Khu địa lý tự nhiên (hay tỉnh), là một đơn vị bạc trung gian, ở đồng
bằng là một phần của đới, khác với khu bên cạnh về những nét chủ yếu của
cấu tạo địa chất và những đặc điểm địa mạo, tính chất vận động kiến tạo
mới, mức độ biểu hiện của chế độ khí hậu đặc trưng cho xứ nói chung và
phù hợp với đới nói riêng. ở miền núi, nó là bộ phận của miền, khác biệt
với khu bên cạnh về cấu trúc của tính địa đới theo chiều cao.
* Vùng địa lý tự nhiên có cấu trúc địa chất, địa hình tương đối đồng
nhất cũng như cấu trúc của đai cao (A.E. Pheđina - 1973). Nhiều nhà địa lý
xem vùng ĐLTN là đồng nhất với cảnh quan địa lý.
31 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 648 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình các quy luật chung của trái đất cảnh quan, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
73
Phần B
Cảnh quan học
Theo A.G. Isatsenko việc nghiên cứu lớp vỏ địa lý có thể được tiến
hành theo 2 mặt: 1) toàn bộ và 2) theo những bộ phận cấu trúc riêng biệt
các thể tổng hợp địa lý. Mặt thứ nhất là nhiệm vụ của Địa lý đại cương, mặt
thứ hai là của Cảnh quan học. Giữa Địa lý đại cương và Cảnh quan học bao
gồm hai bộ phận không tách rời nhau, liên quan kế tục nhau của một khoa
học. Những kiến thức cơ sở của Địa lý đại cương là những điều kiện để
nghiên cứu cảnh quan, đồng thời Cảnh quan học là sự tiếp tục tất nhiên của
Địa lý đại cương, trong đó những quan điểm địa lý chung nhất có thể dùng
để giải thích những đặc điểm của địa lý địa phương. Từ đó cho thấy Cảnh
quan học có ý nghĩa thực tiễn lớn lao nhiều mặt, nó có quan hệ trực tiếp tới
vấn đề sử dụng tổng hợp, bảo vệ và phục hồi những nguồn lợi thiên nhiên ở
các đới, các khu vực và các vùng khác nhau.
Đối tượng Cảnh quan học là nghiên cứu các thể tổng hợp địa lý gồm
cấu tạo, sự phát triển và sự phân bố của chúng. Nói khác đi, Cảnh quan học
là một bộ phận của Địa lý tự nhiên, nghiên cứu về sự phân hóa lãnh thổ của
lớp vỏ địa lý. Trong hệ thống phân hóa lãnh thổ địa lý tự nhiên, đơn vị cơ
sở đó là cảnh quan địa lý mà từ đó có tên gọi là Cảnh quan học. A.G.
Isatsenko khi bàn về cơ sở Cảnh quan học đã phân môn Cảnh quan ra làm 3
phần chính:
1. Học thuyết về các quy luật phân hóa địa lý tự nhiên theo lãnh thổ
(quy luật địa đới và phi địa đới);
2. Học thuyết về cảnh quan (hay là Cảnh quan học với nghĩa hẹp của
nó) đề cập đến cấu trúc, động lực, hình thái, phân loại cảnh quan và
các vấn đề khác;
3. Phân vùng địa lý tự nhiên.
74
Chương I
Cảnh quan địa lý
I. khái niệm cảnh quan địa lý
Khái niệm cảnh quan lần đầu tiên được sử dụng như là một khái niệm
khoa học vào đầu thế kỷ XX, lấy từ tiếng Đức (die Landschaft) có nghĩa là
quang cảnh. Hiện nay tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về cảnh quan.
Một số tác giả như F.N.Mincov, D.L.Acmăng, Iu. Ephemov cho rằng cảnh
quan là một khái niệm chung, đồng nghĩa với tổng thể địa lý thuộc các cấp
phân vị khác nhau. Một số tác giả như L.X. Becgơ coi cảnh quan là một bộ
phận tương đối nhỏ của bề mặt Trái đất là một đơn vị lãnh thổ địa lý xác
định, không phải là một danh từ chung, cũng không phải là một địa tổng
thể bất kỳ mà là một đơn vị cơ bản nhưng là đơn vị cấp thấp của phân vùng
địa lý tự nhiên. Mặc dù những định nghĩa do nhiều tác giả đưa ra có những
nét khác nhau về chi tiết nhưng nói chung chúng giống nhau ở chỗ coi cảnh
quan như là một tổng thể địa lý tự nhiên. Quan điểm giải thích cảnh quan
theo vùng như L.X. Becgơ được phần lớn các nhà địa lý Xô Viết cũ ủng hộ
và được phát triển trong các tác phẩm của L.G. Ramenxki, X.V. Kalexnik,
N.A. Xôltxev, V.B. Xotxava, A.A. Grigoriev và nhiều nhà địa lý khác.
X.V. Kalexnik (1959) định nghĩa cảnh quan "cảnh quan địa lý là một
bộ phận nhỏ của bề mặt trái đất, khác biệt về chất với các bộ phận khác,
được bao bọc bởi những ranh giới tự nhiên và bản thân là một sự kết hợp
các hiện tượng và đối tượng tác động lẫn nhau một cách có quy luật được
biểu hiện một cách điển hình trên một không gian rộng và có quan hệ mọi
mặt với lớp vỏ địa lý". Định nghĩa này chưa bao hàm các chỉ tiêu cụ thể, nó
chỉ tạo nên một khái niệm chung trong Địa lý học, giống như khái niệm
chung về thổ nhưỡng, khí hậu...
75
Xuất phát từ những kinh nghiệm nghiên cứu cảnh quan trên thực địa,
N.A. Xôltxev (1962) đã đưa ra một định nghĩa rõ ràng và cụ thể về cảnh
quan: "Cảnh quan là một thể tổng hợp lãnh thổ tự nhiên đồng nhất về mặt
phát sinh, có một nền địa chất đồng nhất, có một kiểu địa hình, một khí hậu
đồng nhất và bao gồm một tập hợp các cảnh khu chính và phụ có liên kết
với nhau về mặt động lực và lặp đi lặp lại trong không gian một cách có
quy luật, tập hợp các cảnh khu này chỉ thuộc về cảnh quan đó mà thôi".
N.A. Xôltxev đã xác định được cấu trúc thẳng đứng và cấu trúc ngang của
cảnh quan. Định nghĩa này có ý nhấn mạnh: cảnh quan là một hệ thống
những tổng hợp thể tự nhiên đơn giản được cấu tạo một cách có quy luật từ
dưới lên. A.G. Isatsenco (1965) đã bổ sung cho định nghĩa trên, ông nhấn
mạnh rằng, bất kỳ một cảnh quan nào cũng là kết quả của sự phát triển và
phân dị của lớp vỏ địa lý, do đó có đặc điểm đồng nhất về cả mặt địa đới và
phi địa đới, có một cấu trúc hình thái cá biệt.
Trong giai đoạn phát triển hiện nay của Địa lý học, một số ý kiến cho
rằng khi hiểu khái niệm về cảnh quan không được chỉ hạn chế ở việc phân
tích các dấu hiệu thuần túy của tự nhiên, một tự nhiên chưa bị đụng chạm
bởi con người, mà cần phân tích luôn các mối quan hệ tồn tại giữa các hợp
phần tự nhiên của cảnh quan với các hợp phần "dân cư và nền văn hóa của
con người" (L.X. Becgơ), chính sự hợp nhất giữa hai loại hợp phần đó mới
tạo thành một thể thống nhất hoàn chỉnh hơn là cảnh quan.
ii. các dấu hiệu của cảnh quan
Qua các định nghĩa của các nhà cảnh quan học, Lê Bá Thảo (1988) đã
nêu ra những dấu hiệu cơ bản của cảnh quan: a) cảnh quan là một bộ phận
nhỏ của lớp vỏ địa lý. B) cảnh quan có những đặc điểm riêng trong cấu trúc
và cấu tạo hình thái làm cho nó có thể phân biệt và vạch ranh giới so với
cảnh quan khác, c) Mặc dù có những đặc thù riêng, cảnh quan cũng chỉ là
một bộ phận của lớp vỏ địa lý, vì vậy nó chịu những quy luật chung của vỏ
đó chi phối.
