Thông tin đóng một vai trò rất quan trọng trong marketing xuất khẩu mặc dù thông tin không tạo ra được sản
phẩm hay dịch vụnhưng nó rất cần thiết trong việc cung cấp những tin tức đểgiúp cho khách hàng đưa ra
quyết định mua hàng.
Thông tin trong marketing xuất khẩu là một loại thông tin xuyên văn hóa, giữa những người ởmột nền văn
hóa này và những người ởmột nền văn hóa khác. Thông thường nền văn hóa của một nước này sẽkhác với
nền văn hóa của một nước khác, và đôi khi trong một nước lại có sựkhác biệt với nhau vềvăn hóa. VD: Ấn
Ðộ, Trung Quốc.
Hoặc các khúc thịtrường của các nước khác nhau vềvăn hóa.
VD: - Sởthích của giới trẻ ởcác nước Châu Aâu vềxe môtô hay âm nhạc
lại giống nhau.
- Văn hóa gia đình truyền thống của một sốnước Trung Quốc, Việt
Nam, Hàn Quốc lại tương tựnhau.
Xúc tiến marketing xuất khẩu là làm thếnào chuyển được các thông tin từnhà xuất khẩu đến khách hàng ở
nước ngoài, vượt qua được các rào cản do sựkhác biệt vềvăn hóa như: sựkhác nhau vềngôn ngữ, quy định
của chính phủ, phương tiện truyền thông đại chúng .
61 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1768 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo tình Marketing xuất nhập khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong các tài liệu
khác.
Ở đây chúng tôi chỉ trình bày một cách tóm tắt các điều khoản chính một cách tổng quát như sau:
1. EX (Point of Origin) điều kiện này có liên quan đến các hình thức như: EX Factory, Ex Mill, EX Mine,
EX Works, EX Ware-house ... Chi phí và trách nhiệm của người bán hàng chấm dứt tại quốc gia của ông ta.
2. Free on board (F.O.B) : giao lên mạn tàu ở một cảng đã được chỉ định trước thuộc quốc gia xuất khẩu.
Trong trường hợp hàng hóa không giao lên mạn tàu mà giao lên các phương tiện vận chuyển khác như tàu
hỏa, máy bay thì được gọi là Free carrier (F.C.A). Trách nhiệm của nguời bán chấm dứt khi hàng hóa dược
xếp lên tàu và được cấp vận đơn (Bill of lading). Trong trường hợp hàng hóa được giao đến tận cảng được
chỉ định trước nằm ở nước nhập khẩu. Trong trường hợp này nguời bán phải chịu trách nhiệm cho đến khi
hàng hóa đến nơi thích hợp ở nước ngoài. Trường hợp này được gọi là Delivered Duty Unpaid (DDU) hoặc
Delivered Duty Paid (DDP)
3. Free along side ship (FAS): nguời bán hàng chịu trách nhiệm giao hàng đến dọc mạn tàu tại cảng xuất
khẩu. Như vậy điều kiện này khác FOB ở chỗ thời gian và chi phí xếp hàng lên tàu không được tính vào điều
kiện FAS.
4. Cost and Freight (C&F): C&F (hoặc CFR, CPT) nghĩa là chi phí vận chuyển được mở rộng ra ngoài quốc
gia xuất khẩu. Mặc dù trách nhiệm pháp lý của người bán chấm dứt khi hàng đã được xếp lên phương tiện
vận chuyển tại cảng xuất khẩu. Nhưng người bán vẫn phải chịu trách nhiệm hợp đồng và thanh toán tiền vận
chuyển hàng hóa đến cảng sẽ bốc dở hàng ở nước ngoài. Người mua chịu trách nhiệm mua bảo hiểm.
5. Cost Insurance, and freight (CIF): điều kiện này thì nó cũng giống như C&F chỉ có điều là người bán phải
mua thêm bảo hiểm.
6. EX Dock: EX Dock (và DEQ) đòi người bán phải tốn thêm nhiều chi phí để xếp hàng vào một kho bên
trong của cảng nhập khẩu ở nước ngoài kể cả phải chịu chi phí thuế nhập khẩu của lô hàng đó.
2. Lựa chọn các điều kiện thương mại: (Selection of Trade Terms) Top
Ðể quyết định khi nào nên sử dụng điều kiện nào, nhà xuất khẩu nên xem xét các yếu tố sau:
· Việc vận chuyển được thực hiện bởi phương tiện thuộc trong nước hay thuộc nước ngoài.
· Các thông tin về chi phí nước đóng bảo hiểm.
· Nhu cầu của nhà xuất khẩu là cần tiền (lý do này không phù hợp với điều kiện C&F và CFR/CPT)
· Nhu cầu của nhà nhập khẩu có nhiều bảng biểu gía từ nhiều nhà cung cấp để tiện trong việc so sánh (nên
chọn điều kiện CIF & CIP)
· Các vấn đề chuyển đổi tiền tệ. Người mua nên chọn điều kiện FOB để thanh toán các vận chuyển bằng tiền
tệ của nước mình. Tuy nhiên, nếu hãng vận tải thuộc nước ngoài thì nó vẫn tiếp tục là vấn đề trong chuyển
đổi tiền tệ.
· Những yêu cầu của chính phủ nước nhập khẩu. VD: một vài quốc gia đang phát triển đòi hỏi phải mua hàng
với điều kiện FOB thì họ mới cấp giấy phép nhập khẩu. Ðiều này nhằm mục đích đỡ đầu và phát triển các
hãng tàu biển và bảo hiểm của nước nhập khẩu. Nhiều nhà nhập khẩu yêu cầu điều kiện CIF (hoặc CIP) để
họ dễ dàng so sánh giá, sau đó họ lại mua hàng với giá FOB.
Sự Biến giá là một phần quan trọng trong chiến lược tiếp thị xuất khẩu. Một cách lý tưởng, sự Biến giá nên
thực hiện ở hình thức nào thích hợp nhất đối với khách hàng như họ được cung cấp bởi các đối thủ cạnh
tranh của nhà xuất khẩu. Thông thường họ hay đòi chào giá theo điều kiện CIF hoặc CIP vì đó là một cách
duy nhất để họ cho phép người mua so sánh giá cả dễ dàng từ các nhà cung cấp thuộc các địa phương khác
nhau.
3. Chào giá CIF: Top
Ðây là một trong những cách chào giá phổ biến nhất trong ngoại thương. Cách chào giá CIF rất khó để giải
thích một cách chính xác. Vì theo thông lệ các nhà xuất khẩu thường cộng thêm 10% đối với giá trị được bảo
hiểm để bù đắp các chi phí và tổn thất không được tính trong giá CIF. Vì vậy, giá trị CIF là tiền hàng hóa,
cước vận tải tới cảng đến và chi phí bảo hiểm trên 110% của giá trị CIF.
Có hai phương pháp để định giá bảo hiểm khi giá C&F đã được xác định. Ðó là phương pháp phỏng chừng
và phương pháp tính theo công thức.
3.1 Phương pháp phỏng chừng (The Estimate Method)
Nhà xuất khẩu sử dụng phương pháp phỏng chừøng chỉ đơn giản thêm 10% vào giá C&F. Sau đó, nếu phí
bảo hiểm là X% ông ta lấy X% của giá C&F và sau đó thêm vào 10%. con số cuối cùng đó được cộng thêm
vào giá C&F. Có rất nhiều nhà xuất khẩu áp dụng phương pháp tính phỏng chừng này và không để ý đến các
cách tính khác.
3.2 Phương pháp theo công thức (The Formula Method)
Phương pháp chính xác nhất để tính toán việc chào giá CIF liên quan đến việc sử dụng công thức.
Việc thêm vào 10% đây chỉ là thông lệ để nhằm mục đích tính để mua bảo hiểm. Nhiều công ty có thể tính
15% hoặc một tỷ lệ phần trăm nào khác để thay thế cho tỷ lệ 10%, khi tỷ lệ phần trăm thay đổi thì con số
tương ứng trong công thức cũng được thay đổi cho phù hợp.
3.3 Cách tính toán cước hàng hải: (Computation of Ocean Freight)
Long Ton : 2240 pounds 40 cubic feet
Short Ton : 2000 pounds
Metric Ton : 2204,62 pounds pound=0,454 Kg.
