Mỗi nhân tố nêu trên lại phụ thuộc vào vị trí địa lý của địa phương (vĩ
độ, độ cao trên mực nước biển) và đặc tính của bề mặt Trái Đất. Vĩ độ quy
định độ lớn của dòng bức xạ mặt trời. Sự thay đổi theo độ cao kéo theo sự
thay đổi nhiệt độ và áp suất không khí, lượng ẩm trong không khí và các
điều kiện vận động của gió. Đặc tính của bề mặt trái đất như đại dương, đất
nổi, các dòng biển nóng và lạnh, lớp phủ thực vật, thổ nhưỡng, băng tuyết.
đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với cán cân bức xạ. Sự lưu thông của không
khí và tuần hoàn nước.
Bởi vì các nhân tố hình thành khí hậu (ngoài địa hình và sự phân bố đất
và biển) đều có khuynh hướng địa đới cho nên sự phân bố khí hậu trên Trái
Đất mang tích chất địa đới
70 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 661 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình các quy luật địa lý chung của tráI đát cảnh quan học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình phong hóa hình thành đất; các kiểu thảm
thực vật; các dạng sinh sống của động vật và thực vật... Các đặc điểm địa
hóa của cảnh quan cũng mang tính địa đới.
Như vậy, sự tồn tại của tính địa đới trên địa cầu hoàn toàn do các
nguyên nhân hành tinh vũ trụ gây nên. Song tính địa đới có cơ chế rất phức
tạp, các hình thức thể hiện của nó lại do bản chất của chính lớp vỏ địa lý
quyết định. Tính địa đới sẽ có nội dung cụ thể trong những điều kiện đặc
thù của lớp vỏ địa lý với cấu tạo phức tạp và thành phần vật chất phong phú
của nó (A.G.Isatsenkô, 1979). Do vậy trong thực tế các đới không phải là
44
những dải liên tục mà thường bị đứt đoạn và không phải bao giờ cũng
hướng dọc theo vĩ tuyến, các ranh giới có dạng không đều đặn và chuyển
tiếp từ đới này sang đới khác lúc thì đột ngột, lúc thì từ từ.
Càng cách xa bề mặt Trái Đất (lên bên trên hay xuống bên dưới), tính
đới càng yếu dần. Ví dụ, ở các khu vực sâu thẳm của các đại dương, khắp
nơi đều có nhiệt độ thường xuyên thấp (từ -0,5oC đến +4oC ), ánh sáng mặt
trời không thâm nhập đến đó. Tính địa đới cũng bị giảm đi ở các lớp cao
khí quyển. Những khác nhau về tính địa đới mất đi một cách nhanh chóng
ở trong vỏ Trái Đất, thí dụ: những dao động nhiệt độ giữa ngày đêm và giữa
các mùa trong năm chỉ bao chiếm lớp đá không dày quá 15 - 30m, ở bên
dưới độ sâu này càng xuống sâu nhiệt càng tăng, điều này liên quan đến
nguồn năng lượng bên trong lòng Trái Đất.
2. Sự phân bố nhiệt trên Trái Đất: Các vòng đai nhiệt
Trong sự hun nóng Trái Đất bởi Mặt Trời có hai cơ chế cơ bản: 1-
Năng lượng Mặt Trời truyền qua khoảng không gian vũ trụ đến Trái Đất
dưới hình thức năng lượng của các tia; 2- Năng lượng của các tia được hấp
thụ bởi Trái Đất biến thành nhiệt.
Quy luật cơ bản của phân bố nhiệt trên Trái Đất là tính đới. Có thể vạch
ra một cách sơ lược các vòng đai nhiệt: Trong vòng đai nằm giữa các chí
tuyến, mỗi năm mặt trời hai lần qua thiên đỉnh, sự khác nhau về độ dài giữa
ngày và đêm không lớn, dòng nhiệt trong cả năm lớn và tương đối đều.
