách
phục sức tương đối đặc biệt. Ví dụ, phụ nữ Hồi
giáo với bộ trang phục đen tuyền che kín từ
đầu đến chân, chỉ để hở đôi mắt; phụ nữ Ấn
Độ rất thích đồ trang sức, họ không chỉ đeo đồ
trang sức ở cổ, tay, tai mà còn đeo ở mũi, thậm
trí cả ở rốn; hay nam giới người Scotland có
thể mặc váy vào các dịp lễ trọng thể .Người
làm du lịch cần nắm bắt những nét văn hóa,
tập quán riêng của du khách được biểu hiện
qua các yếu tố thuộc ngôn ngữ vật thể để có
những hành vi giao tiếp phù hợp, tránh gây
hiểu lầm hoặc tác động tiêu cực đến khách.
77Số 4 - Tháng 6 - 2013
TRAO ĐỔI
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
2.2.3. Ngôn ngữ môi trường
Ngôn ngữ môi trường được hiểu là tất cả
các yếu tố trong môi trường giao tiếp và bao
quanh các đối tác giao tiếp có khả năng truyền
tải những thông điệp nhất định và có tác động
đến sự giao tiếp. Ngôn ngữ môi trường bao
gồm: địa điểm, khoảng cách, thời gian, hệ
thống ánh sáng, mầu sắc, nhiệt độ....
Trong du lịch yếu tố thời gian thường là
vấn đề mà các hướng dẫn viên cần lưu ý nhất,
cũng cần hiểu yếu tố thời gian ở đây theo hai
cách: thứ nhất là thời gian mà ở đó tình huống
giao tiếp xảy ra và cách thứ hai là sử dụng thời
gian trong những tình huống nhất định. Cách
hiểu thứ nhất thường liên quan đến sự chậm
trễ, sai giờ hẹn, thường khiến du khách không
hài lòng và ảnh hưởng không tốt đến quan hệ
giao tiếp giữa khách và hướng dẫn viên. Trên
thực tế, khách du lịch ở một số quốc gia như
gian như Ý Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Mêhicô và
các nước Nam Mỹ... có thói quen không cụ thể,
chính xác một cách tuyệt đối về thời gian nhưng
khi phục vụ những khách hàng này, hướng dẫn
viên cần phải hiểu là mình đang làm nhiệm vụ
và thời gian đối với du khách đồng nghĩa với
việc sử dụng hiệu quả đồng tiền mà họ đã đầu
tư cho chuyến đi. Mặt khác, người hướng dẫn
viên linh hoạt, lấy được thiện cảm từ khách là
người biết sử dụng thời gian một cách hợp lý.
Khách hàng sẽ không khen khi hướng dẫn viên
cứ say sưa với bài thuyết minh của mình mà
không biết rằng du khách đã quá mệt mỏi vì
phải đứng lâu dưới trời nắng...
Ngôn ngữ môi trường còn được biểu hiện
ở việc trang trí, sắp xếp phòng ngủ khách sạn
phù hợp với nhu cầu, thói quen của du khách.
Điều này nói nên sự tận tình chu đáo của khách
sạn dành cho khách hàng. Việc bài trí phòng
ăn, sắp xếp bàn ăn theo đúng phong cách của
quốc gia, dân tộc cũng “nói” nên rằng nhà hàng
luôn mong muốn đem lại cho du khách sự hài
lòng tuyệt đối, sự phục vụ trên cả mong đợi.
3. Kết luận
Giao tiếp là một hình thái quan hệ giữa
người với người, một nhu cầu diễn ra hàng
ngày và dường như chiếm một tỷ lệ thời gian
khá nhiều trong cuộc đời của mỗi người. Hoạt
động giao tiếp xuất hiện trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, có thể dưới dạng ngôn từ
hoặc phi ngôn từ song dù với hình thức nào đi
nữa, giao tiếp cũng nhằm truyền đi một lượng
thông tin nhất định, chính điều đó giúp con
ngưòi hiểu nhau hơn, gắn kết với nhau hơn.
Trong hoạt động du lịch nếu giao tiếp ngôn từ
làm nhiệm vụ truyền đến du khách một lượng
từ vựng mang hàm nghĩa nhất định thì giao
tiếp phi ngôn từ có nhiệm vụ chuyển tải sự
trân trọng, sự nhiệt huyết, tình cảm và sự hiểu
biết của mỗi nhân viên đến với du khách.
Giao tiếp phi ngôn từ còn thể hiện những nét
đặc trưng văn hóa của các quốc gia, dân tộc,
vì thế cũng góp phần không nhỏ trong giao
lưu văn hóa.Từ việc xem xét các khía cạnh trên,
không thể phủ nhận tầm quan trọng của giao
tiếp phi ngôn từ trong hoạt động du lịch.
N.M.T
(Ths, GV Khoa Văn hóa du lịch)
Tài liệu tham khảo
1. Đinh Vân Chi (2004), Nhu cầu của du khách
trong quá trình du lịch, Nxb Văn hoá thông tin,
Hà Nội.
2. Nguyễn Văn Đính, Nguyễn Văn Mạnh
(2009), Giáo trình tâm lý và nghệ thuật giao tiếp
ứng xử trong kinh doanh du lịch, Nxb Đại học Kinh
tế Quốc dân, Hà Nội
3. Nguyễn Văn Lê (1997), Tâm lý học du lịch,
Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Quang (2008), Giao tiếp phi ngôn từ
qua các nền văn hóa, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội
5. Bùi Thanh Thuỷ (2009), Mười kỹ năng tạo
nên sự thành công của người hướng dẫn du lịch,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
Ngày nhận bài: 12/4/2013
Ngày phản biện, đánh giá: 10/5/2013
Ngày chấp nhận đăng: 12/6/2013
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_tiep_phi_ngon_tu_trong_hoat_dong_du_lich.pdf