VI. ÐỊNH GIÁ CHUYỂN NỘI BỘ (Transfer Pricing) Top
Việc định giá không chỉ áp dụng đối với các sản phẩm bán cho khách hàng độc lập, mà nó còn thực hiện đối
với các sản phẩm được chuyển cho các công ty con hoặc ban điều hành ở nước ngoài, nơi mà nhà xuất khẩu
có một phần sở hữu. Như vậy, việc định giá sản phẩm được cung cấp cho các công ty mà nhà xuất khẩu có
quyền sở hữu toàn phần hoặc một phần đối với các công ty đó, được gọi là giá chuyển nội bộ (Transfer
Prices). Chính sách định giá chuyển nội bộ quốc tế về nghĩa rộng thì nó cũng giống như chính sách định giá
chuyển nội bộ trong nước. Tuy nhiên, khi xem xét kỹ thì người ta nhận thấy rằng các chi tiết trong việc định
giá chuyển giao quốc tế phức tạp hơn nhiều đối với trong nước và tiến trình ra quyết định cũng bị ảnh hưởng
bởi nhiều yếu tố quan trọng.
1. Phân quyền và các trung tâm lợi nhuận (Decentralization and Profit Centers) Top
Trước hết cần phải làm rõ nhu cầu của việc định giá chuyển giao chỉ xuất hiện khi công ty phân cấp quản lý,
giao quyền hạn và trách nhiệm làm cho mỗi đơn vị phải hạch toán về lợi nhuận từ kết quả hoạt động kinh
doanh. Những lý do phân quyền như vậy có thể do yêu cầu của luật pháp hoặc công tác quản lý. Các luật lệ
liên quan đến các tổ chức của công ty, thuế khóa và các vấn đề khác cần được thực hiện đối với đơn vị cơ sở
, các phòng ban của công ty trong việc được phân công hoạt động một cách độc lập. Theo các điều kiện như
vậy, các chứng từ về tài chính của đơn vị phải được giữ y như của công ty xuất khẩu. Công ty như là một
trung tâm lợi nhuận. Nếu không vì lý do đó thì việc định giá chuyển nội bộ để đáp ứng theo yêu cầu của các
cơ quan thuế trong nước và ngoài nước.
Thực ra, việc định giá chuyển nội bộ được xem xét chủ yếu như là một phương tiện để kiểm tra việc thực
hiện của các phòng ban và điều phối các dòng lợi nhuận và tiền bạc đối với các công ty con ở nước ngoài.
Tuy nhiên, có một bằng chứng vững chắc rằng việc định giá chuyển nội bộ kể cả việc định giá chuyển nội bộ
ra nước ngoài có thể được áp dụng cho quyết định tiếp thị. Ðịnh giá chuyển nội bộ có tầm quan trọng lớn cho
việc giúp các giám đốc tiếp thị đạt được các mục tiêu chiến lược trong việc làm thay đổi môi trường quốc tế.
2. Ðịnh giá chuyển nội bộ đối với các vệ tinh ở nước ngoài mà công ty sở hữu hoàn
toàn (Transfer Pricing to Wholly owned Foreign Subsidiaries)
Top
Ðối với các vệ tinh công ty xuất khẩu sở hữu hoàn toàn thì các yếu tố như khoảng cách địa lý, chi phí thông
tin liên lạc và sự phân quyền đối với từng cấp địa phương làm phức tạp quá trình định giá chuyển nội bộ xuất
khẩu và hàng loạt phức tạp do thuế quan, quy định của chính phủ cũng ảnh hưởng đến sự quyết định. Vì các
điều kiện thị trường và cạnh tranh rất khác nhau giữa các nước, thật là khó khăn để phát triển một chính sách
có thể áp dụng một cách đồng nhất.
Trong trường hợp nơi mà công ty sở hữu 100% thì công ty có toàn quyền để quyết định ai sẽ kiểm tra việc
thiết lập giá chuyển nội bộ, VD: Ban Giám Ðốc công ty, các đơn vị bán hàng, các đối thủ cạnh tranh (bằng
giá thị trường ) đơn vị mua hàng hoặc một sự kết hợp nào đó. Nhân tố quyết định ai sẽ định giá chuyển nội
bộ và phương pháp được áp dụng lệ thuộc một phần nào các yêu cầu của công ty đối với chi phí và thông tin
về lợi nhuận.
Một cách tiêu biểu, thông tin này được sử dụng cho các quyết định để làm hay mua. Việc ra quyết định cho
giá cả của sản phẩm cuối cùng, quyết định thêm vào hay rút đi các sản phẩm, và quyết định cho kinh phí của
chi phí đầu tư.
Vấn đề định giá chuyển nội bộ có hai phạm vi:
(1) Nên được định như thế nào.
(2) Ai sẽ định giá chuyển nội bộ.
Những câu hỏi này có sự liên quan với nhau vì bất cứ ai định giá sẽ có một ảnh hưởng nhất định đến sự quyết
định những yếu tố của nó để cân nhắc và có trọng lượng tương đối để đưa ra cho mỗi yếu tố.
2.1 Giá chuyển nội bộ nên được định như thế nào?
(How should transfer prices to be set?)
Một số phương pháp định giá chuyển nội bộ đã được thử và kiểm tra bởi các công ty có các quy mô và dãy
sản phẩm khác nhau. Ngoài kinh nghiệm này còn có một số hướng dẫn. Tuy nhiên, vẫn chưa có một sự thống
nhất chung là phương pháp định gía nào là tốt nhất, không có phương pháp nào là tốt nhất cho mọi hoàn cảnh
vì phương pháp tốt nhất cho một công ty tùy thuộc vào các đặc điểm của công ty và mục đích của giá cả
được chuyển đi. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc định giá chuyển nội bộ rơi vào ba loại tổng quát sau:
· Giá thị trường cạnh tranh kể cả giá danh sách và giá mua của đối thủ cạnh tranh.
· Chi phí: bao gồm chi phí sản xuất, chi phí bộ máy phân phối, thuế quan trong và ngoài nước và thuế thu
nhập của công ty.
· Hạn chế về luật pháp: bao gồm các chính sách chính trị, việc kiểm tra của chính phủ và các luât nước ngoài
chống lại các việc thực hành như sự phân biệt giá và phá giá.
Ðặc biệt hơn nữa, một sự nghiên cứu ở các tổng công ty đa quốc gia của Mỹ đã chỉ ra rằng các điều kiện thị
trường và sự cạnh tranh ở nước ngoài là hai nhân tố ảnh hưởng quan trọng nhất đối với giá chuyển nội bộ cho
xuất khẩu. Nếu mục đích của việc định giá chuyển nội bộ là để cung cấp các dữ kiện về lợi nhuận như vậy nó
là sự cần thiết để có thể xác định được tình hình lợi nhuận một cách chính xác. Những quyết định như vậy
phải được thực hiện trên cơ sở các tỷ lệ được chọn lựa để thu hồi lợi nhuận từ sự đầu tư. Tuy ngắn hạn cũng
như dài hạn chi phí cơ hội cũng phải được xem xét. Như vậy, cơ sở của việc xem xét này nên đặt giá chuyển
nội bộ trên giá thị trường cạnh tranh hoặc sự phỏng đoán tốt nhất về giá thị trường và yêu cầu đơn vị mua
hàng phải mua với giá nội bộ. Theo chính sách này, nếu đơn vị bán hàng có chi phí quá cao, lợi nhuận của nó
sẽ chịu đựng và việc quản lý của phân bộ sẽ nhanh chóng điều chỉnh tình hình hoặc phải đương đầu với Ban
quản trị công ty với một hồ sơ lợi nhuận quá yếu kém.
Nếu mục đích của giá chuyển nội bộ là để giúp Ban quản trị trong việc định giá sàn hoặc giá của các sản
phẩm cuối cùng hoặc giả như mục đích là để chuyển dịch lợi nhuận cho một Ban điều hành ở nước ngoài,
việc sử dụng chi phí đáng được thực hiện như là một phương tiện mang tính quyết định đối với giá chuyển
nội bộ. Có những quan niệm về chi phí có liên quan khác nhau để xem xét. Trong ngắn hạn chi phí biên tế có
thể là một sự liên quan tối thiểu. Vì mỗi số lượng chi phí vượt quá như vậy sẽ tạo ra ảnh hưởng trực tiếp đến
lợi nhuận thuần. Về dài hạn, chi phí đầy đủ hoặc chi phí chuẩn có thể gần hơn với sự tối thiểu lý tưởng nó sẽ
giúp Ban quản trị quyết định nên hay không nên nguồn lực của công ty được sử dụng để tạo lợi nhuận tối đa
và nếu không, để điều chỉnh tình hình.