76
Theo A.G. Isatsenco, những dấu hiệu cơ sở có thể cho phép coi cảnh
quan là đơn vị cơ bản của sự phân chia địa lý tự nhiên:
1) So sánh cảnh quan với các thể tổng hợp khu vực ở bậc cao hơn (như
các đới, á đới, xứ...) chúng có sự khác biệt về chất, không có đơn vị bậc cao
nào có được tính chất quan trọng nhất như ở cảnh quan là tính đồng nhất
cao về cả hai phương diện địa đới và phi địa đới. Các đơn vị trên thực ra
vẫn nghiêng về một mặt nào đó; như vòng, đới mới đồng nhất về mặt địa
đới còn về mặt phi địa đới vẫn có thể phân hóa thành miền, khu. Các ô, xứ
chỉ mới đồng nhất về mặt phi địa đới, còn về mặt địa đới vẫn bao gồm một
tập hợp các đới. Do đó không có đơn vị bậc cao nào được xem là tiêu chuẩn
cơ sở cho các điều kiện địa lý tự nhiên.
2). Mặt khác, cũng không có một đơn vị bậc thấp nào (đơn vị hình thái
cấu tạo nên cảnh quan: cảnh diện, cảnh khu) lại có tính đồng nhất trên của
cảnh quan. Giữa cảnh quan và các đơn vị cấu tạo hình thái của nó có sự
khác biệt quan trọng quan trọng về chất ở chỗ: các cảnh diện và các cảnh
khu không cho một khái niệm đầy đủ về những đặc điểm tự nhiên điển hình
của lãnh thổ, chúng không có nét độc đáo, chúng có thể lập lại ở nhiều nơi,
trong khi đó cảnh quan bao giờ cũng độc đáo, có tính cá thể và không lập
lại. Cảnh quan khác với các đơn vị cấp thấp là nó có một lịch sử tồn tại lâu
dài và có tình bền vững hơn đối với những tác động bên ngoài, trong đó có
sự tác động của con người. Đồng thời cảnh quan là một hệ thống thiên
nhiên tương đối độc lập hơn so với cảnh diện và cảnh khu. Trong phạm vi
cảnh quan có thể đặt vấn đề nghiên cứu toàn diện mối liên hệ địa lý và các
quá trình địa lý mà điều đó chưa thể nói được trong phạm vi các đơn vị bậc
thấp.
Trong quan niệm thực tiễn đối với cảnh quan, V.B. Xôtxava và V.M.
Tsituakin đã cho rằng, cảnh quan là một tổng hợp thể lãnh thổ tự nhiên mà
ở đó người ta có thể đặt vấn đề về một phương hướng phát triển kinh tế
cũng như một hướng sử dụng và cải tạo tự nhiên khi xác định vị trí kinh tế
của lãnh thổ.
77
Từ các điểm nói trên, có thể rút ra kết luận chỉ có cảnh quan mới là đơn
vị cơ bản của sự phân chia địa lý tự nhiên.
iii. thành phần và cấu trúc cảnh quan
1. Thành phần cảnh quan
Cảnh quan gồm nhiều thành phần vật chất có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau: nền địa chất, địa hình, khí hậu, các dạng tồn tại của nước, tập hợp các
quần xã sinh vật, thổ nhưỡng...
* Cảnh quan có một nền địa chất đồng nhất, biểu hiện ở sự đồng nhất
của thành phần nham thạch và điều kiện thế nằm của nham thạch bề mặt.
Theo A.G. Isatsenco thành phần nham thạch của nền cảnh quan được biểu
hiện thành hệ địa chất như về tổng hợp thể các đá theo phát sinh, chúng
hình thành trong những điều kiện cấu trúc nham tướng nhất định và liên
quan với nhau về mặt lãnh thổ phân bố như thành hệ flish bao gồm những
lớp sa thạch sét, thành hệ halogen, thành hệ nham thạch màu đỏ...
* Địa hình của cảnh quan là thành phần quan trọng nhất trong cấu trúc
thẳng đứng của cảnh quan và các cấp cấu tạo nên cấu trúc ngang của cảnh.
Theo A.G. Isatsenco, địa hình ở đây là một thể tổng hợp địa mạo, một yếu
tố hình thái - cấu trúc thống nhất về mặt phát sinh của bề mặt đất với một
sự kết hợp của các dạng hình thái - điêu khắc kèm theo. Điều đó có nghĩa
là tổng thể này có một nền địa chất đồng nhất và các quá trình địa mạo
ngoại lực cùng kiểu. Theo Vũ Tự Lập (1976), cấp phân vị địa hình tương
đối với cảnh quan là kiểu địa hình, đó là thể tổng hợp các dạng trung địa
hình âm và dương khác nhau liên quan với nhau về mặt phát sinh và phát
triển, dưới tác động của cùng một thể tổng hợp các lực tạo thành địa hình ở
một giai đoạn phát triển nhất định.
Thủy quyển được thể hiện bằng rất nhiều dạng trong cảnh quan trên lục
địa. Theo A.G. Isatsenco có thể dễ nhận thấy sự phong phú của các dạng
nước này liên quan trực tiếp với các đặc điểm riêng biệt của cảnh quan.
Trong mỗi cảnh quan đều quan sát thấy một tập hợp dạng tích lũy nước có
78
quy luật với những đặc tính động lực, hóa học, chế độ nhiệt... riêng và do
đó một sự kết hợp mà ở cảnh quan khác không có.
Khí hậu trong cảnh quan theo X.P. Khrômôv là khí hậu của cảnh được
căn cứ vào các trạm đặt tại những địa điểm của những cảnh khu đại diện
cho cảnh quan. Khí hậu tại các cảnh khu này là khí hậu địa phương, còn
khí hậu ở cảnh diện là vi khí hậu. Do đó khí hậu cảnh quan có thể được coi
là sự kết hợp của các khí hậu địa phương trong phạm vị lãnh thổ của cảnh
quan.
* Thế giới sinh vật trong cảnh quan là một tổng hợp thể tương đối phức
tạp của các quần xã sinh vật. Khác với cảnh diện, cảnh quan không thể đặc
trưng bằng một quần xã, một quần hợp hay quần hệ thực vật. Trong mỗi
cảnh quan có thể gặp những quần xã của nhiều kiểu thực vật khác nhau, ví
dụ, theo A.G. Isatsenco, mỗi cảnh quan của đới taiga hình như đều có thực
vật kiểu rừng, kiểu đầm lầy, đồng cỏ. Mặt khác, các quần xã này lại gặp
trong cảnh quan khác. Do đó mỗi cảnh quan được đặc trưng bởi một sự
phối hợp có quy luật các quần xã thực vật khác nhau có liên quan với sự
thay đổi sinh cảnh ở các cảnh khu và cảnh diện khác nhau.
* Giữa cảnh quan và thổ nhưỡng cũng có những quan hệ tương tự. Các
loại thổ nhưỡng khác nhau thường thay thế nhau trong một khoảng nhỏ
theo các cảnh diện. Vì thế bất cứ một cảnh quan nào cũng bao gồm tập hợp
có quy luật các kiểu đất theo lãnh thổ, kiểu phụ, các loại đất và các biến
dạng thổ nhưỡng, mà tập hợp theo lãnh thổ này được tương ứng với một
vùng thổ nhưỡng.
* Trong thành phần cấu tạo cảnh quan, ngoài thành phần cấu tạo vật
chất còn có thành phần cấu tạo năng lượng, trong đó quan trọng nhất là
năng lượng bức xạ mặt trời, năng lượng của quá trình kiến tạo và trọng lực.
2. Cấu trúc cảnh quan
Các thành phần (hợp phần) tự nhiên cấu tạo cảnh quan tồn tại trong
mối liên hệ tương hỗ với nhau như là trong một hệ thống thông qua các
luồng trao đổi vật chất, năng lượng và thông tin. Chính mối liên hệ tương
79
hỗ giữa các hợp phần cấu tạo cảnh quan quyết định cấu trúc của nó, có
nghĩa là quyết định sự tổ chức bên trong các vật thể và hiện tượng trong hệ
thống vật chất phức tạp này. Theo A.G. Isatsenco cấu trúc cảnh quan gồm
không chỉ là các thành phần cấu tạo của nó, mà còn là những đơn vị hình
thái của nó nữa như cảnh diện, cảnh khu. Ngoài ra, X.V. Kalexnik còn xếp
những nét quan trọng nhất của nhịp điệu theo mùa biểu hiện trong sự thay
đổi cảnh trí vào đặc điểm cấu trúc của cảnh quan.