Giữa các cực và vòng cực, ngày đêm có thể kéo dài thành những thời kỳ
lớn, vào mùa đông là sự hóa lạnh mạnh mẽ bởi vì dòng nhiệt hoàn toàn
không có, nhưng trong mùa hạ sự hun nóng cũng không đáng kể do mặt
trời đứng thấp trên đường chân trời và sự mất nhiệt bởi sự phản xạ của
tuyết, bởi chi phí cho băng tan. Các vòng đai ôn hòa nằm giữa các chí
tuyến và các vòng cực, do mặt trời đứng cao về mùa Hạ và thấp về mùa
Đông nên sự dao động nhiệt độ trong năm khá lớn.
Tuy nhiên chí tuyến và các vòng cực không thể coi là giới hạn tự nhiên
của các vòng đai nhiệt trên Trái Đất bởi vì sự phân bố nhiệt độ trên Trái
45
Đất không chỉ do hình dạng và vị trí của Trái Đất so với Mặt Trời quyết
định mà còn chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như sự phân bố lục địa và
biển, địa hình, độ cao địa phương trên mực nước biển, các dòng biển nóng
và lạnh, các dòng khí... Vì vậy, người ta lấy các đường đẳng nhiệt hàng
năm làm ranh giới cho các vòng đai nhiệt.
Có 7 vòng đai nhiệt:
- Vòng đai nóng nằm giữa hai đường đẳng nhiệt năm +20oC của Bắc
bán cầu và Nam bán cầu, nằm trong khoảng giữa vĩ độ 30oB và 30oN. Nhiệt
độ trung bình năm biến đổi trong phạm vi 26oC ở xích đạo đến 20oC ở chí
tuyến.
- Hai vòng đai ôn đới, giới hạn về phía xích đạo là đường đẳng nhiệt
+20oC và về phía cực là đường đẳng nhiệt +10oC của tháng nóng nhất.
- Hai vòng đai lạnh ở các vĩ độ cận cực, giới hạn về phía xích đạo là
đường 10oC, phía cực là đường đẳng nhiệt 0oC của tháng nóng nhất.
- Hai vòng đai băng giá vĩnh cửu bao quanh cực, ở đây nhiệt độ bất cứ
tháng nào trong năm cũng đều dưới 0oC. ở Bắc bán cầu là miền Greenland
và không gian xung quanh cực, ở Nam bán cầu miền đó là toàn bộ khu vực
phía Nam vĩ tuyến 60oN.
3. Hình thế khí áp và hệ thống các loại gió
Trong trường khí áp trên Trái Đất thể hiện sự phân bố theo đới của khí
áp, đối xứng ở hai bán cầu. Vòng đai khí áp cao, phân bố ở các vĩ tuyến cận
nhiệt 30 O - 35o của hai bán cầu và ở hai cực. Các đới cận nhiệt biểu lộ khí
áp cao suốt năm, tuy nhiên vào mùa Hạ do sự hun nóng không khí trên các
đại lục nên chúng bị đứt đoạn và khi đó trên đại dương các khí xoáy tản
riêng biệt tự đứng tách ra: ở Bắc bán cầu là các khí xoáy tản Bắc Đại Tây
Dương và Bắc Thái Bình Dương; ở Nam bán cầu là các khí xoáy tản Nam
Đại Tây Dương, Nam ấ n Độ Dương, Nam Đại Tây Dương.
46
Vòng đai khí áp thấp phân bố ở các vĩ tuyến 60o - 65o của hai bán cầu
và ở đới xích đạo. Khu áp thấp xích đạo bền vững suốt năm, có bộ phận
trục trung bình ở gần vĩ độ 4oB.
ở các vĩ độ trung bình của Bắc bán cầu, trường khí áp nhiều vẻ và hay
thay đổi, bởi vì ở đây có các đại lục rộng lớn xen kẽ với các đại dương. ở
Nam bán cầu với bề mặt nước đại dương có tính chất đồng nhất hơn nên
trường khí áp ít thay đổi.
Phù hợp với hình thể khí áp, trên địa cầu tồn tại các đới gió sau:
Sơ đồ 8: sơ đồ về sự phân bố theo đới của các dòng khí trên địa cầu
- Vòng đai lặng gió cận xích đạo. Gió tương đối hiếm (bởi vì vận động
đi lên của không khí bị hun nóng mạnh mẽ thống trị) và khi thì xảy ra gió
giật.