Theo quan điểm của các viên chức quan thuế nước ngoài (nhằm mục đích định giá hàng hóa và áp giá thuế
quan) cũng rất quan trọng. Ðể giảm thiểu tối đa thuế quan, thường nên xem xét cách định giá càng sát với chi
phí càng tốt. Tuy nhiên ở một số nước đòi hỏi việc định thuế quan là “Giá thị trường công bằng” hoặc có
quan niệm về giá cả liên quan đến giá thị trường của danh mục hàng hóa ở quốc gia xuất khẩu.
Các quy định về thuế của nước ngoài và trong nước và sự bắt buộc của họ cũng ảnh hưởng đến chi phí như là
những nền tảng của giá cả. Tỷ lệ thuế khác nhau giữa các nước, khi thuế thu nhập công ty ở nước nhà cao
hơn tỷ lệ thuế ở nước mà công ty con đang đóng, phương pháp thực hiện là định giá chuyển đi sát với chi phí
theo mức được phép. Tuy nhiên, cơ quan thuế lợi tức có thể chống đối việc sử dụng thuế như là một tiêu
chuẩn cho việc định giá chuyển nội bộ. Vả lại, luật chống phá giá được áp dụng chỉ hạn chế sự tự do của
người bán trong việc định giá dựa trên chi phí.
Việc định giá chuyển nội bộ cộng thêm chi phí có nhiều nhược điểm là không thể định giá để đảm bảo lợi
nhuận tối đa, nếu nó là mục tiêu. Giá cả được định theo cách này có thể không tạo ra sự khuyến khích một
cách đầy đủ đối với bộ phận sản xuất để chi phí giảm thiểu tối đa. Tuy nhiên, chi phí tiêu chuẩn có thể được
thỏa mãn như là một cơ sở cho giá cả chuyển nội bộ cộng thêm chi phí nếu tiêu chuẩn là chính xác.
Phương pháp định giá chuyển nội bộ sử dụng cả giá chi phí và giá thị trường cạnh tranh có thể cho phép hoàn
hảo các mục tiêu mong ước không phải gánh chịu những nhược điểm mà mỗi phương pháp được áp dụng
riêng lẻ. VD: một hệ thống có thể được xây dựng nơi đó giá chuyển nội bộ thì định giá ở chi phí, nhưng đơn
vị bán hàng thì được hưởng tín dụng với một phần trăm nhất định của lợi nhuận thuần kết quả từ mọi tiến
trình xa hơn và sự bán hàng sau cùng. Một hệ thống như vậy có thể được áp dụng để giảm thiểu thuế và thuế
quan ở cùng một lúc tạo ra các dữ liệu lợi nhuận.
Có một sự cần thiết là phải có một mức độ linh hoạt trong quá trình thành lập giá chuyển nội bộ được duy trì.
Nếu sự linh hoạt được duy trì và nếu lợi nhuận của đơn vị bán và mua hàng cũng như toàn thể công ty đáng
được xem xét. Một hệ thống thương lượng hay trả giá là cần thiết.
Việc thương lượng cũng có một số nhược điểm. Việc thảo luận có thể kéo dài và chán nản. Các sự thương
lượng này có thể tạo ra sự cải vả mất đoàn kết giữa các phòng ban. Mặc dù sự thương lượng và thỏa thuận
phải được xem xét trong một thời hạn, lượng thời gian bỏ ra cho sự thương lượng có thể bị giữ trong những
giới hạn chấp nhận được. Có lẽ, nhược điểm lớn nhất của việc thương lượng, ở một phương diện khác là xảy
ra sự tranh chấp khiếu nại. Nếu việc khiếu nại được giải quyết trên cơ sở bởi sức mạnh cá nhân hoặc vị thế
quyền lực ở trong công ty, mối quan hệ nội bộ, hợp tác lành mạnh của công ty có thể bị hủy diệt. Nếu giá
chuyển nội bộ được áp đặt trên các nhà quản trị, có cũng có thể làm cản ngại sự trưởng thành về lợi ích vật
chất và tinh thần.
Ðiều đáng được mong ước của mỗi hệ thống định giá chuyển nội bộ có liên quan đến các đặc điểm của công
ty và các sản phẩm mà công ty bán. Một công ty tương đối nhỏ với chỉ vài đơn vị điều hành ở nước ngoài,
việc thu nhận thêm nhân viên bởi các nhà quản lý, người này biết rất rành về những người khác thường có
thể điều hành khá linh hoạt hơn là ở công ty lớn. Quy mô của công ty cũng liên quan đến một số và kiểu sản
phẩm ở trong hệ sản phẩm của công ty. Vì giá chuyển nội bộ của các sán phẩm khác nhau có thể nên được
định bởi các phương pháp khác nhau. Tình hình này các công ty lớn phải đối đầu một cách phức tạp.
Có một tác giả, công nhận tình hình này, cách đây đã lâu, đã giới thiệu các phương pháp định giá chuyển nội
bộ được thiết lập bằng cách phân loại sản phẩm thành ba nhóm:
1. Loại A: gồm những sản phẩm mà có lẽ nó chưa từng được sản xuất bởi các nhà cung cấp bên ngoài công
ty bởi vì sản phẩm không sẵn có, sự bí mật được giữ hoặc chất lượng được duy trì vì nó chỉ được sản xuất
trong nội bộ công ty.
2. Loại B: gồm những sản phẩm từ khi đặt hàng đến khi sản xuất phải mất một thời gian dài và đòi hỏi một
chi phí đầu tư đáng kể. VD: sản xuất các bộ phận của xe auto hoặc xe gắn máy.
3. Loại C: bao gồm những sản phẩm mà người sản xuất có thể thay đổi trong một thời gian ngắn.
Tác giả này tiếp tục giới thiệu rằng:
1. Giá chuyển nội bộ cho sản phẩm loại A nên đặt ở mức độ cạnh tranh dài hạn, ngay cả một sự phỏng chừng
tương đối cho loại giá cả như vậy có thể được thực hiện.
2. Giá chuyển nội bộ cho sản phẩm loại B nên đặt ở mức cạnh tranh dài hạn và được điều chỉnh cho ngắn hạn
bất thường.
3. Việc định giá chuyển nội bộ cho sản phẩm loại C nên được đặt ở mức cạnh tranh hiện hành.
Nói chung, hầu hết các người có thẩm quyền về việc định giá chuyển nội bộ cảm thấy rằng nếu tài liệu lợi
nhuận từ các trung tâm lợi nhuận được sử dụng để hoàn thiện các mục tiêu quản lý, chính sách định giá phải
nhắm đến việc định giá cả chuyển nội bộ cạnh tranh là luật thuế. Một lý do khác cho việc sử dụng giá cả
chuyển nội bộ cạnh tranh là luật thuế thường được đặt ra để ngăn chặn việc di chuyển quyền tài phán vì lợi
tức trong số các đơn vị dựa thế của công ty để trốn thuế. Một cuộc kiểm tra quan trọng dường như việc giá
chuyển nội bộ thì hợp lý hơn thay vì tài phán. Một trong những bằng chứng mạnh mẽ nhất rằng giá cả thì
công bằng và hợp lý là giá không chỉ dựa vào giá thị trường mà nó được thiết lập liên quan đến mối quan hệ
ở chiều dài của những cánh tay, yêu cầu chiều dài của những cánh tay cũng là một lập luận mạnh mẽ ủng hộ
việc cho phép giá cả được thiết lập bởi sự trả giá giữa các đơn vị mua bán với đơn vị mua có toàn quyền mua
bên ngoài nếu họ muốn.
Vì giá cả cạnh tranh có thể khác nhau giữa các thị trường một công ty lấy giá chuyển nội bộ dựa trên cơ sở
các điều kiện cạnh tranh ở mỗi thị trường có thể phải đặt nhiều giá khác nhau cho mỗi thị trường. Một cách
tâp hợp định giá như vậy không chỉ phức tạp tốn kém đối với nhà quản lý mà sự bất hòa có thể xuất hiện giữa
các đơn vị của công ty. Vả lại, cơ quan thuế lợi tức trong nước và ngoài nước có thể chống đối nếu họ cảm
thấy rằng giá chuyển nội bộ khác nhau có thể tạo ra sự di chuyển lợi nhuận từ một nước này sang một nước
khác và do đó ảnh hưởng đến lợi tức chịu thuế.