Có thể phân biệt ra 2 kiểu cấu trúc của cảnh quan: cấu trúc không gian
và cấu trúc chức năng.
a. Cấu trúc không gian:
Gồm có cấu trúc thẳng đứng và cấu trúc ngang của cảnh quan.
* Cấu trúc thẳng đứng: sự phân bố các hợp phần tự nhiên trong cảnh
quan theo tầng tạo nên cấu trúc thẳng đứng của nó. Dưới cùng là nền địa
chất, trên đó là kiểu địa hình và lớp phủ thổ nhưỡng tương ứng, các dạng
tập trung nước, lớp thảm thực vật và trên hết là phần dưới cùng của tầng đối
lưu trong khí quyển. Giữa chúng có mối tác động qua lại trong một thể
thống nhất và quyết định đặc tính của từng cảnh quan. Cấu trúc thẳng đứng
của cảnh quan được thể hiện qua lát cắt tổng hợp địa lý tự nhiên.
Sơ đồ 12 - Mô hình chuỗi cặp quan hệ giữa các thành phần cấu tạo (T1,
T2,... T8) của một địa tổng thể (cấu trúc thẳng đứng)
(Theo Vũ Tự Lập - 1976).
T7 T8
T5 T6
T3 T4
T1 T2
80
* Cấu trúc ngang: (còn gọi là cấu trúc hình thái của cảnh quan). Các
hợp phần của cảnh quan còn được cấu tạo bởi một số địa hệ thống cấp thấp
hơn (đơn vị cảnh quan hình thái) phân bố theo chiều ngang, bao gồm cảnh
diện, cảnh khu (là 2 đơn vị được nhiều người thừa nhận)
+ Cảnh diện: (diện địa lý, cảnh tướng faxia)
Danh từ cảnh diện được gọi bằng nhiều tên khác nhau: cảnh tướng
(A.G. Isatsenco, N.A. Xôltxev), diện địa lý (N.I. Mikhailov, V.I. Prakaev,
Vũ Tự Lập...)
Theo A.G. Isatsenco, cảnh diện là một đơn vị địa lý tự nhiên nhỏ nhất
(cấp sơ đẳng) được đặc trưng bằng những điều kiện địa thế và sinh cảnh
đồng nhất và có cùng một địa sinh vật quần. Cảnh diện được hình thành
trong phạm vi một bộ phận của trung địa hình hay với mọi dạng vi địa hình
riêng biệt, có nham mẹ đồng nhất, một chế độ thủy văn đồng nhất, một vi
khí hậu và một thổ nhưỡng. Như vậy, cảnh diện có những điều kiện sống
đồng nhất như trong một cảnh sinh thái.
Cảnh diện là hạt nhân địa hóa học và năng lượng đầu tiên trong cảnh
quan, tựa như tế bào trong vật thể sống. Nghiên cứu sự tuần hoàn và biến
đổi năng lượng và vật chất trong cảnh quan cần bắt đầu từ cảnh diện. Tuy
nhiên, cảnh diện không phải là những hệ thống độc lập, chúng chỉ là những
bộ phận cấu thành của cảnh quan nên chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau,
trao đổi vật chất và năng lượng với nhau. Thường cảnh diện thay thế nhau
một cách có quy luật theo lát cắt địa hình tạo nên những loạt cảnh diện.
Một loạt cảnh diện chiếm những dạng địa hình lồi và lõm, nối hai hay ba,
bốn cảnh khu gần nhau. Nghiên cứu hàng loạt những cảnh diện điển hình
đó cũng làm cơ sở cho phân loại cảnh diện. B.B. Pôlưnôv đã xác định ba
kiểu cảnh quan cơ bản hay cảnh diện cơ bản: kiểu tàn tích, kiểu cảnh diện
trên cạn và kiểu cảnh diện dưới nước.
Có thể phân biệt ra một số cảnh diện: Cảnh diện gồm một phần của
một dạng vi địa hình, thí dụ một bộ phận của trung tâm bồn trũng; cảnh
diện gồm toàn bộ vi địa hình, thí dụ di tích lòng sông cũ trên bãi bồi, gò tự
81
nhiên trên bãi sông; cảnh diện gồm một bộ phận của dạng trung địa hình,
thí dụ đỉnh đồi, sườn đồi. Quanh một dãy đồi từ trên xuống dưới có thể
phân biệt ra một số cảnh diện: cảnh diện đá gốc trên đỉnh, cảnh diện các
sườn dốc, cảnh diện sườn thoải, cảnh diện sườn tích, cảnh diện lòng trũng
giữa các đồi...
K.G. Raman đã xây dựng một sơ đồ các địa thế và cảnh diện chủ yếu
áp dụng ở nước cộng hòa Latvia như sau:
Sơ đồ 13 - Sơ đồ các địa thế chủ yếu (theo K.G. Raman)
I. Thung lũng. II. Đồng bằng. III. Vùng trũng. IV. Đồi.
a. Thềm 1; b. Bãi bồi; c. Lòng; d. Sườn thung lũng;
1. Mực nước ngầm - 2. Than bùn - 3. Trầm tích sườn
Các cảnh diện tự nhiên có thể bị biến đổi mạnh mẽ do tác động của con
người. Hoạt động kinh tế làm thay đổi mạnh thực bì và động vật cũng như
thổ nhưỡng, chế độ nước, vì khí hậu của cảnh diện hình thành nên những
cảnh diện thứ sinh. Những sự biến thể của các cảnh diện gốc như vậy
thường có tính chất tạm thời, nó có thể dần dần trở lại trạng thái gần như
lúc ban đầu trong trường hợp nó không còn được sử dụng vào mục đích
kinh tế nữa. Cũng có trường hợp cảnh diện bị phá hủy toàn bộ như việc sử
dụng vào xây dựng công trình, xây dựng đường sá, đập nước...
82
+ Cảnh khu: (U-rô-si-sê)
Danh từ cảnh khu còn có tên gọi là nhóm cảnh diện, hay dạng địa lý
(N.I. Mikhailôv, Vũ Tự Lập...)
Cảnh khu là một tập hợp các cảnh diện có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, là đơn vị trên cấp cảnh diện và dưới cấp cảnh quan. Theo A.G.
Isatsenco "Cảnh khu là một bộ phận của cảnh quan, bản thân nó là một hệ
thống liên kết các cảnh tướng (cảnh diện), liên quan với từng dạng địa hình
lồi hay lõm hay với những bộ phận đất bằng phẳng giữa các sông, trên một
vật thể (đá mẹ), đồng nhất và được nối liền bởi một hướng vận động chung
của nước, của sự vận chuyển vật chất rắn và di chuyển các nguyên tố hóa
học thống nhất". Biểu hiện đặc biệt rõ rệt các cảnh khu ở dạng địa hình lồi
(dương) và lõm (âm) xen kẽ nhau như những đồi, thung lũng, bãi bôi... Đặc
điểm của các cảnh khu không chỉ lệ thuộc vào loại dạng địa hình bên ngoài
mà còn vào sự phát sinh của chúng và thành phần nham thạch của đá mẹ, vì
sự khác biệt về đá mẹ chúng sẽ ảnh hưởng đến đặc điểm chế độ nhiệt, nước
cũng như tới việc hình thành thổ nhưỡng và sinh quần. Thí dụ, một cảnh
quan cồn cát, lạch trũng, gờ cát... Cảnh khu bãi biển có thể được phân biệt
ra các cảnh diện: cảnh diện hạ triều, trung triều, cao triều. Mỗi cồn cát là
một cảnh quan khu vì ứng với một dạng trung địa hình, nhưng nếu cồn cát
đó kéo dài hàng chục km, có sự phân hóa về đá mẹ, điều kiện thoát nước,
thổ nhưỡng và sinh vật thì có thể phân hóa thành 2, 3... cảnh khu.