- Các đới tín phong hướng ĐB ở bắc bán cầu và Nam bán cầu.
- Các miền đứng gió ở trong các xoáy tản của vòng đai cận nhiệt đới có
khí áp cao, nguyên nhân là sự thống trị của vận động đi xuống của không
khí.
- Các đới có gió Tây thống trị ở các vĩ độ trung bình của hai bán cầu.
47
- ở các khoảng cận cực, gió Đông thổi từ cực về phía các vùng khí áp
thấp của vĩ độ trung bình.
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của sự tương phản nhiệt độ giữa đất và biển,
giữa Bắc và Nam bán cầu, xuất hiện gió mùa... nên trong thực tế sự lưu
thông thực tế của không khí phức tạp hơn sơ đồ trình bày ở trên. Ngoài sự
lưu thông theo đới còn có kiểu lưu thông theo kinh tuyến của các khối
không khí từ vĩ độ cao tới các vĩ độ thấp và ngược lại.
4. Sự phân bố theo đới của mưa và bốc hơi
Sự phân bố địa lý của mưa bị chi phối bởi: a) bức xạ mặt trời và những
thuộc tính của các khối khí và khối nước; b) hoàn lưu của khí quyển và
thủy quyển, và c)Vị trí theo vĩ độ, độ lớn, địa hình và hình dạng của lục
địa. Tuy mưa là một trong những thành phần hay thay đổi nhất của khí hậu,
nhưng sự phân bố của nó theo đới biểu hiện rõ. Người ta đã vạch ra những
đới sau:
* Nhiệt đới ẩm ướt: Vào khoảng từ 17o vĩ Bắc đến 20o vĩ Nam, gồm
miền Amazônas, Trung Phi, miền rừng rậm nhiệt đới ở sườn Nam
Hymalaya, quần đảo Sunda, Newguinea. Hầu như khắp nơi lượng mưa rơi
trên 750 - 1.000 mm nhiều nơi trên 2.000 mm. Lượng mưa lớn ở đây là do
một lượng hơi nước được đưa đến đây từ các đới chí tuyến và sự thăng lên
của không khí ở vùng xích đạo. Lượng mưa lớn nhất thấy ở vùng Sêrapunji
trên sườn của dãy núi Khassi ở Hymalaya, ở đây do sự phối hợp của sự lưu
thông không khí và các điều kiện sơn văn, lượng mưa trung bình 12.665
mm/năm.
* Các vòng đai chí tuyến: Từ 20o đến 32o của hai bán cầu, được đặc
trưng bởi sự thống trị của không khí khô. ở đây tồn tại hai vòng đai hoang
mạc. Sự tồn tại của các đới này được quy định bởi ưu thế của vận động đi
xuống của không khí ở các xoáy tản. Đặc biệt ít mưa là ở bờ Tây các lục
địa bị bao quanh bởi các dòng biển lạnh, sự phân tầng của nhiệt độ không
thuận lợi cho sự hình thành mưa. Trong các đới khô khan này tập trung
48
những hoang mạc rộng lớn nhất địa cầu, lượng mưa ít hơn 200 mm/năm,
hoang mạc Pêru và Libi nhiều năm liền không mưa.
* Các đới ẩm ướt của các vĩ độ trung bình, giữa các vĩ độ 40o và 60o
Bắc và Nam, đạt cực đại thứ hai, lượng mưa trung bình 560 - 860 mm, ở
các miền núi và ven biển có thể đạt 3.000 mm. Sự phong phú mưa ở đây do
gió Tây, hoạt động của xoáy thuận, sự thăng lên của không khí ở các front
Bắc Cực và ôn đới. Các bờ Tây lượng mưa phong phú hơn bờ Đông vì thành
phần gió Tây đóng vai trò thống trị. Tuy vậy, ở bộ phận nội địa á âu và
Bắc Mỹ nghèo ẩm do càng đi sâu vào lục địa lượng mưa càng giảm.
* ở ngoài các vòng cực của hai bán cầu với lượng mưa ít, trung bình
200 - 250 mm/năm. Sự nghèo mưa ở các vĩ độ cao này do nhiệt độ không
khí thấp, lượng chứa hơi nước ít của không khí lạnh, bốc hơi không đáng kể
và hoàn lưu xoáy nghịch gây ra.