Một cuộc kiểm tra gọi là mục đích kinh doanh yêu cầu rằng nơi đó có mục đích quản trị chứng minh được
cho việc áp dụng một phương pháp riêng cho việc định giá chuyển nội bộ. Nơi nào có những phương pháp
khác nhau nhưng thỏa mãn cân bằng của việc định giá chuyển nội bộ có sẵn, xí nghiệp kinh doanh không bị
ngăn ngừa từ sự chọn lựa phương pháp mà đối với họ có lợi về thuế. Tuy nhiên, nói chung, mục đích kinh
doanh phải tối cao. Như vậy, dường như phương pháp định giá chuyển nội bộ sẽ được chính phủ chấp nhận
nếu phương pháp này đáp ứng được chiều dài của những cánh tay hoặc kiểm tra mục đích kinh doanh và
không phải là mục đích tránh thuế.
2.2 Ai sẽ định giá chuyển nội bộ
(Who should set transfer prices?)
Quyền lực định giá chuyển nội bộ có thể được duy trì bởi Ban quản lý công ty hoặc đại biểu đối với đơn vị
mua hoặc đơn vị bán. Một sự thỏa hiệp có thể cho phép đơn vị bán định giá nhưng cũng cho phép đơn vị mua
mua ngoài nếu họ muốn. Hoặc Ban quản lý có thể để cho các bộ phận bán và mua nên thương lượng với
nhau về giá chuyển nội bộ. Khi điều này là một chính sách Ban quản lý công ty chỉ tham gia vào các cuộc
thương lượng khi có sự tranh chấp xảy ra.
3. Việc định giá chuyển nội bộ đối với các xí nghiệp mà công ty có một phần sở hữu Top
(Transfer pricing to partially owned foreign enterprices)
Tương đối phổ biến cho các công ty có một phần quyền lợi ở việc điều hành nước ngoài trong việc đối tác
với công ty ở nước ngoài hoặc xí nghiệp khác đóng cùng quốc gia nhà. Khi việc nắm giữ quyền lợi một phần
hoặc trong trường hợp liên doanh, ngườøi bán không thể độc quyền giá cả đối với việc chuyển giá nội bộ.
Bản chất độc lập của nguời mua yêu cầu giá cả phải được định theo quyền lợi của các chủ sở hữu khác hoặc
các đối tác trong liên doanh.
Việc định giá chuyển nội bộ đối với ban điều hành ở nước ngoài mà công ty không sở hữu hoàn toàn liên
quan đến một số sự xem xét thêm, mà sự xem xét này có liên quan đến việc định giá cho các công ty con mà
nhà xuất khẩu sở hữu hoàn toàn. Có rất ít lý do để định giá chuyển nội bộ càng sát với chi phí càng tốt bởi vì
sự chuyển dịch lợi nhuận ra nước ngoài có nghĩa là đối tác sẽ chia xẻ trong đó. Tương tự, cũng không hợp lý
nếu việc chuyển đi được thực hiện ở nước ngoài cao hơn giá thị trường có cạnh tranh. Trong thực tế, ở đó có
thể có một phần áp lực của đối tác nước ngoài để giá chuyển nội bộ phải thấp hơn giá thị trường bên ngoài.
Tiến trình định giá chuyển nội bộ trong hoàn cảnh như vậy thì giống như tiến trình định giá đối với đối tác
thứ ba. Cách thực hành thông thường thì dường như giống cuộc đàm phán chiều dài của cánh tay với điều
kiện người mua có toàn quyền mua bên ngoài.
Tuy nhiên, nếu liên doanh được thành lập cho một mục đích đặc biệt, có lẽ để sản xuất một số sản phẩm
không có sẵn ở đâu đó, giá chuyển nội bộ có thể được định trên cơ sở các yếu tố thêm vào và sẵn sàng để
thảo luận. VD: mục đích của liên doanh là được thâm nhập bởi hai bên. Như vậy, mọi lợi nhuận mà xí nghiệp
thu được sẽ được chia là, hai phần tương đương cho hai cổ đông hoặc giữ lại cho hoạt động kinh doanh.
Hoặc mỗi bên đều nhận được 50% sản phẩm sản xuất ra, cả hai xí nghiệp đều có lợi tương đương với
nhau.Theo những điều kiện như vậy, cách điều hành hay nhất đối với nhà máy là lấy cơ sở điểm hòa vốn. Giá
cả được tính cho hai khách hàng của nhà mày có thể tính cao một cách vừa phải để bù đắp chi phí. Tuy
nhiên, nếu một trong hai đối tác nhận phần nhiều hơn của sản phẩm của liên doanh, đối tác này sẽ hưởng lợi
nhiều hơn đối tác kia.
Nếu sản phẩm của liên doanh yêu cầu các bộ phận được sản xuất bởi một trong các đối tác, tình hình trở nên
phức tạp hơn nhiều. Nói chung, theo hoàn cảnh này, đối tác bán bộ phận cho liên doanh rất muốn định giá
cao, đối tác kia muốn định giá thấp.
Không có sự hướng dẫn chung để hướng dẫn các bên trong việc định giá chuyển nội bộ trong một tình hình
như vậy. Việc thực hành thông thường đối với các bên trong bối cảnh của một liên doanh như vậy là:
· Tính số lượng bộ phận được cung cấp bởi một hoặc cả hai bên.
· Phỏng chừng phần sản lượng của liên doanh để chia cho mỗi bên.
· Xem xét đến các yếu tố thuế quan và thuế.
· Ðàm phán một hợp đồng có nội dung theo một công thức cụ thể cho việc tính toán giá chuyển nội bộ.
Tóm tắt:
Chương này xem xét việc định giá xuất khẩu. Vấn đề chủ yếu được đưa ra bao gồm các nhân tố ảnh hưởng
giá cả, chiến lược định giá, giá xuất khẩu và giá nội địa có liên quan như thế nào, các yếu tố của việc chào
giá và định giá chuyển nội bộ. Mặc dù các vấn đề định giá xuất khẩu có nhiều cách giống như việc xem xét
giá nội địa, có các yếu tố, chỉ riêng đối với tiếp thị ngoại thương mới gặp phải; các nhà xuất khẩu phải đối
phó với nhiều vấn đề phức tạp hơn khi số lượng thị trường mà họ thâm nhập nhiều hơn ( và các thị trường
này thường trái ngược nhau).
CHƯƠNG VI:
THÔNG TIN & XÚC TIẾN MARKETING XUẤT KHẨU
(Export Marketing Promotion and Communication)
XVIII. KHÁI NIỆM
XIX. CÁC QUYẾT ĐỊNH THÔNG TIN VÀ XÚC TIẾN XUẤT KHẨU
1. Chiến lược kéo và đẩy
2. Quyết định thông tin
3. Quyết định biểu tượng
XX. CÁC KỸ THUẬT XÚC TIẾN
1. Chào hàng
2. Khuyến mãi
3. Mối quan hệ công chúng
4. Quảng cáo
5. Nhận xét chung
XXI. CHIẾN LƯỢC VÀ CHƯƠNG TRÌNH XÚC TIẾN
I. KHÁI NIỆM Top
Thông tin đóng một vai trò rất quan trọng trong marketing xuất khẩu mặc dù thông tin không tạo ra được sản
phẩm hay dịch vụ nhưng nó rất cần thiết trong việc cung cấp những tin tức để giúp cho khách hàng đưa ra
quyết định mua hàng.
Thông tin trong marketing xuất khẩu là một loại thông tin xuyên văn hóa, giữa những người ở một nền văn
hóa này và những người ở một nền văn hóa khác. Thông thường nền văn hóa của một nước này sẽ khác với
nền văn hóa của một nước khác, và đôi khi trong một nước lại có sự khác biệt với nhau về văn hóa. VD: Ấn
Ðộ, Trung Quốc.
Hoặc các khúc thị trường của các nước khác nhau về văn hóa.
VD: - Sở thích của giới trẻ ở các nước Châu Aâu về xe môtô hay âm nhạc
lại giống nhau.
- Văn hóa gia đình truyền thống của một số nước Trung Quốc, Việt
Nam, Hàn Quốc lại tương tự nhau.
Xúc tiến marketing xuất khẩu là làm thế nào chuyển được các thông tin từ nhà xuất khẩu đến khách hàng ở
nước ngoài, vượt qua được các rào cản do sự khác biệt về văn hóa như: sự khác nhau về ngôn ngữ, quy định
của chính phủ, phương tiện truyền thông đại chúng ...