Bất kỳ một cảnh khu nào cũng là một hệ thống có quy luật các cảnh
diện, tính chất kết hợp của các cảnh diện trong phạm vi một cảnh khu có
thể rất khác nhau. Tùy thuộc vào mức độ phức tạp của cấu tạo bên trong mà
phân biệt ra các cảnh khu đơn giản và phức tạp, N.A. Xôltxev cho rằng ở
các cảnh khu đơn giản mỗi bộ phận trung địa hình chỉ có một cảnh diện,
còn ở cảnh khu phức tạp lại có một hệ thống các cảnh diện; hoặc phân biệt
ra các cảnh khu cơ bản (thống trị) và cảnh khu thứ cấp (phụ thuộc) tùy
thuộc vào vai trò của chúng trong cấu trúc hình thái của cảnh quan. Các
cảnh khu cơ bản làm cơ sở (làm nền) cho cảnh quan và thường chiếm ưu
thế về diện tích, còn cảnh quan phụ thuộc nằm rải rác trên nền và đóng vai
83
trò thứ yếu. A.G. Isatsenco cho rằng sự phân biệt như vậy còn quá đơn
giản, ông cho rằng khi phân loại các cảnh khu cần xuất phát từ sự giống
nhau và khác nhau có tính chất phát sinh tồn tại giữa chúng, và cả từ sự kết
hợp các cảnh diện đối với mỗi kiểu hay loại cảnh khu. Từ quan niệm đó
phân biệt ra hai loại cảnh khu: các cảnh khu có liên quan với các dạng lồi
của trung địa hình và với các khu vực phân thủy khác cũng được nâng lên
và các cảnh khu dạng lõm của trung địa hình cũng như các thềm thấp, mỗi
loại có những điều kiện khác nhau về mặt thoát nước, vị trí của mực nước
ngầm, điều kiện khí hậu tại chỗ và kết hợp của một loại cảnh diện thống trị.
Sơ đồ 14 - Mô hình cấu trúc ngang của một cảnh địa lý đồi
xen thung lũng bồi tụ - xâm thực.
(Vũ Tự Lập - 1976)
Trong cấu trúc ngang của cảnh quan, ngoài 2 đơn vị cấu tạo chủ yếu là
cảnh diện và cảnh khu, còn có thể phân biệt thêm một số đơn vị trung gian.
Nhiều cảnh quan phức tạp về mặt hình thái bắt buộc phải phân ra 5 - 6 bậc,
như cảnh diện và cảnh khu có bậc trung gian là phụ cảnh khu, giữa cảnh
khu và cảnh quan có bậc cảnh khu phức tạp. Những đơn vị trung gian này
thường bổ trợ cho một số cảnh quan và thường có ý nghĩa địa phương hẹp.
84
Qua hoạt động sản xuất, tác động của con người làm biến đổi tự nhiên
mạnh và nhiều nhất ở cảnh diện, đối với cảnh khu ít bị biến đổi hơn, còn
biến đổi được cảnh quan thì khó hơn nhiều bởi vì cảnh quan là một thành
tạo ổn định được cấu tạo do sự phối hợp các lực địa đới và phi địa đới của
tự nhiên.
b. Cấu trúc chức năng của cảnh quan
Cấu trúc không gian là một mặt quan trọng trong tính tổ chức của cảnh
quan, nhưng riêng nó vẫn chưa lột tả được toàn bộ bản chất cấu trúc của
cảnh quan. Các phần cấu tạo cảnh quan luôn luôn tác động qua lại và ảnh
hưởng lẫn nhau, bản chất của sự tác động ấy là sự trao đổi vật chất và năng
lượng diễn ra giữa chúng và đi kèm sự biến đổi của năng lượng và vật chất.
Tổng hợp các quá trình trao đổi và biến đổi vật chất và năng lượng trong
một cảnh quan gọi là hoạt động chức năng của cảnh quan hay cấu trúc chức
năng của cảnh quan.
Sự hoạt động chức năng của cảnh quan tuân theo những quy luật của cơ
học, vật lý học, hóa học và sinh vật học, bao gồm các quá trình sơ đẳng như
sự chuyển động cơ học của vật liệu vụn, sự bốc hơi nước từ bề mặt đất, sự
thẩm thấu của nước, sự di chuyển các nguyên tố hóa học, sự quang hợp, sự
khoáng hóa các hợp chất hữu cơ ... Tuy nhiên, hoạt động chức năng của
cảnh quan là một hoạt động tổng hợp, cao hơn nhiều so với tất cả các quá
trình sơ đẳng hợp lại. Xác định được điều đó là một nhiệm vụ phức tạp và
khó khăn. Theo A.G. Isatsenco (1979) có thể vạch ra các kênh liên hệ chủ
yếu sau đây giữa các thành phần trong cấu trúc cảnh quan:
Sự chuyển động cơ học (do trọng lực) của vật chất (thể rắn, thể lỏng,
thể khí) đi kèm với sự biến đổi thế năng thành động năng. Đặc điểm của
kênh này là tính có hướng một chiều của nó. Nó đóng vai trò quan trọng
trong hệ thống các mối liên hệ theo chiều thẳng đứng và cũng như theo
chiều ngang. Đặc biệt là sự tập hợp của các cảnh diện vào cảnh khu và các
cảnh khu vào cảnh quan được thực hiện trong một chừng mực lớn theo
kênh này.
85
Các quá trình vật lý (phân tử) bảo đảm các khâu quan trọng của sự
trao đổi chủ yếu theo chiều thẳng đứng giữa các hợp phần, thí dụ sự bốc
hơi, sự dâng lên của nước theo mao mạch trong đất, các dòng đối lưu của
không khí. Tất cả các quá trình này được thực hiện nhờ năng lượng bức xạ
mặt trời và đi kèm với sự biến đổi của nó.
Sự chuyển hóa sinh vật là thành phần cực kỳ quan trọng trong hệ
thống các mối liên hệ giữa các hợp phần, nhờ đó vật chất của tất cả các hợp
phần của cảnh quan được lôi cuốn vào sự trao đổi, cũng như nhờ vào việc
sử dụng năng lượng mặt trời ở đây được chuyển sang dạng khác. Sự chuyển
hóa sinh vật đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh và ổn định cảnh
quan, nếu như sự mang vật chất ra khỏi cảnh quan diễn ra theo kênh trọng
lực thì sự chuyển hóa sinh vật lại giành lấy và giữ nó lại trong vòng tuần
hoàn sinh vật.
Các mối quan hệ giữa các hợp phần của cảnh quan rất đa dạng, trong
đó có mối quan hệ thuận và nghịch, các quan hệ này lại có thể là tích cực
(dương) hoặc tiêu cực (âm). Đáng chú ý là mối quan hệ nghịch dương thể
hiện ở chỗ quá trình xuất hiện do sự tác động của một nhân tố nào đó lại
tăng cường chính bản thân nó, còn trong quan hệ nghịch âm thì chính quá
trình đó bị suy yếu đi. Như vậy, cảnh quan cũng như các địa hệ thống khác
có khả năng tự điều chỉnh. Sự tồn tại của mối quan hệ nghịch dương và
nghịch âm của các quá trình tự điều chỉnh của các dạng tín hiệu liên hệ
giữa các hợp phần đã cung cấp cơ sở cho một số nhà địa lý học (V.B.
Xotxava, V.X. Preobrazenski, A.D. Armand) coi các địa tổng thể nói chung
và cảnh quan nói riêng không chỉ như là các hệ vật chất - năng lượng, mà
còn như là các hệ thông tin.
IV. sự phát triển của cảnh quan
L.X. Bécgơ, G.Ph. Môrôzôv, B.B. Pôlưnôp đã xem cảnh quan là một hệ
thống vật chất phức tạp ở trạng thái phát triển không ngừng. Theo L.X.
Bécgơ: "Hiểu một cảnh quan đã cho, chỉ có thể khi ta biết nó đã sinh ra như
thế nào và biến đổi theo thời gian thành cái gì"
86
Những quy luật phát triển của cảnh quan cũng là những quy luật phát
triển của toàn bộ lớp vỏ địa lý. Cảnh quan phát triển như là một hệ thống
vật chất thống nhất, nhưng tốc độ phát triển của các thành phần cấu tạo
cũng như các đơn vị hình thái cảnh quan không như nhau. Trong số các
thành phần cấu tạo thì yếu tố thực động vật dễ bị biến động nhất, thổ
nhưỡng biến đổi chậm hơn, khí hậu và địa hình có sức ỳ cao nhất. Trong
các đơn vị cảnh quan hình thái thì cảnh diện có thể biến đổi nhanh chóng,
cảnh khu biến đổi chậm hơn, còn cảnh quan khó biến đổi hơn nhiều.