Để xác định mức độ ẩm ướt thực tế của các nơi trên bề mặt Trái Đất thì
không thể chỉ biết đến tổng lượng mưa mà còn phải biết khả năng bốc hơi
nữa, bởi vì cùng một lượng mưa như nhau, nhưng khả năng bốc hơi khác
nhau thì mức độ ẩm sẽ khác nhau. N.N.Ivanôv (1948) dựa trên hệ số độ
ẩm: K = r/E để vạch ra cảnh tượng địa đới, trong đó r là lượng mưa và E là
khả năng bốc hơi trong cùng một thời kì. Các miền hoang mạc cận cực và
đài nguyên với độ ẩm thường, hệ số độ ẩm hàng năm K > 1,5. ở vòng đai
ôn hòa độ lớn K giảm dần từ đới rừng Taiga (K= 1,49 - 1, độ ẩm đầy đủ)
tới đới hoang mạc (K= 0,12 - 0, độ ẩm không đáng kể) qua các đới thảo
nguyên - rừng (0,99 - 0,60), thảo nguyên (0,59 - 0,30) và nửa hoang mạc
(0,29 - 0,13). K cũng có những thay đổi tương tự ở các vĩ độ cận nhiệt và
nhiệt đới khi chuyển từ rừng ẩm ướt (K > 1,50) qua các miền rừng ưa khô
(0,99 - 0,60) và các xavan (0,59 - 0,30) tới các miền hoang mạc (0,29 -
0,13).
5. Các đới khí hậu trên Trái Đất
Trong sự hình thành khí hậu có sự phối hợp hoạt động của nhiều nhân
tố tự nhiên, trong đó các nhân tố chủ yếu là: a) sự thu chi năng lượng của
49
tia bức xạ mặt trời, b) sự lưu thông của không khí có tác dụng phân bố lại
nhiệt ẩm, c) sự tuần hoàn của nước (thực tế không tách rời sự lưu thông của
không khí). Sự lưu thông của không khí và sự tuần hoàn của nước sinh ra
bởi sự phân bố nhiệt trên địa cầu, nhưng chúng lại có ảnh hưởng trở lại đối
với các điều kiện nhiệt của Trái Đất. Như vậy, có thể thấy các nguyên nhân
và các hậu quả xoắn lại với nhau rất mật thiết, cho nên phải coi cả ba nhân
tố trên như một thể thống nhất.
Mỗi nhân tố nêu trên lại phụ thuộc vào vị trí địa lý của địa phương (vĩ
độ, độ cao trên mực nước biển) và đặc tính của bề mặt Trái Đất. Vĩ độ quy
định độ lớn của dòng bức xạ mặt trời. Sự thay đổi theo độ cao kéo theo sự
thay đổi nhiệt độ và áp suất không khí, lượng ẩm trong không khí và các
điều kiện vận động của gió. Đặc tính của bề mặt trái đất như đại dương, đất
nổi, các dòng biển nóng và lạnh, lớp phủ thực vật, thổ nhưỡng, băng tuyết...
đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với cán cân bức xạ. Sự lưu thông của không
khí và tuần hoàn nước.
Bởi vì các nhân tố hình thành khí hậu (ngoài địa hình và sự phân bố đất
và biển) đều có khuynh hướng địa đới cho nên sự phân bố khí hậu trên Trái
Đất mang tích chất địa đới.
L.X.Becgơ (1938) đã lấy nguyên tắc của tính địa đới làm cơ sở cho sơ
đồ phân loại của mình. Ông đã phân chia ra 12 kiểu khí hậu mang tính chất
địa đới: 1- băng giá quanh năm, 2- đài nguyên, 3- taiga, 4- rừng ôn đới, 5-
gió mùa ở các vĩ độ ôn đới, 6- thảo nguyên, 7- hoang mạc ngoại chí tuyến,
8- Địa Trung Hải, 9- rừng cận nhiệt đới, 10- hoang mạc chí tuyến, 11-
xavan, 12- rừng nhiệt đới ẩm ướt (xích đạo).