II. CÁC QUYẾT ÐỊNH THÔNG TIN VÀ XÚC TIẾN XUẤT KHẨU Top
Trong marketing xuất nhập khẩu, doanh nghiệp xuất khẩu phải đưa ra quyết định trong hoạt động xúc tiến có
liên quan đến các vấn đề sau:
· Các loại thông tin nào cần được chuyển tới khách hàng?
· Chọn lựa phương tiện truyền thông nào?
· Chi phí và nổ lực dành cho hoạt động này là bao nhiêu?
Muốn đưa ra các quyết định trên nhà tiếp thị xuất nhập khẩu phải xem xét nhiều loại hình xúc tiến khác nhau:
· Chào hàng (personal selling)
· Quảng cáo (advertising)
· Khuyến mãi (sales promotion): bao gồm tất cả những hoạt động nhằm bổ sung và hỗ trợ cho việc chào hàng
và quảng cáo. Các hoạt động này thường không lặp lại và có từng đợt ngắn hạn khác nhau.
· Mối quan hệ công chúng (publicity): bao gồm tất cả những thông tin về công ty hoặc sản phẩm của công ty
được truyền đạt bởi một số cơ quan truyền thông và công ty không phải trả tiền quảng cáo (về lý thuyết)
Như vậy quảng cáo chỉ là một trong những bộ phận của thông tin hay xúc tiến.
Vấn đề quan trọng là các hoạt động xúc tiến hỗn hợp, được áp dụng để nhấn mạnh lên chiến lược kéo (pull)
hoặc đẩy (push)
1. Chiến lược kéo & đẩy: Top
Chiến lược kéo: quảng cáo và giới thiệu nhiều về sản phẩm, tạo cho khách hàng có nhu cầu và muốn mua sản
phẩm trước khi sản phẩm được đưa ra thị trường.
VD: Gà rán Kentucky.
Chiến lược đẩy: Hàng hóa được đưa ra các kênh phân phối, đến tận các điểm bán lẻ trong khi khách hàng
chưa hiểu biết nhiều về sản phẩm, khách hàng phải dựa vào sự hướng dẫn, giới thiệu của nhân viên bán hàng
trước khi đưa ra quyết định mua.
Việc chọn chiến lược đẩy hay kéo hoặc kết hợp cả hai tuỳ thuộc vào điều kiện của thị trường, sản phẩm và
khả năng của doanh nghiệp xuất khẩu.
VD: - Xúc tiến bán quý kim ở Thái Lan.
- Rượu Henessy ở Việt Nam kéo mà không đẩy
2. Quyết định thông tin : Top
Nhà xuất khẩu thông tin đến thị trường mục tiêu là để cung cấp những tin tức về sản phẩm đối với khách
hàng tiềm năng, thuyết phục họ trở thành những người mua hàng, phát triển thái độ tích cực của họ đối với
sản phẩm và tạo ra sự thay đổi về suy nghĩ của họ đối với sản phẩm theo hướng có lợi cho nhà xuất khẩu.
Các khó khăn để làm cho sự thông tin có hiệu quả là nhà xuất khẩu phải thông tin với các quốc gia có những
kiểu mẫu về hành vi thái độ giá trị được phát triển từ các nền văn hóa khác nhau.
Vấn đề trở ngại không những ở lới nói hay chữ viết mà còn thể hiện ở các vấn đề không thể nói ra được như:
kiểu cách ăn mặc, việc định thời gian để tiếp xúc, các cử chỉ, việc sử dụng không gian khi tiếp cận khách
hàng ... Vấn đề quan trọng của một nhà xuất khẩu A đối với một khách hàng B là phải biết đặt mình vào vị trí
của người khách hàng tạo ra một sự hiểu biết và thông cảm lẫn nhau.
3. Quyết định biểu tượng: Top
Biểu tượng có vai trò quan trọng trong việc thiết lập mối thiện cảm của khách hàng tiềm năng:
· Màu sắc là một loại biểu tượng nhìn thấy được.
· Những hình ảnh người hoặc vật
(A beast is a beast and a man is a man - Allah say so)
VD: - Deer: tiếng lóng ở Brazil từ này được hiểu là đồng tính luyến ái
- Owl: là biểu tượng của điềm xấu.
· Cách bố trí quảng cáo.
Người Mỹ thích được nhìn thấy sản phẩm với các thành phần, yếu tố tính năng của nó trong khi người Pháp
thích thấy biểu tượng và ý nghĩa của sản phẩm.
III. CÁC KỸ THUẬT XÚC TIẾN
1. Chào hàng (personnal selling) Top
Việc chào hàng là công tác tiếp thị thông qua con người. Việc thành công hay thất bại tùy thuộc vào công tác
chuẩn bị nhân sự. Ðối với Nhật Bản thì phương pháp chào hàng được dựa rất nhiều vào các tài liệu và dữ
kiện. Người đại diện bán hàng luôn mang theo mình các tài liệu đó để trả lời một cách thông suốt các câu hỏi
của khách hàng một cách nhanh chóng.
Hoạt động chào hàng phải đạt được một số yêu cầu căn bản:
+ Hoạt động bán hàng thực sự: cung cấp những thông tin về sản phẩm cho khách hàng và phải lấy được đơn
hàng.
+ Mối quan hệ với khách hàng: nhân viên bán hàng phải luôn quan tâm đến việc duy trì và cải thiện vị trí của
công ty với khách hàng và công chúng.
+ Thu thâp tin tức và cung cấp thông tin : nhân viên bán hàng thường có thể cung cấp những thông tin có ích
cho việc hoạch định các chương trình khuyến mãi và quảng cáo.
2. Khuyến mãi: Top
Những công cụ khuyến mãi như: catalog, hàng mẫu, film, slide film, hội chợ và triển lãm thương mại và các
tài liệu, công cụ tại điểm bán hàng, ...
· Catalog: các mục tiêu mà catalog cần phải đạt:
+ Tạo nên sự quan tâm và hấp dẫn người đọc như: màu sắc đẹp, in ấn tốt, nội dung dễ hiểu.
+ Mẫu hàng: để tạo điều kiện cho khách hàng hiểu rõ và tránh nhầm lẫn khi đặt hàng nhất là về kiểu, cỡ của
sản phẩm.
+ Ðối với các mẫu hàng nhỏ ít giá trị có thể gửi tặng cho khách hàng thông qua đường bưu điện, đại lý bán
hàng tại nước ngoài, chi nhánh và người chào hàng lưu động.
+ Ðối với sản phẩm có kích cỡ lớn, giá trị cao thì nhà xuất khẩu có thể thành lập các Showroom, Trade Show
và các cuộc triển lãm, hội chợ để trưng bày.
· Tạp chí của công ty (company published magazine)
Do công ty tự biên tập và ấn hành để thông tin về các hoạt động của công ty cho nội bộ và khách hàng biết
như: sự thành công của các đại lý, nhà phân phối, các ý tưởng tiếp thị, tin của công ty, kết quả cuộc thi có
thưởng, khen thưởng nhân viên và các thông tin về sản phẩm của công ty ...
· Phim, slide và máy vi tính:
+ Phim và băng vidéo dùng để giới thiệu công ty và sản phẩm của công ty đối với khách hàng, các đại lý, các
nhà phân phối.
+ Slide: ít tốn kém hơn nhưng không gây ấn tượng bằng.
+ Máy vi tính: công ty nên đặt sẵn phần mềm để cung cấp dữ liệu và báo cáo cũng như mối quan hệ thông tin
qua lại giữa công ty và các nhà phân phối, đại lý.
· Seminas thông báo tuyển dụng.
· Hội chợ thương mại và triển lãm (Trade fairs and Exhibitions)
+ Hội chợ thương mại dùng để mua bán sản phẩm, ký kết hợp đồng, tạo mối quan hệ giữa công ty và các nhà
phân phối, đại lý. Hội chợ thương mại không những để chứng minh một công ty được tổ chức tốt - nhằm tạo
uy tín, hình ảnh tốt đẹp đối với công chúng, giới thiệu sản phẩm - mà còn cung cấp sản phẩm cho khách hàng
với giá chuẩn của nó.
+ Trong hội chợ thương mại nhà xuất khẩu triển lãm sản phẩm của mình.
3. Mối quan hệ công chúng : (Publicity) Top
Là tạo một hình ảnh tốt đẹp của toàn bộ hoạt động và sản phẩm của công ty thông qua báo chí và các hoạt
động khác mà theo lý thuyết là công ty không phải trả tiền quảng cáo.