Trong sự phát triển của cảnh quan, ở mỗi cảnh quan hiện đại bao giờ
cũng có những nét thuộc về quá khứ, những nét hiện đại và những nét tiến
bộ quyết định sự phát triển của nó trong tương lai. Các yếu tố hiện đại là
các yếu tố quyết định trạng thái hiện tại của khách quan. Các yếu tố di lưu
hay sót là những yếu tố còn được giữ lại của thời kỳ trước, nó được dùng để
cắt nghĩa sự có mặt của các đặc điểm trong cảnh quan hiện đại và giúp hiểu
được những gì đã xảy ra trong sự phát triển cảnh quan, thí dụ các dạng địa
hình đá vôi sót trong lòng đồng bằng, hay cây tràm còn sót lại trên đất cát
đã lùi sâu vào một số tỉnh duyên hải chứng tỏ trước kia đây là cảnh quan
vùng ven bờ biển. Các yếu tố tiến bộ, đấy là cái mới, cái đang được sinh ra
trong cảnh quan hiện nay, nó định hướng cho sự phát triển của cảnh quan.
Các yếu tố tiến bộ tuy phát triển trên nền của các yếu tố di lưu và hiện đại
nhưng nó sẽ loại dần các yếu tố hiện đại cùng với thời gian sẽ làm cho cảnh
quan có chất lượng mới, biến đổi thành một cảnh quan mới. Thí dụ cảnh
quan bồn trũng là cảnh quan hiện đại, bản thân bồn trũng là yếu tố di lưu
do quá trình hình thành châu thổ để lại, các bụi lau sậy và thực vật thủy
sinh khác hiện mọc trong đồng trũng là những yếu tố tiến bộ biến nó thành
đồng bằng.
Quá trình phát triển của cảnh quan là quá trình phát triển tiến lên, ngày
càng có thêm những dấu hiệu mới, thành phần và cấu trúc của nó ngày
càng trở nên phức tạp hơn. Trong quá trình nghiên cứu cảnh quan, nhà địa
lý cần phải chú ý đến sự phát hiện ra các yếu tố tiến bộ để dự báo hướng
phát triển của nó trong tương lai, điều đó có ý nghĩa to lớn về cả mặt lý
87
thuyết và thực tiễn, nó giúp rất nhiều trong việc sử dụng, bảo vệ và cải tạo
tự nhiên, nâng cao hiệu quả kinh tế lãnh thổ.
V. phân loại các cảnh quan
Theo L.X. Bécgơ, mỗi cảnh quan là một cá thể, nó không lặp lại trong
không gian và thời gian, không thể tìm thấy hai cảnh quan như nhau, bởi vì
vị trí địa lý của lãnh thổ không được lặp lại. Ví dụ không có hai cảnh quan
lòng chảo Than Uyên, hai cảnh quan đồng bằng ven biển Lệ Thủy. Tính
chất cá thể như vậy thể hiện sự tác dộng của các nhân tố hành tinh và địa
phương trong lịch sử phát triển của địa tổng thể. Do tính chất cá thể đó, mỗi
cảnh quan có một ranh giới khép kín và được gọi bằng một tên địa phương.
Sự phân chia lãnh thổ thành các cảnh quan cá thể đó thuộc về công tác
phân vùng.
Mặt khác giữa các cá thể cảnh quan vẫn có thể có những nét giống
nhau nhất định. Việc so sánh các cảnh quan cho phép xác định các nhóm
cảnh quan gần gũi về nguyên tắc theo nguồn gốc phát sinh, cấu trúc hình
thái để gộp chúng lại thành những đơn vị kiểu loại nghĩa là thực hiện công
tác phân kiểu hay phân loại cảnh quan, khi đó cần phải bỏ đi nhiều các nét
cá biệt vốn có đối với cảnh quan để đi sâu nghiên cứu các điển hình. Ví dụ,
suốt từ Móng Cái đến Vĩnh Linh, có đến 22 cá thể cảnh quan đồng bằng
ven biển, nhưng dù sao giữa chúng với nhau vẫn có những nét chung, như
đều có sự tham gia của các quá trình biển, luôn có mặt của đất cát và đất
mặn, thực và động vật nước mặn, nước lợ... (Vũ Tự Lập, 1976). Sự phân
loại có ý nghĩa khoa học và thực tiễn lớn, nó là phương thức quan trọng để
xác định các quy luật phát triển và phân bố các cảnh quan. Trong các mục
đích thực tiễn, trên lãnh thổ nước ta có thể có đến hàng trăm cảnh quan thì
việc nghiên cứu phân loại cảnh quan để tùy theo các đặc tính của chúng, sử
dụng chúng vào mục đích kinh tế có hiệu quả nhất.
Có nhiều phương án phân loại cảnh quan, theo A.E. Phêđina (1973) có
ba phương án được chấp nhận rộng rãi nhất: phương án của A.G. Isatsenko,
của N.A. Gvozdetxki và của V.A. Nicolaep. Thí dụ hệ thống phân loại cảnh
88
quan chi tiết của A.G. Isatsenko bao gồm các đơn vị phân loại đã được áp
dụng để thành lập bản đồ cảnh quan Liên Xô (cũ).
Kiểu cảnh quan: là bậc cao nhất, kiểu cảnh quan bao gồm có những
đặc điểm chung về địa đới và địa ô trong cấu trúc, do đó có những nét
tương tự nhau trong những dấu hiệu quan trọng nhất của chế độ thủy nhiệt,
các quá trình địa hóa cũng như thế giới hữu cơ.
Kiểu phụ cảnh quan là bậc tiếp theo được phân chia ra bên trong các
kiểu theo những dấu hiệu địa đới thứ yếu. Thí dụ kiểu cảnh quan đài
nguyên Đông Âu được chia ra kiểu phụ cảnh quan đài nguyên phía Bắc, đài
nguyên điển hình và đài nguyên phía Nam.
Lớp cảnh quan: ở đây vị trí độ cao và sự có mặt hay sự vắng mặt của
tính vòng đai theo độ cao được dùng làm dấu hiệu phân loại. Hai lớp được
phân biệt: lớp đồng bằng (không có tính vòng đai theo độ cao), lớp miền
núi (có tính vòng đai theo độ cao).
Lớp phụ cảnh quan: phản ánh những nét khác biệt nhỏ về độ cao
trong cấu trúc cảnh quan, thí dụ trong lớp cảnh quan đồng bằng cần phải
phân biệt ra các lớp phụ cảnh quan đồng bằng thấp và đồng bằng cao.
Loại cảnh quan: là cấp cuối cùng, các cảnh quan cùng loại có các dấu
hiệu chung như: gần gũi nhất theo nguồn gốc phát sinh, có cùng kiểu địa
hình thống trị cũng như có cấu trúc hình thái giống nhau.
Cách phân loại của N.A. Gvozdetxki (1961) có các đơn vị sau: lớp,
kiểu, kiểu phụ, nhóm, loại. Cách phân loại của V.A. Nicôlaiev (1970) có
các đơn vị: thống, hệ, lớp, nhóm, giống (hạng), loại. Trong các cách phân
loại trên có thể thấy có các ý kiến thống nhất về các đơn vị: lớp, kiểu,
nhóm, loại.
89
Chương II
Phân vùng địa lý tự nhiên
I. khái niệm phân vùng địa lý tự nhiên
Phân vùng địa lý tự nhiên, hiểu theo một cách chung nhất là hệ thống
phân chia lãnh thổ dựa trên việc phân biệt ra các vùng địa lý tự nhiên phụ
thuộc nhau.
A.G. Isatsenko (1965) cho rằng phân vùng trước hết là phân chia bề
mặt trái đất như thế nào để các khu vực được phân chia ra - các vùng - giữ
được tính thống nhất nội tại và tính hoàn chỉnh về mặt lãnh thổ xuất phát từ
tính thống nhất trong lịch sử phát triển, trong vị trí địa lý, trong quá trình
địa lý và trong sự gắn bó về lãnh thổ của các bộ phận cấu tạo riêng biệt,
ông đã đưa ra định nghĩa "Phân vùng địa lý tự nhiên là sự phát hiện những
sự khác biệt địa lý tự nhiên các cá thể, được hình thành trong lịch sử, do kết
quả tác động nhân tố địa đới và phi địa đới của sự phân hóa địa lý trên bề
mặt trái đất".
Ph.N.Mincôv cho rằng "Phân vùng địa lý tự nhiên là quá trình vạch ra,
phản ảnh bằng bản đồ và mô tả các thể tổng hợp địa lý tự nhiên tồn tại một
cách khách quan trong tự nhiên theo các cấp phân vị khác nhau".