Dựa trên nguyên tắc phát sinh, B.P.Alixôv (1952) đã phân chia khí hậu
trên Trái Đất thành 7 đới: 1- đới khí hậu cực, 2- đới khí hậu cận cực, 3- đới
khí hậu ôn đới, 4- đới khí hậu cận nhiệt đới, 5- đới khí hậu nhiệt đới (chí
tuyến), 6- đới khí hậu cận xích đạo, 7- đới khí hậu xích đạo. Do tác động
của các trung tâm hoàn lưu chung của khí quyển, ảnh hưởng của sự phân
bố đất biển, các dòng biển... nên ở một số đới lại được chia thành một số
kiểu khí hậu khác. Ví dụ: đới khí hậu ôn đới phân thành các kiểu chính sau:
50
a) kiểu khí hậu ôn đới hải dương ở bờ Tây lục địa. b) kiểu khí hậu ôn đới
chuyển tiếp. c) kiểu khí hậu lục địa có rừng (khí hậu rừng Taiga), d) khí
hậu thảo nguyên khô và hoang mạc ôn đới, e) kiểu khí hậu ôn đới gió mùa
ở bờ Đông lục địa.
Sơ đồ 9: Sơ đồ về nguyên tắc phân bố các loại khí hậu trên các lục địa
ở bán cầu bắc.
6. Tính địa đới của các quá trình thủy văn
Tính địa đới khí hậu để lại những dấu vết rõ rệt qua các quá trình thủy
văn. Các dạng tính địa đới của thủy văn rất nhiều vẻ. Tính địa đới về chế độ
nhiệt của nước liên quan với sự phân bố nhiệt trên Trái Đất. Sự khoáng hóa
và mực nằm sâu của nước ngầm đều có những nét địa đới, như nước cực
nhạt và nằm gần ngay bề mặt đất ở đài nguyên và các miền rừng xích đạo,
nước lợ và mặn có mực nằm sâu ở các hoang mạc và bán hoang mạc.
Mối tương quan địa đới giữa các loại dòng chảy khác nhau cũng biểu
hiện rõ: ở vành đai băng hà dòng chảy dưới hình thức vận động của băng hà
và tuyết lở; ở đài nguyên dòng chảy trong thổ nhưỡng chiếm ưu thế và dòng
trên mặt thuộc kiểu đầm lầy; ở đới rừng dòng nước ngầm thống trị; ở các
thảo nguyên và bán hoang mạc vai trò dòng mặt trên sườn chiếm ưu thế; ở
51
hoang mạc dòng chảy hầu như không có.
Sự phân hóa của các đặc trưng thủy văn cũng theo quy luật địa đới. Sự
phân hóa này khá phức tạp, thể hiện qua hai đại lượng cơ bản môđul dòng
chảy và hệ số dòng chảy. Về môđul dòng chảy nhìn chung là giảm dần từ
xích đạo về phía hai cực theo lượng mưa, trong đó giảm mạnh nhất là ở các
miền khí hậu khô hạn của vùng chí tuyến. Ví dụ: môđul dòng chảy của
sông Amazôn tại cửa sông là 20 lít/s - km2, của sông Côngô tại Leopodville
là 11,6 lít/s - km2, của sông Nil tại Vadihalfa là 0,93 lít/s - km2 và ở cửa
sông là 0,55 lít/s - km2, của sông Hoàng Hà tại Khai Phong là 2,01 lít/s -
km2, của Vônga tại Vôngagrat là 6,1 lít /s - km2, của sông Mississipi tại cửa
sông là 5,9 lít/s - km2, của sông Lenissei tại Igarka là 7,3 lít/s - km2. Ngược
lại, hệ số dòng chảy lại có xu hướng tăng dần xích đạo về phía hai cực,
trong đó cũng giảm mạnh tại các vùng vĩ độ khô hạn: hệ số dòng chảy của
sông Amazôn là 0,3 của sông Nil là 0,1, của sông Sir Daria là 0,05, của
sông Amu Daria là 0,04, của sông Vônga là 0,17, của sông Ôbi là 0,65 của
sông Ienisei là 0,75. Riêng chế độ nước sông lại biến đổi có tính chất chu
kỳ; ở xích đạo là chế độ phức tạp, nhiệt đới là khá phức tạp, vùng chí tuyến
là đơn giản, sau đó ở vùng ôn đới nóng lại phức tạp, ôn đới lạnh là khá
phức tạp vùng chí tuyến là đơn giản, sau đó ở vùng ôn đới nóng lại phức
tạp, ôn đới lạnh là khá phức tạp và hàn đới là đơn giản.