4. Quảng cáo: Top
Chi phí cho quảng cáo ở Việt Nam:
1992: 8,1 triệu USD 1993: 12 triệu USD
1994: 70 triệu USD 1995: 141 triệu USD
1996: 271 triệu USD (Nguồn tin: Báo Tuổi Trẻ 11/12/1997)
Khi tiến hành một chương trình quảng cáo, quản trị viên marketing cần tiến hành năm quyết định chủ yếu
sau: (5M)
- Mission : Mục tiêu quảng cáo là gì?
- Money : Chi phí là bao nhiêu?
- Message : Lời truyền đạt cần phải gởi (( AIDA
- Media : Phương tiện kênh thông tin nào sử dụng?
- Measurement : Kết quả được định giá bằng cách nào?
4.1 Không khí quảng cáo: (climate for advertising)
Không khí quảng cáo tốt nhất nên được đánh giá thông qua việc xem xét các yếu tố có liên quan đến kinh tế,
xã hội, văn hóa, thái độ của công chúng và pháp luật.
· Các nhân tố kinh tế, xã hội và văn hóa:
+ Hệ thống kinh tế (Economic system): nền kinh tế thị trường thuận lợi cho việc quảng cáo hơn là nền kinh tế
tập trung. Tuy nhiên, ngay cả trong nền kinh tế tập trung, người ta cũng có thể sử dụng quảng cáo để điều
chỉnh nhu cầu đối với kế hoạch sản xuất.
+ Cấu trúc xã hội (social structure) : cấu trúc xã hội hiện đại dễ chấp nhận quảng cáo hơn đối với xã hội thiên
về truyền thống.
+ Nền tảng văn hóa: (Cultural background): ngay cả trong các xã hội hiện đại cũng có sự nhìn nhận và thái
độ khác nhau về quảng cáo. Có nước thiên về cá nhân chủ nghĩa, có nước thiên về cộng đồng. Dường như
nền văn hóa thiên về cộng đồng dễ chấp nhận quảng cáo hơn.
+ Không khí tôn giáo (Religious climate): các nước lấy tôn giáo làm quốc đạo thường phản ứng tiêu cực đối
với quảng cáo hơn là các nước không bị ảnh hưởng quá năng nề bởi tôn giáo.
· Các nhân tố luật pháp và chính trị:
+ Ðộc quyền quốc gia: có một số nước sở hữu và điều hành hoàn toàn hoặc một phần các phương tiện truyền
thông đặc biệt đối với phát thanh và truyền hình.
+ Kiểm duyệt (censorship): có một số nước kiểm duyệt rất gắt gao đối với nội dung và hình thức quảng cáo.
+ Hạn chế quảng cáo (restriction on advertising):
- Sự hạn chế có thể hoàn toàn hoặc một phần và có thể ảnh hưởng đến hoàn toàn các phương tiện truyền
thông đại chúng hoặc có sự cho phép hạn chế.
- Có thể có sự hạn chế ở một số sản phẩm như: rượu, bia, thuốc lá ...
- Có nước hạn chế thời lượng quảng cáo.
- Có nước cấm so sánh hơn hoặc so sánh cao nhất.
- Có nước quy định quảng cáo phải nói đúng sự thật.
4.2 Phương tiện truyền thông quốc tế : ít tốn kém hơn phải quảng cáo tại mỗi nước sở tại.
VD: Ðức / Áo; Mỹ / Canada
Tạp chí, báo chí chuyên ngành.
4.3 Truyền thông tại nước ngoài (foreign media)
- Báo chí , tạp chí.
- Bảng hiệu, poster, car card : áp dụng ở những nước có thu nhập thấp.
- Radio.
- TV.
- Thư trực tiếp.
- Ở rạp chiếu phim.
- Ða truyền thông.
4.4 Nội dung quảng cáo:
Cần dựa theo nguyên tắc AIDA
A: get Attention (lôi cuốn sự chú ý)
I : hold Interest (làm cho thích thú)
D: create Desire (tạo sự ham muốn)
A: lead to Action (dẫn đến hành động mua hàng)
5. Nhận xét chung: Top
· Chào hàng cá nhân: là biện pháp có hiệu quả cao nhất, nhưng cũng tốn kém chi phí nhất, nhân viên chào
hàng phải luôn xa nhà cho những quảng thời gian dài nhất định.
· Hội chợ thương mại: có rất nhiều thuận lợi.
· Quan hệ công chúng: việc quan trọng nhất là tạo được sự tín nhiệm, ngoài ra cần có hình thức tài trợ cho
các cuộc thi đấu thể thao chẳng hạn.
· Ðối với hàng tiêu dùng thì nên tạo ra sự chấp nhận nhãn hiệu ở thị trường mục tiêu một các rộng rãi.
· Ðối với sản phẩm công nghiệp thì việc chào hàng cá nhân là biện pháp tốt nhất.
IV. CHIẾN LƯỢC VÀ CHƯƠNG TRÌNH XÚC TIẾN Top
Mục tiêu cần đạt là:
· Thuyết phục khách hàng về chất lượng sản phẩm.
· Mô tả và giới thiệu tính hiệu quả của sản phẩm trong việc thỏa mãn một nhu cầu cụ thể.
· Tạo ra hình ảnh tốt đẹp của công ty như là một nhà cung cấp đáng tin cậy.
Việc hoạch định chiến lược xúc tiến sản phẩm liên quan đến các vấn đề.
· Ðặt ra mục tiêu xúc tiến.
· Quyết định loại hình quảng cáo và thông tin xúc tiến; chọn lựa phương tiện thông tin.
· Ấn định các khoản thời gian, nổ lực và tiền bạc đầu tư cho kế hoạch xúc tin
CHƯƠNG VII:
PHƯƠNG PHÁP XUẤT KHẨU
& HỆ THỐNG PHÂN PHỐI HÀNG HÓA
(Export Method and Distribution System)
XXII. XUT KHU GIÁN TIP
XXIII. XUT KHU TRC TIP
1. Ci t c cu t chc có th phc v xut khu
2. H thng phân phi
XXIV. PHÂN PHI SN PHM XUT KHU CA VIT NAM
Phương pháp xuất khẩu thông thường nhất là bán gián tiếp và bán trực tiếp. Trong trường hợp bán gián tiếp
nhà xuất khẩu phải thông qua các tổ chức hoặc cá nhân để làm trung gian. Trong việc bán hàng trực tiếp, nhà
xuất khẩu phải làm ăn trực tiếp với một nhà nhập khẩu nước ngoài.
Ðể quyết định nên xuất khẩu trực tiếp hoặc gián tiếp, doanh nghiệp xuất khẩu cần phải xem xét một số yếu tố
như sau:
· Tầm vóc của công ty.
· Ðặc tính của sản phẩm do công ty làm ra.
· Kinh nghiệm về xuất khẩu đã qua và khả năng chuyên môn của công ty.
· Các điều kiện về kinh doanh tại các thị trường đã được tuyển chọn ở nước ngoài.
I. XUT KHU GIÁN TIP Top
Loại hình này giúp cho các công ty nhỏ có một phương thức để thâm nhập vào thị trường nước ngoài mà
không phải đương đầu với những rắc rối và rủi ro như trong xuất khẩu trực tiếp.
Nhà sản xuất có thể xuất khẩu gián tiếp thông qua các tổ chức hoặc cá nhân như sau:
· Công ty quản lý xuất khẩu.
· Khách hàng ngoại kiều.
· Nhà ủy thác xuất khẩu.
· Nhà môi giới xuất khẩu.
· Hãng buôn xuất khẩu.
II. XUT KHU TRC TIP Top
Thuận lợi: các lợi thế đối với một công ty trực tiếp xuất khẩu là kiểm soát được nhiều hơn tiến trình xuất
khẩu, có khả năng thu được nhiều lợi nhuận và nắm được một cách chặt chẽ hơn mối quan hệ với người mua
bên ngoài và thị trường liên quan.
Khó khăn: công ty mất nhiều thời gian, tốn nhiều nhân sự và sử dụng nhiều nguồn tài lực của công ty
hơn xuất khẩu gián tiếp.
Một nhà xuất khẩu trực tiếp thường tuyển chọn kỹ các thị trường mà họ muốn thâm nhập vào, chọn ra các hệ
thống phân phối riêng cho mỗi thị trường.