Theo A.E. Phêđina "Phân vùng địa lý tự nhiên là sự vạch ra và họa đồ
các thể tổng hợp địa lý tự nhiên theo lãnh thổ tồn tại một cách khách quan,
là sự nghiên cứu thành phần vật chất, cấu trúc, hệ thống, các quá trình hình
thành và động lực của chúng".
Như vậy, không phải bất cứ một sự phân chia lãnh thổ nào cũng là phân
vùng địa lý tự nhiên, thí dụ việc khoanh các vùng phân bố động vật hay
thực vật trên bản đồ sẽ không đáp ứng được những yêu cầu trên.
90
Nhìn chung các nhà cảnh quan học đều cho rằng nhiệm vụ của phân
vùng ĐLTN cần phải vạch ra và nghiên cứu các thể tổng hợp địa lý tự nhiên
(địa tổng thể) ở các cấp phân vị khác nhau. Hiểu thể tổng hợp địa lý tự
nhiên là một bộ phận của môi trường địa lý, là một lãnh thổ đồng nhất về
mặt phát sinh trong những nét chung, trên đó do ảnh hưởng của các quá
trình ĐLTN vốn có của nó mà hình thành một cấu trúc cá thể nhưng hoàn
toàn có quy luật của các thành phần cấu tạo nên tổng hợp - cấu tạo địa chất,
địa hình, nước trên mặt, nước ngầm, thổ nhưỡng và các sinh quần. Mỗi thể
tổng hợp là một hệ thống động lực được phân biệt với các thể tổng hợp bên
cạnh bởi những đường ranh giới địa lý (N.I. Mikhailov)
Phân vùng ĐLTN có một ý nghĩa quan trọng, nó cho phép làm sáng tỏ
những sự khác nhau của các địa tổng thể trên các lãnh thổ, cho phép sử
dụng hợp lý và rộng rãi những nguồn tài nguyên tự nhiên, tính toán tổng
hợp trong việc thành lập các dự án kinh tế nhằm khai thác các lãnh thổ này,
đồng thời đưa ra được các dự báo địa lý dài hạn.
ii. các nguyên tắc cơ bản của phân vùng địa lý
tự nhiên
một trong những điểm quan trọng nhất của công tác phân vùng địa lý
tự nhiên là xác định các nguyên tắc phân vùng. Những đơn vị địa lý tự
nhiên khu vực được hình thành và phát triển do ảnh hưởng trước hết của các
quy luật chung của tự nhiên. Đa số các nhà nghiên cứu đã xuất phát từ
những quy luật chung của tự nhiên để tiến hành nghiên cứu, thể hiện các
thể tổng hợp ĐLTN và xác định một số nguyên tắc sau:
1. Nguyên tắc địa đới
A.A. Grigoriev cho rằng một trong những quy luật phân dị cơ bản của
môi trường địa lý là tính địa đới, "Quy luật tính địa đới dựa trên cơ sở của
quy luật phân dị trong lớp vỏ địa lý của quả đất ra thành những lãnh thổ tự
nhiên riêng biệt, có đặc điểm tự nhiên riêng, thay đổi một cách có quy luật
từ đới này sang đới khác phụ thuộc vào vị trí địa lý của chúng trên hành
91
tinh". Sự phân chia các đới dựa trên mối tương quan nhiệt ẩm thể hiện bằng
chỉ số khô hạn của M.I. Buđưacô và A.A. Grigoriev (xem phần Quy luật
địa đới).
Dựa trên nguyên tắc địa đới, các nhà nghiên cứu đã thể hiện trên các
bản đồ phân vùng địa lý tự nhiên những thể tổng hợp địa lý tự nhiên mang
tính đới là các vòng đai, đới, á đới.
2. Nguyên tắc phi địa đới
Nguyên tắc này dựa trên phân tích chủ yếu những đặc điểm phi địa đới
đó là sự phân dị của bề mặt đất, tính không đồng nhất của cấu trúc kiến tạo,
sự khác biệt trong cấu tạo địa chất, vị trí theo độ cao của các yếu tố địa mạo
do các lực bên trong quả đất quyết định. Ngoài ra vị trí địa lý của các bộ
phận lục địa ở gần hay xa biển và đại dương, tác động của các dòng biển
nóng lạnh... quyết định không những đến mức độ lục địa của khí hậu mà
còn cả tự nhiên. Dựa trên nguyên tắc này để phân chia lãnh thổ các đơn vị
như ô địa lý, xứ địa lý.
3. Nguyên tắc địa đới - phi địa đới
Nhiều nhà cảnh quan học cho rằng việc phân vùng ĐLTN chỉ theo một
nguyên tắc địa đới hoặc phi địa đới sẽ không hoàn toàn đáp ứng được
nhiệm vụ của phân vùng, vì những lãnh thổ tồn tại trong tự nhiên đều mang
tính địa đới và phi địa đới. Tính địa đới và phi địa đới, địa ô (địa khu) có
ảnh hưởng đến sự hình thành và phân dị các đơn vị địa lý tự nhiên khu vực.
A.G. Isatsenkô (1971) cho rằng "Tính địa đới theo chiều ngang, tính địa đới
theo chiều cao, tính phi địa đới và địa ô (địa khu) đều có những điểm riêng
của mình, nhưng chúng không bao giờ loại trừ nhau, thể hiện luôn luôn
đồng thời và sự xuất hiện của một trong số các quy luật đó phụ thuộc vào
tác động của quy luật khác".
Như vậy, bản chất của nguyên tắc địa đới - phi địa đới là ở chỗ trong
việc phân vùng ĐLTN các thể tổng hợp cần phải tính dến sự đồng thời của
các nhân tố trên các thể tổng hợp địa lý ở bất kỳ cấp nào.
92
4. Nguyên tắc phát sinh
Nguyên tắc phát sinh đòi hỏi phải nghiên cứu tổng hợp các đặc điểm tự
nhiên về mặt phát sinh do mỗi vùng địa lý tự nhiên có lịch sử riêng của nó
và tính thống nhất của vùng lại được đảm bảo bởi một quá trình phát triển
chung của tất cả các yếu tố cấu tạo chủ yếu xảy ra trong những điều kiện
địa đới và phi địa đới nhất định. Khi áp dụng nguyên tắc phát sinh, cần cắt
nghĩa xem quá trình phân dị địa lý tự nhiên trong lãnh thổ đã xảy ra như thế
nào, do những nguyên nhân nào mà các địa phương đã cá biệt hóa, sự thống
nhất của chúng ở mức độ nào.
5. Nguyên tắc tính tổng hợp:
Đây là một nguyên tắc phân vùng ĐLTN quan trong nhất. Nguyên tắc
này tính đến sự tổng hợp các điều kiện tự nhiên của lãnh thổ, những phân tố
phi địa đới, địa đới trong việc tạo thành các thể tổng hợp ở trạng thái hiện
thời và lịch sử của chúng cũng như tác động của hoạt động kinh tế con
người đến tự nhiên (N.A. Gvozdetxki, 1979).
Bản chất của nguyên tắc tổng hợp khi phân vùng ĐLTN phải tính đến:
- Sự phát sinh của lãnh thổ.
- Những nguyên nhân và điều kiện phân dị của các đơn vị lãnh thổ
ĐLTN (quan điểm phát sinh) trong đó phải chú ý tới sự phát sinh của toàn
bộ tổng thể các điều kiện ĐLTN, cấu trúc của môi trường địa lý.
- Các quá trình địa lý tự nhiên phụ thuộc vào tính địa đới cảnh quan, sự
phân dị khí hậu theo kinh tuyến (hay tính địa ô), tính địa đới theo chiều
cao, những đặc điểm địa chất và đặc điểm địa mạo có liên quan với đặc
điểm địa chất của lãnh thổ; phụ thuộc vào tính chất và mức độ khai thác
lãnh thổ.
Nguyên tắc này này càng được nhiều nhà địa lý tự nhiên áp dụng, nó
được sử dụng để vạch ra các khu vực ĐLTN ở các cấp. Thí dụ, xứ theo đặc
điểm sơn văn có liên quan đến địa - cấu trúc và khí hậu theo kinh tuyến
của tính địa ô và theo dải của tính địa đới. Các đới phân chia trong xứ được
93
đặc trưng không chỉ do sự thống trị của một kiểu cảnh quan địa đới mà còn
do tính chất đồng nhất về địa chất - địa mạo.
iii. hệ thống các đơn vị phân vị
Thiên nhiên của bề mặt trái đất từ khi hình thành đến nay không ngừng
phát triển, phức tạp hóa và phân dị thành hàng loạt các thể tổng hợp tự
nhiên. Để có thể nhận thức tất cả tính phức tạp và nhiều vẻ của tự nhiên
trên bề mặt trái đất, cần thiết phải sắp xếp chúng thành một hệ thống.