7. Tính địa đới của các quá trình địa hóa
Các quá trình địa hóa, trong đó có cường độ hoà tan các đá, các phản
ứng oxy hóa và khử oxy, sự chuyển động của các dung dịch nước trong đất,
tốc độ di chuyển của các nguyên tố hóa học từ trong lớp vỏ phong hóa ra
đều mang dấu vết tính địa đới theo vĩ độ. Sự hình thành các khoáng thứ
sinh, các kiểu vỏ phong hóa khác nhau có liên quan đến các quá trình trên.
Tính chất kiềm, axit của dung dịch nước trong cảnh quan, thành phần
cation trao đổi trong đất... là do các quá trình địa hóa gây nên.
Trong đới đài nguyên các quá trình địa hóa yếu nên lớp vỏ phong hóa
thô, các khoáng nguyên sinh ít bị biến đổi: dung dịch thổ nhưỡng có độ
chua cao do có các ion H+ và Fe++.
52
ở đới rừng Taiga các quá trình địa hóa xảy ra cùng với vai trò tích
cực của các axit hữu cơ (axit mùn), sự di chuyển của các dung dịch chủ yếu
là đi xuống nên các nguyên tố canxi, natri, manhê... bị lôi cuốn đi một cách
mạnh mẽ, tạo nên lớp vỏ phong hóa Sialit bao gồm chủ yếu từ hỗn hợp của
các hydrat SiO2, Al2O3 và Fe2O3. Ion phân loại chính của Taiga là H
+, trong
đất thiếu canxi làm cho môi trường chua.
Trong đới thảo nguyên lại có sự luân phiên của các dòng đi lên và
dòng đi xuống của nước ở trong đất theo mùa, các axit mùn có một vai trò
quan trọng trong việc phá hủy các đá nguyên sinh. Các sản phẩm phong
hóa có đặc tính xốp bở, chủ yếu là phong hóa Sialit giàu cacbonat canxi và
manhê. Sự tồn tại của canxi trong phức hệ hấp thu của keo đất quyết định
phản ứng trung tính hoặc kiềm yếu của dung dịch đất, tạo điều kiện phát
triển cho đất và tăng độ phì của đất.
Đặc trưng đối với đới hoang mạc là chuyển động đi lên của nước
trong đất theo kiểu nước tiết dịch, vai trò của các chất hữu cơ trong các quá
trình địa hóa không đáng kể. ở đây các sản phẩm phong hóa sét - cát được
hình thành và xảy ra tích lũy các muối Clorua và Sufat natri, canxi và
manhê. Phức hệ hấp thu chủ yếu là Na+, Cl- và phần nào có cả Ca++. Dung
dịch đất có phản ứng kiềm.
ở các miền nhiệt đới và cận nhiệt đới ẩm ướt, do sự phong phú nhiệt
và ẩm, phong hóa vật lý và hóa học đều tiến triển mạnh mẽ. Đặc điểm nổi
bật là tuần hoàn sinh vật và sự di chuyển các nguyên tố hóa học theo nước
có cường độ lớn nhất. ở đây các nguyên tố canxi, manhê, natri, kali và cả
silic bị rữa trôi mạnh mẽ, các thành phần ít di động hơn như sắt, alumin,
titan ở lại trong đất và vỏ phong hóa làm cho chúng có màu đỏ vàng. Kiểu
vỏ phong hóa là là kiểu Sialic - ferit và alit, các thành phần tiêu biểu là H,
Al, Si, Mn, Fe, các hợp chất tiêu biểu là các hydrat Al2O3, Fe2O3, SiO2,
latêrit, bôcxit và cao lanh. Các sản phẩm phong hóa quanh năm ở tình trạng
di động.