1. Ci t c cu t chc có th phc v xut khu: Top
· Công ty nên tách rờiviệc quản lý xuất khẩu ra khỏi việc quản lý kinh doanh trong nước, nhằm tập trung
được tài năng chuyên môn để đáp ứng nhu cầu đối phó với thị trường quốc tế và thứ hai là nổ lực tiếp thị
được tập trung sẽ dẫn đến kết quả là mức độ xuất khẩu sẽ tăng.
· Thông thường công ty sẽ lập ra một Phòng xuất nhập khẩu hoặc Phòng giao dịch quốc tế.
· Sự thành công của một công ty tại các thị trường nước ngoài tùy thuộc vào các phương pháp tiếp thị
nhiều hơn là chất lượng sản phẩm.
2. H thng phân phi: Top
Một khi công ty đã được tổ chức để phục vụ xuất khẩu thì cần phải lựa chọn hệ thống phân phối thích nghi
cho mỗi thị trường, các hệ thống này bao gồm các đại diện thương mại, các đại lý, các nhà phân phối, các
nhà bán lẻ và những người tiêu thụ sau cùng.
2.1 Văn phòng đại diện hoặc chi nhánh của công ty ở nước ngoài.
2.2 Ðại diện thương mại:
Một nhà đại diện thương mại thường phụ trách đại diện cho nhiều hệ thống thương mại hoặc sản xuất có thể
bổ sung cho nhau nhưng không cạnh tranh với nhau. Ðại diện thương mại thường hoạt động trên cơ sở được
hưởng hoa hồng, không gánh chịu rủi ro hoặc trách nhiệm. Ðại diện thương mại có thể làm việc trên cơ sở
độc quyền hoặc không độc quyền.
2.3 Ðại lý:
Thường là một người đại diện có nhiều quyền hạn và có thể được ủy nhiệm để hành xử mọi vấn đề thay mặt
công ty mà ông ta làm đại diện.
2.4 Nhà phân phối:
Là một nhà buôn mua hàng của nhà xuất khẩu với một giá có chiết khấu và bán lại hàng hóa đó để kiếm lời.
Nhà phân phối chuyên nghiệp thường phân phối một loạt nhiều sản phẩm có thể bổ sung cho nhau nhưng
không cạnh tranh lại với nhau.
2.5 Nhà bán lẻ nước ngoài:
Một công ty xuất khẩu cũng có thể bán hàng trực tiếp cho một nhà bán lẻ ở nước ngoài mặc dù trong các loại
thương vụ như thế, thì hệ thống người tiêu dùng nói chung thường bị giới hạn.
2.6 Bán hàng trực tiếp cho người sử dụng sau cùng:
Một công ty xuất khẩu có thể bán sản phẩm hoặc dịch vụ của mình trực tiếp cho người sử dụng hoặc tiêu
dùng sau cùng ở nước ngoài. Những người mua hàng trực tiếp này có thể là các chính phủ nước ngoài, các cơ
quan như bệnh viện, trường học hoặc các doanh nghiệp.
Thông thường mỗi sản phẩm bán ra nước ngoài phải kèm theo sự bảo đảm, bảo hành hoặc dịch vụ kèm theo
nhà xuất khẩu có thể tổ chức nhờ hệ thống phân phối của mình ở nước ngoài để thực hiện các dịch vụ trên.
III. PHÂN PHI SN PHM XUT KHU CA VIT NAM Top
Nhìn chung, tình hình xuất khẩu ở Việt Nam trong những năm qua như sau:
· Mạng lưới bạn hàng, khách hàng hẹp, nhiều trường hợp phải thông qua trung gian.
· Quy mô hoạt động còn hạn chế nên các công ty chưa có tham vọng hình thành một mạng lưới tiêu thụ ở
nước ngoài, việc tiêu thụ sản phẩm của công ty được xem như chấm dứt khi hàng rời khỏi Việt Nam.
Mặt khác, vì hoạt động đa dạng, đa ngành hàng nên phần lớn các công ty không thể đi vào chuyên sâu nhằm
phát huy sở trường của mình ở lãnh vực nhất định nào.
Bên cạnh đó, cơ sở vật chất kỹ thuật trang bị làm hàng xuất khẩu thiếu đồng bộ, lạc hậu, hệ thống kho
chuyên dùng để bảo quản, dự trữ còn quá kém... Những hạn chế này ảnh hưởng đến tổ chức phân phối hợp lý
hàng xuất khẩu đến các phân đoạn của thị trường .
CHƯƠNG VII:
PHƯƠNG PHÁP XUẤT KHẨU
& HỆ THỐNG PHÂN PHỐI HÀNG HÓA
(Export Method and Distribution System)
XUẤT KHẨU GIÁN TIẾP
XUẤT KHẨU TRỰC TIẾP
Cải tổ cơ cấu tổ chức để có thể phục vụ xuất khẩu
Hệ thống phân phối
PHÂN PHỐI SẢN PHẨM XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
--------------------------------------------------------------------------------
Phương pháp xuất khẩu thông thường nhất là bán gián tiếp và bán trực tiếp. Trong trường hợp bán gián tiếp
nhà xuất khẩu phải thông qua các tổ chức hoặc cá nhân để làm trung gian. Trong việc bán hàng trực tiếp, nhà
xuất khẩu phải làm ăn trực tiếp với một nhà nhập khẩu nước ngoài.
Ðể quyết định nên xuất khẩu trực tiếp hoặc gián tiếp, doanh nghiệp xuất khẩu cần phải xem xét một số yếu tố
như sau:
· Tầm vóc của công ty.
· Ðặc tính của sản phẩm do công ty làm ra.
· Kinh nghiệm về xuất khẩu đã qua và khả năng chuyên môn của công ty.
· Các điều kiện về kinh doanh tại các thị trường đã được tuyển chọn ở nước ngoài.
I. XUẤT KHẨU GIÁN TIẾP Top
Loại hình này giúp cho các công ty nhỏ có một phương thức để thâm nhập vào thị trường nước ngoài mà
không phải đương đầu với những rắc rối và rủi ro như trong xuất khẩu trực tiếp.
Nhà sản xuất có thể xuất khẩu gián tiếp thông qua các tổ chức hoặc cá nhân như sau:
· Công ty quản lý xuất khẩu.
· Khách hàng ngoại kiều.
· Nhà ủy thác xuất khẩu.
· Nhà môi giới xuất khẩu.
· Hãng buôn xuất khẩu.
II. XUẤT KHẨU TRỰC TIẾP Top
Thuận lợi: các lợi thế đối với một công ty trực tiếp xuất khẩu là kiểm soát được nhiều hơn tiến trình xuất
khẩu, có khả năng thu được nhiều lợi nhuận và nắm được một cách chặt chẽ hơn mối quan hệ với người mua
bên ngoài và thị trường liên quan.
Khó khăn: công ty mất nhiều thời gian, tốn nhiều nhân sự và sử dụng nhiều nguồn tài lực của công ty hơn
xuất khẩu gián tiếp.
Một nhà xuất khẩu trực tiếp thường tuyển chọn kỹ các thị trường mà họ muốn thâm nhập vào, chọn ra các hệ
thống phân phối riêng cho mỗi thị trường.
1. Cải tổ cơ cấu tổ chức để có thể phục vụ xuất khẩu: Top
· Công ty nên tách rờiviệc quản lý xuất khẩu ra khỏi việc quản lý kinh doanh trong nước, nhằm tập trung
được tài năng chuyên môn để đáp ứng nhu cầu đối phó với thị trường quốc tế và thứ hai là nổ lực tiếp thị
được tập trung sẽ dẫn đến kết quả là mức độ xuất khẩu sẽ tăng.
· Thông thường công ty sẽ lập ra một Phòng xuất nhập khẩu hoặc Phòng giao dịch quốc tế.
· Sự thành công của một công ty tại các thị trường nước ngoài tùy thuộc vào các phương pháp tiếp thị
nhiều hơn là chất lượng sản phẩm.
2. Hệ thống phân phối: Top
Một khi công ty đã được tổ chức để phục vụ xuất khẩu thì cần phải lựa chọn hệ thống phân phối thích nghi
cho mỗi thị trường, các hệ thống này bao gồm các đại diện thương mại, các đại lý, các nhà phân phối, các
nhà bán lẻ và những người tiêu thụ sau cùng.
2.1 Văn phòng đại diện hoặc chi nhánh của công ty ở nước ngoài.
2.2 Ðại diện thương mại:
Một nhà đại diện thương mại thường phụ trách đại diện cho nhiều hệ thống thương mại hoặc sản xuất có thể
bổ sung cho nhau nhưng không cạnh tranh với nhau. Ðại diện thương mại thường hoạt động trên cơ sở được
hưởng hoa hồng, không gánh chịu rủi ro hoặc trách nhiệm. Ðại diện thương mại có thể làm việc trên cơ sở
độc quyền hoặc không độc quyền.