Hệ thống các đơn vị phân vị của phân vùng ĐLTN là một hệ thống
phân loại các thể tổng hợp cá thể, nó giúp ta vạch ra hàng và sự liên kết phụ
thuộc của các thể tổng hợp lãnh thổ ĐLTN.
Theo N.I. Mikhailôv (1955) hệ thống các đơn vị cần đáp ứng những
yêu cầu sau:
1. Phản ảnh được những quy luật cơ bản về sự phân bố không gian của
các thể tổng hợp có liên quan với các quá trình lịch sử hình thành của
chúng.
2. Về mặt lôgic phải tương đối chặt chẽ.
3. Cho phép xác định được một cách nhanh chóng và tin cậy vị trí bất
kỳ một thể tổng hợp trong hệ thống phân vị của chúng. Tất cả các đơn vị
khu vực phải nằm trong sự phụ thuộc lẫn nhau.
Các hệ thống đơn vị phân vị do các nhà cảnh quan học xây dựng chủ
yếu dựa trên sự tính toán địa đới và phi địa đới, là những đặc trưng cho tất
cả các đơn vị phân vùng. Đồng thời việc đưa ra một khu vực nào vào một
đơn vị phân vùng này khác là dựa trên sự tính toán những dấu hiệu và đặc
tính khác nhau. Dù khi phân loại các thể tổng hợp có tính tới địa đới và phi
địa đới nhưng các hệ thống vẫn có sự khác nhau về cách sắp xếp thứ tự của
các đơn vị và về cách hiểu của dấu hiệu của từng cấp. Có thể phân biệt ra
một số nhóm sau:
94
1. Nhóm 1:
Hệ thống gồm các đơn vị, trong đó ở bậc phân vùng cao có sự xen kẽ
những đơn vị địa đới và phi địa đới. Đơn vị phân vùng cao nhất là vòng đai.
Thí dụ, hệ thống của Ph.N. Mincov (1959) gồm các đơn vị: Vòng đai - xứ -
đới - khu - dải - vùng.
2. Nhóm 2:
Hệ thế phân vị trong đó tính đến những đặc điểm địa đới cũng như phi
địa đới của các thể tổng hợp, đơn vị cao nhất là đới, trên nền của đới phân
ra khu. Trong hệ thống này không có sự xen kẽ rõ rệt giữa những đơn vị địa
đới và phi địa đới. Thí dụ, hệ thống phân vùng tự nhiên Bắc Kazaxtan
(1960) gồm có: Đới - Xứ - á đới - Miền - Vùng - á vùng.
3. Nhóm 3:
Hệ thống phân vị được xây dựng trên những đặc tính địa đới - phi địa
đới, chúng được tính đồng thời khi phân loại tất cả các khu vực. Đơn vị cao
nhất là xứ. Điển hình là hệ thống của N.A. Gvozdetxki (1960) bao gồm các
đơn vị: Xứ - Đới (ở núi Miền) - Khu - á đới (ở núi là á khu) - Quận - Vùng
- á vùng - Tiểu vùng. (xem trang sau)
95
4. Nhóm 4:
Hệ thống phân vị trong đó tính toán những nhân tố phi địa đới trong sự
hình thành và phân dị của các thể tổng hợp khu vực, những đơn vị này phụ
thuộc nhau. Không có đơn vị phân vị địa đới. Thí dụ hệ thống phân vị của
G.D. Ricter (1969) gồm: Đại lục - Xứ - Khu - Vùng.
Tất cả các hệ thống của các nhóm nêu trên là hệ thống một hàng, đa số
các đơn vị ở các cấp khác nhau đều có tính phụ thuộc nhau, sự phát triển
của những đơn vị nhỏ hơn luôn luôn trên nền của đơn vị lớn hơn. Ngoài ra
còn có hệ thống phân vị hai hàng, ba hàng như của A.G. Isatsenco (1965),
V.I. Prokaep (1967), D.L. Armand (1964)...
Hệ thống của N.I. Mikhailov
(1962)
Lớp vỏ địa lý
Đất liền Đại dương thế giới
Châu lục
Xứ
Đới Miền (ở núi)
Khu
Vùng
Cảnh
Dạng
Diện
Hệ thống của N.A. Gvozdetxki
(1957, 1959, 1960)
Xứ
Đới Miền (ở núi)
Khu
á đới á khu (ở núi)
Khối (quận)
Vùng
á vùng
Tiểu vùng
96
Hệ thống của D.L.Armand (1964)
Lớp vỏ địa lý
Châu lục Vòng
Địa ô Đới
Xứ á đới
Khu
Miền Dải
Khối
Vùng (Cảnh)
Dạng
Diện
Hệ thống phân vị được công nhận và sử dụng rộng rãi là hệ thống phân
vị của N.A. Gvozdetxki. Trong hầu hết các hệ thống đều có những đơn vị
như: Xứ, đới, khu, vùng. Nhưng phạm vi và nội dung của những đơn vị này,
đặc biệt khu và vùng ở nhiều tác giả chưa thống nhất. Theo chuyên khảo
"Phân vùng ĐLTN Liên Xô" (1968) thì có thể xác định các dấu hiệu của
các đơn vị như sau:
* Xứ địa lý tự nhiên tương ứng với một đơn vị sơn văn lớn, phức tạp
nhưng có sự thống nhất do tính đồng nhất của địa cấu trúc lớn (nền bằng
lớn, miền kiến tạo uốn nếp...) quyết định. Nó được đặc trưng bằng sự thống
nhất trong phạm vi rộng của khí hậu (mức độ lục địa của khí hậu, chế độ
khí hậu như lục địa, đại dương, gió mùa...) vai trò tương đối của bình lưu và
các nhân tố bức xạ, tính riêng biệt của phổ địa đới theo chiều ngang. Còn ở
miền núi có một số kiểu cấu trúc của tính phân đới theo chiều cao.
97
* Đới địa lý tự nhiên (theo chiều ngang) là một khoảng không gian với
sự thống trị của một kiểu cảnh quan địa đới nhất định trên miền đất bằng
thoát nước. Đới được phân định ở đồng bằng hay trên các vùng ít bị cắt xẻ
là nơi có biên độ cao tuyệt đối không dáng kể, do đó quy luật tính đai cao
không biểu hiện. Đới là một đơn vị phân vùng ĐLTN phân ra trong một xứ
nên có những đặc điểm chung về địa cấu trúc và sơn văn địa mạo.
* Miền địa lý tự nhiên (ở miền núi) là đơn vị phân vị của lãnh thổ miền
núi, tương đương về cấp (hàng) với đới ở đồng bằng. Đây là một lãnh thổ
được phân lập về mặt sơn văn hoặc là được phân biệt rõ rệt với những khu
vực bên cạnh về mặt cấu trúc sơn văn, nó tương ứng với cấu trúc kiến tạo
lớn, phức bối tà lớn, phức hướng tà lớn) hay là một phần của đới kiến tạo
được đặc trưng bởi một chiều hướng nhất định của sự phát triển kiến tạo
mới quyết định sự phân dị của cảnh quan.
* Khu địa lý tự nhiên (hay tỉnh), là một đơn vị bạc trung gian, ở đồng
bằng là một phần của đới, khác với khu bên cạnh về những nét chủ yếu của
cấu tạo địa chất và những đặc điểm địa mạo, tính chất vận động kiến tạo
mới, mức độ biểu hiện của chế độ khí hậu đặc trưng cho xứ nói chung và
phù hợp với đới nói riêng. ở miền núi, nó là bộ phận của miền, khác biệt
với khu bên cạnh về cấu trúc của tính địa đới theo chiều cao.