53
8.Tính địa đới của sự phân bố thổ nhưỡng
Kiểu hình thành thổ nhưỡng được quy định bởi khí hậu và đặc tính thực
vật. Phù hợp với tính địa đới của hai nhân tố này, sự phân bố thổ nhưỡng
trên trái đất cũng theo các đới. V.V.Đôcusaép (1846 - 1903), nhà thổ
nhưỡng người Nga, đã xác định quy luật này, học thuyết về tính địa đới của
ông về sau được phát triển trong các công trình của L.X. Bécgơ và gần đây
là L.I. Praxôlốp và I.P. Ghêaximôv.
ở miền cực sự hình thành thổ nhưỡng trong điều kiện nhiệt độ thấp,
thực vật thưa thớt chủ yếu rêu và địa y. Các đới đất điển hình là đới đất Bắc
cực và đại nguyên. Quá trình phong hóa yếu, tầng gơlây hóa phát triển
mạnh, phẫu điện đất mỏng.
ở vùng ôn đới lạnh với khí hậu ôn đới lạnh ôn hòa, có độ ẩm cao,
lượng mưa vượt quá lượng bốc hơi, thực vật rừng lá kim chiếm ưu thế vì thế
người ta gọi tên chung cho các loại đất đới này là "đất đới rừng Taiga" hay
đất pốtzôn. Đới đất pốtzôn bao gồm đất pốtzôn hóa có gơlây, đất pốtzôn,
đất pốtzôn mọc cỏ thứ cấp... Do lượng mưa lớn hơn bốc hơi vì vậy đất bị
rữa mòn mãnh liệt, vật chất dễ bị hòa tan bị mang đi khỏi tầng trên và tích
đọng ở tầng bên dưới, sự phân hóa các tầng phát sinh trong phẫu diện rõ,
đặc biệt là tầng rữa trôi A2. Đới đất pốtzôn tương ứng với đới rừng lá kim.
Đất pốtzôn mọc cỏ thứ cấp phát sinh ở các miền rừng hỗn hợp với lớp phủ
cỏ ở phía nam, đất này giàu mùn hơn bởi vì cỏ và rừng lá rộng có chứa
nhiều canxi hơn rừng lá kim, canxi tạo điều kiện cho sự tích tụ mùn và
chống rửa trôi mùn trong đất.
ở vùng ôn đới ẩm, ẩm (hải dương) hình thành đất nâu, đất rừng xám
dưới thực vật rừng lá rộng chủ yếu sồi, dẻ. Khí hậu ở đây thuận lợi cho việc
phân hủy khoáng vật nguyên sinh của đất với sự hình thành các khoáng vật
sét thứ sinh illit, môngmôriônit, hydrat ôxit sắt, nhôm tự do.
Vùng thảo nguyên ôn đới loại đất đen (sécnôdiom) giàu mùn được
hình thành trong điều kiện khí hậu ôn đới lục địa nửa khô hạn dưới tác
dụng của thực bì cỏ họ hòa thảo. Do lượng mưa kém lượng bốc hơi nên đất
54
đen bị rữa mòn yếu, phẫu diện không đầy đủ các tầng phát sinh. Thể tổng
hợp hấp thu của đất bảo hòa canxi (do đá mẹ giàu canxi) và thực vật thân
cỏ chết đi hàng năm vào mùa khô cung cấp cho đất một lượng lớn chất hữu
cơ vì thế đất rất giàu mùn.
ở các vùng bán hoang mạc phổ biến là đất hạt dẻ màu sáng, đất bán
hoang mạc màu nâu, đất hoang mạc nâu xám. Chúng thường kết hợp với
các vệt đất sét nứt nẻ và các khối cát. Tầng đất mỏng, lớp phủ thực vật thưa
thớt nên đất ít mùn, nước ngầm là nguồn cung cấp nước cho đất nên đất có
chứa nhiều chất muối, các loại đất bị muối hóa, phổ biến như đất xôlốt, đất
xôlônét và đất xôlônsăc.