2.3 Ðại lý:
Thường là một người đại diện có nhiều quyền hạn và có thể được ủy nhiệm để hành xử mọi vấn đề thay mặt
công ty mà ông ta làm đại diện.
2.4 Nhà phân phối:
Là một nhà buôn mua hàng của nhà xuất khẩu với một giá có chiết khấu và bán lại hàng hóa đó để kiếm lời.
Nhà phân phối chuyên nghiệp thường phân phối một loạt nhiều sản phẩm có thể bổ sung cho nhau nhưng
không cạnh tranh lại với nhau.
2.5 Nhà bán lẻ nước ngoài:
Một công ty xuất khẩu cũng có thể bán hàng trực tiếp cho một nhà bán lẻ ở nước ngoài mặc dù trong các loại
thương vụ như thế, thì hệ thống người tiêu dùng nói chung thường bị giới hạn.
2.6 Bán hàng trực tiếp cho người sử dụng sau cùng:
Một công ty xuất khẩu có thể bán sản phẩm hoặc dịch vụ của mình trực tiếp cho người sử dụng hoặc tiêu
dùng sau cùng ở nước ngoài. Những người mua hàng trực tiếp này có thể là các chính phủ nước ngoài, các cơ
quan như bệnh viện, trường học hoặc các doanh nghiệp.
Thông thường mỗi sản phẩm bán ra nước ngoài phải kèm theo sự bảo đảm, bảo hành hoặc dịch vụ kèm theo
nhà xuất khẩu có thể tổ chức nhờ hệ thống phân phối của mình ở nước ngoài để thực hiện các dịch vụ trên.
III. PHÂN PHỐI SẢN PHẨM XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM Top
Nhìn chung, tình hình xuất khẩu ở Việt Nam trong những năm qua như sau:
· Mạng lưới bạn hàng, khách hàng hẹp, nhiều trường hợp phải thông qua trung gian.
· Quy mô hoạt động còn hạn chế nên các công ty chưa có tham vọng hình thành một mạng lưới tiêu thụ ở
nước ngoài, việc tiêu thụ sản phẩm của công ty được xem như chấm dứt khi hàng rời khỏi Việt Nam.
Mặt khác, vì hoạt động đa dạng, đa ngành hàng nên phần lớn các công ty không thể đi vào chuyên sâu nhằm
phát huy sở trường của mình ở lãnh vực nhất định nào.
Bên cạnh đó, cơ sở vật chất kỹ thuật trang bị làm hàng xuất khẩu thiếu đồng bộ, lạc hậu, hệ thống kho
chuyên dùng để bảo quản, dự trữ còn quá kém... Những hạn chế này ảnh hưởng đến tổ chức phân phối hợp lý
hàng xuất khẩu đến các phân đoạn của thị trường .
CHƯƠNG VIII:
TỔ CHỨC CÁC HOẠT ÐỘNG MARKETING QUỐC TẾ
(Organization of International Marketing Activites)
YÊU CẦU
CƠ CẤU TỔ CHỨC
Phòng xuất khẩu theo chức năng
Phòng giao dịch quốc tế
Cơ cấu tổ chức dựa trên sản phẩm
Cơ cấu tổ chức dựa trên vùng địa lý
--------------------------------------------------------------------------------
I. YÊU CẦU Top
Trong giai đoạn đầu của hoạt động marketing quốc tế, doanh nghiệp xuất khẩu có thể đơn giản chỉ việc sử
dụng các nhà trung gian hoặc thiết lập một bộ phận xuất khẩu nhỏ để điều hành việc xuất khẩu các sản phẩm
được tiêu chuẩn hóa. Khi các hoạt động xuất khẩu phát triển, sự cạnh tranh quốc tế gia tăng, bộ máy xuất
khẩu phải được tổ chức chuyên sâu hơn để đáp ứng một cách đầy đủ cho những yêu cầu của khách hàng
nước ngoài... cũng có sự quan tâm về phối trí và kiểm tra các hoạt động thị trường nước ngoài. Những kỹ
năng và sự nhạy cảm mới trong quản lý được đặt ra.
Những sự thay đổi trong vị trí của các chức năng then chốt và trong cách ra quyết định được theo đuổi để đáp
ứng một cách đồng bộ đối với những nhu cầu của địa phương đối với việc điều hành một cách thống nhất và
tập trung. Các quyết định phải được đưa ra dù là đối với tổ chức chủ yếu dựa vào chức năng, sản phẩm, địa lý
hay ngay cả nhóm khách hàng.
Mục tiêu việc tổ chức các hoạt động marketing quốc tế là trách nhiệm của các nhà quản trị cao cấp phải đối
phó trong việc triển khai bộ máy tổ chức phù hợp với những nhu cầu và cơ hội của mình. Những mối đe dọa
và cơ hội đặt ra đối với tổ chức cũng phải thay đổi theo để duy trì sự cạnh tranh của công ty.
Các sự xem xét chủ yếu về sự tồn tại của tổ chức quốc tế:
Không có một bộ máy tổ chức hoàn hảo riêng lẻ cho marketing quốc tế. Sự đa dạng về địa lý tạo ra sự mở
rộng chiến lược quốc tế. Hiệu quả của các hoạt động ở nhiều khu vực và quốc gia khác nhau đóng một vai trò
quan trọng và chủ yếu của tổ chức.
Ở mức độ căn bản nhất, việc thiết kế bộ máy tổ chức marketing quốc tế có liên quan đến ba vấn đề:
- Xác định các đơn vị tổ chức phụ thuộc dựa trên cơ sở chức năng và phạm vi
hoạt động.
- Chọn lựa tập trung hay phân cấp các chức năng và nhiệm vụ cá nhân.
- Phân công hệ thống kiểm tra và báo cáo.
Kết quả của các vấn để này mang tính quyết định một cách tổng quát về bộ máy tổ chức.
II. CƠ CẤU TỔ CHỨC (Organizational structures)
1. Phòng xuất khẩu theo chức năng (Functional export department) Top
Ðối với các nhà sản xuất mới có hoạt động xuất khẩu thì nên tuyển dụng một cán bộ chuyên trách làm công
tác xuất khẩu, cán bộ này chịu trách nhiệm trước quản trị viên marketing nội địa.
Khi hoạt động xuất khẩu phát triển thêm nhiều khách hàng và lúc đó sẽ thành lập một phòng xuất khẩu riêng.
Bộ máy này phù hợp với các xí nghiệp vừa và nhỏ hoặc ngay cả các công ty lớn chuyên sản xuất các sản
phẩm được tiêu chuẩn hóa ở giai đoạn đầu trong hoạt động xuất khẩu. Các công ty lớn này thường là các
công ty thuộc ngành công nghiệp khai thác như hầm mỏ, dầu khí ...
2. Phòng giao dịch quốc tế: (International division) Top
Áp dụng cho những công ty có nhiều sản phẩm và đang chiếm thị phần lớn tại thị trường nội địa, mới bắt đầu
hoạt động xuất khẩu. VD: Xí nghiệp điện tử.
Trong trường hợp này trưởng phòng giao dịch quốc tế thường phải là phó tổng giám đốc, chịu trách nhiệm
mọi hoạt động của mình trước tổng giám đốc điều hành của công ty.
3. Cơ cấu tổ chức dựa trên sản phẩm: Top
(Organization structure based on product)
Ðối với công ty có nhiều sản phẩm đa dạng khác nhau nên được tổ chức bộ máy marketing quốc tế dựa trên
sản phẩm. Mô hình này xem sản phẩm là trung tâm của hoạt động marketing quốc tế.
4. Cơ cấu tổ chức dựa trên vùng địa lý: Top
(Organization structure based on geographic area)
Mô hình này phù hợp cho các công ty đa quốc gia có tầm hoạt động rộng khắp thế giới, đang ở thời kỳ
trưởng thành và có các sản phẩm được sản xuất theo tiêu chuẩn hóa. Tầm hoạt động của các công ty này
được chia ra như sau: thế giới được chia ra thành từng vùng, vùng được chia ra làm nhiều khu vực, mỗi khu
vực được chia ra thành từng nước hoặc nhiều nước.
--------------------------------------------------------------------------------
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- MARKETING XUAT NHAP KHAU.pdf