* Vùng địa lý tự nhiên có cấu trúc địa chất, địa hình tương đối đồng
nhất cũng như cấu trúc của đai cao (A.E. Pheđina - 1973). Nhiều nhà địa lý
xem vùng ĐLTN là đồng nhất với cảnh quan địa lý.
iv. các phương pháp phân vùng địa lý tự nhiên
Theo A.G. Isatsenco phương pháp phân vùng là toàn bộ các thủ thuật
và phương pháp dùng để phân chia và nêu đặc trưng của các đơn vị phân
vùng nhằm đạt được những kết quả đồng nhất, đáp ứng yêu cầu của nguyên
tắc phân vùng là vạch ra và họa đồ được các tổng thể ĐLTN. Quá trình
phân vùng bao gồm các giai đoạn: lựa chọn tài liệu thực tế, phân tích và
khái quát chúng theo các yêu cầu nguyên tắc của phân vùng, phân chia các
bậc khác nhau và đưa chúng lên bản đồ, xây dựng các bản chú giải cho các
98
đơn vị phân vùng. Trong quá trình phân vùng, có thể áp dụng nhiều phương
pháp kết hợp và bổ sung cho nhau.
* Các phương pháp cổ truyền gồm:
- Phương pháp chồng xếp bản đồ: phân vùng ĐLTN bằng cách chồng
xếp các bản đồ đồng phân vùng bộ phận như phân vùng địa mạo, phân
vùng thổ nhưỡng... Bằng cách như vậy, người ta tìm được "nhân" của các
vùng địa lý tự nhiên, xen xét sự quan hệ giữa các thành phần nếu khít người
ta sẽ vạch được ranh giới của chúng.
- Phương pháp phân tích nhân tố trội: Nhân tố trội là nhân tố quyết
định sự cá biệt hóa của mỗi đơn vị địa lý tự nhiên, phương pháp này phân
chia mỗi đơn vị phân vị của phân vùng theo một thành phần nào đó. Thí dụ,
các đới theo các chỉ tiêu khí hậu - sinh vật thông qua chỉ tiêu cân bằng
nhiệt ẩm dựa trên chỉ số khô hạn, chia các xứ theo kiến tạo, chia các khu
theo địa hình, chia các vùng theo nham thạch... Tuy vậy phương pháp nhân
tố trội đang được bàn cãi, chưa thống nhất.
- Phương pháp phân tích quan hệ trội: Xuất phát từ quan điểm giữa
các thành phần ĐLTN có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, A.G. Isetsenco
nói "không có yếu tố trội mà phải nghiên cứu tất cả các yếu tố trội", A.E.
Phêđina cũng cho rằng không có yếu tố trội trong phân vùng mà phải xét
quan hệ trội. Tập hợp những yếu tố trội quyết định quan hệ trội trong mỗi
đơn vị phân vùng, nhưng tùy thuộc từng đơn vị phân vùng quan hệ này thể
hiện khác nhau.
- Phương pháp thực địa: Đóng vai trò quan trọng khi phân chia các
cảnh quan, ở các bậc phân vùng cao hơn chúng chỉ có ý nghĩa bổ trợ.
Các phương pháp hiện đại áp dụng trong phân vùng địa lý tự nhiên như
địa hóa học cảnh quan, địa vật lý cảnh quan, phương pháp sử dụng ảnh viễn
thám (ảnh hàng không và vệ tinh), phương pháp thống kê toán học...
99
Câu hỏi hướng dẫn học tập Phần B
1. Hiểu như thế nào về cảnh quan địa lý? Những dấu hiệu cơ sở nào để có
thể xem cảnh quan là một đơn vị cơ bản của phân vùng địa lý tự nhiên?
2 Hãy phân tích các thành phần của cảnh quan. Hãy phân biệt cấu trúc
thẳng đứng và cấu trúc ngang của cảnh quan địa lý?
3. Thế nào là cấu trúc chức năng của cảnh quan? Trong các kênh liên hệ
giữa các thành phần trong cấu trúc cảnh quan, kênh nào quan trọng nhất,
vì sao?
4. Hãy phân tích câu hỏi của L.X. Bécgơ "Hiểu một cảnh quan đã cho, chỉ
có thể khi ta biết nó đã sinh ra như thế nào và biến đổi theo thời gian
thành cái gì".
5. Hãy phân tích sự phân loại các cảnh quan. Sự phân loại cảnh quan có ý
nghĩa như thế nào trong hoạt động thực tiễn? Lấy ví dụ để chứng minh.
6. Hiểu như thế nào về phân vùng địa lý tự nhiên? Phân vùng địa lý tự
nhiên có ý nghĩa gì?
7. Trong phân vùng địa lý tự nhiên, những nguyên tắc nào đã được áp
dụng? Hãy phân tích và chứng minh việc áp dụng các nguyên tắc đó.
Nêu rõ nguyên tắc nào là quan trọng nhất, vì sao?
8. Những yêu cầu nào cần được đáp ứng trong một hệ thống các đơn vị
phân vùng địa lý tự nhiên. Sự khác nhau giữa các hệ thống đó?
9. Hãy nêu và phân tích các phương pháp đã được áp dụng trong phân vùng
địa lý tự nhiên.
100
tài liệu tham khảo
1. D.L. Armand: Khoa học về cảnh quan
Bản dịch Nguyễn Ngọc Sinh, Nguyễn Xuân Mậu
Nxb Khoa học và kỹ thuật, HN 1983
2. Nguyễn Dược và NNK
Hỏi đáp về địa lý - Nxb Giáo dục, HN 1994
3. A.G. Isatsenco
Cơ sở cảnh quan học và phân vùng địa lý tự nhiên.
Bản dịch Vũ Tự Lập, Trịnh Sanh, Nguyễn Phi Hạnh, Lê Trọng Túc -
Nxb Khoa học, HN 1969
4. A.G. Isatsenco:
Địa lý học ngày nay
Bản dịch Đào Trọng Năng - Nxb Giáo dục, HN 1985
5. X.V. Kalexnik:
những quy luật địa lý chung của Trái Đất
Bản dịch Đào Trọng Năng - Nxb KH&KT, HN 1978
6. Đặng Duy Lợi, Lê Thị Hợp:
Cơ sở địa lý tự nhiên
ĐHSP Hà Nội I, 1994
7. Vũ Tự Lập:
Cảnh quan địa lý miền Bắc Việt Nam
Nxb Khoa học và Kỹ thuật - HN 1976.
8. A.E. Phêđina:
Phân vùng địa lý tự nhiên
Tài liệu dịch - ĐHSP Hà Nội I, 1973.
9. L.P. Subaev:
Địa lý tự nhiên đại cương. T2, T3
Bản dịch Đào Trọng Năng - Nxb Giáo dục, Hà Nội 1982.
101
10. Lê Bá Thảo (chủ biên) và NNK:
Cơ sở địa lý tự nhiên - T1, T2, T3
Nxb Giáo dục - HN 1987, 1988.
102
Mục lục
Lời tựa 3
Phần a - các quy luật địa lý chung của trái đất 5
Chương i quy luật về tính thống nhất và hoàn chỉnh
của lớp vỏ địa lý 7
I. Mối quan hệ tương hỗ giữa các thành phần của lớp vỏ địa lý 7
II. Một số ví dụ về mối quan hệ tương hỗ giữa các thành phần của lớp vỏ
địa lý 9
chương ii: quy luật về sự tuần hoàn vật chất và
năng lượng trong lớp vỏ địa lý 13
I. Vòng tuần hoàn của các nguồn năng lượng trong lớp vỏ địa lý 13
II. Vòng tuần hoàn của vật chất trong lớp vỏ địa lý 14
III. Nhận xét chung về sự tuần hoàn 27
chương iii: quy luật về các hiện tượng có nhịp điệu
trong lớp vỏ địa lý 30
I. Khái niệm về nhịp điệu 30
II. Phân loại các nhịp điệu 31
III. Những nhận xét chung và giá trị thực tiễn của quy luật về
tính có nhịp điệu 38
chương iv: quy luật địa đới và phi địa đới 41
I. Quy luật địa đới 41
II. Quy luật phi địa đới 64
103
phần b - cảnh quan học 71
chương i: cảnh quan địa lý 72
I. Khái niệm cảnh quan địa lý 72
II. Các dấu hiệu của cảnh quan 73
III. Thành phần và cấu trúc cảnh quan 75
IV. Sự phát triển của cảnh quan 83
V. Phân loại các cảnh quan 85
chương ii: Phân vùng địa lý tự nhiên 87
I. Khái niệm phân vùng địa lý tự nhiên 87
II. Các nguyên tắc cơ bản của phân vùng địa lý tự nhiên 88
III. Hệ thống các đơn vị phân vị 91
IV. Các phương pháp phân vùng địa lý tự nhiên 95
tài liệu tham khảo 98
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_cac_quy_luat_dia_ly_chung_cua_trai_dat_canh_quan_hocp2_8334.pdf