Vùng rừng cận nhiệt đới ẩm thường xanh phổ biến là đất màu vàng
nâu, đất đỏ và vàng. Trong điều kiện khí hậu nửa khô hạn của đới cận nhiệt
phổ biến là đất nâu của rừng ưa hạn và rừng cây bụi. ở vùng hoang mạc
cận nhiệt là các loại đất xám cận nhiệt khô và đất nâu xám hoang mạc.
ở miền nhiệt đới ẩm mặc dù có nhiều vật chất hữu cơ rơi rụng vào
đất nhưng do nhiệt và ẩm phong phú suốt năm nên sự khoáng hóa chất hữu
cơ mạnh nên mùi ít tích đọng trong đất, sự rữa trôi các bazơ, axít phunvít
chiếm ưu thế trong chất hữu cơ, lượng khoáng nguyên sinh thấp, lượng
hydrôxit sắt, nhôm và titan khá nhiều. Trong hoàn cảnh đó đất feralít đỏ
vàng được hình thành. ở các miền nhiệt đới có độ ẩm thay đổi theo mùa
hình thành đất feralit màu đỏ. ở các vùng đồng cỏ cao hình thành loại đất
đỏ nâu. Lớp phủ thổ nhưỡng ở các hoang mạc nhiệt đới chủ yếu là các
hoang mạc đá, hoang mạc cát, quá trình hình thành đất sơ sinh, đất muối
xôlônsăc phổ biến, nhiều khu vực lộ ra vỏ phong hóa laterit cổ.
9. Tính địa đới của các kiểu thảm thực vật
Tính thích nghi là bằng chứng về mối liên hệ mật thiết giữa các sinh
vật và môi trường sinh sống của chúng. Sự hình thành các quần xã thực vật,
thành phần loài và cấu trúc thành tầng tán của chúng, thể tổng hợp các đặc
điểm hình thái và sinh thái được hình thành trong quá trình đấu tranh vì
55
không gian, ánh sáng, nhiệt, ẩm, các hiện tượng ký sinh và cộng sinh và
nhiều hiện tượng khác nữa, tất cả những cái đó chứng minh tính thích nghi
của thực vật với môi trường sống. Thể tổng hợp các thành phần của vỏ cảnh
quan trái đất là môi trường sống đối với thực vật cũng như các sinh vật
khác mang tính địa đới, nên sự phân bố các kiểu quần xã thực vật cũng
mang tính địa đới. Tính địa đới của các kiểu thảm thực vật biểu hiện rõ rệt
nhất nên trong nhiều trường hợp tên gọi các đới cảnh quan được lấy theo
tên các kiểu thảm thực vật đặc trưng. Sự thay đổi tiếp theo nhau của các
kiểu thảm thực vật lớn theo hai hướng từ xích đạo về phía hai cực và từ đại
dương vào sâu trong lục địa như sau:
a. Rừng nhiệt đới ẩm thường xanh (rừng Ghilê) phát triển ở đới xích
đạo có lượng mưa năm rất lớn. Sự phong phú nhiệt ẩm kéo theo sự phong
phú về loài, cấu trúc rừng nhiều tầng (5 tầng), cây cao to xanh quanh năm,
nhiều dây leo và cây phụ sinh.
b. Xavan và rừng gió mùa hình thành ở đới cận xích đạo tùy thuộc vào
thời gian kéo dài mùa ẩm trong năm.
c. Thảm thực vật hoang mạc và bán hoang mạc đặc trưng cho đới chí
tuyến (trừ phạm vị của ô gió mùa). Thực vật gồm các cây bụi nhỏ ưa hạn có
bộ rễ phát triển, lá cứng vỏ dày để tránh bốc hơi nhiều.
d. Trong đới cận nhiệt, thảm thực vật có sự phong hóa từ Đông sang
Tây:
- Rừng cây bụi ưa khô lá cứng phát triển ở phía Tây. ở vùng Địa Trung
Hải có rừng lá cứng mọc xen với các cây bụi cao khác gọi là maki
(Maquis), ở Tây - nam úc rừng này gồm những cây khuynh điệp, các loại
cây keo, bạch đàn dạng bụi có tên gọi là Scrơp (Scrub).
- Thảm thực vật hoang mạc và bán hoang mạc đại diện khu vực trung
tâm lục địa của đới cận nhiệt.
56
- Đới rừng cận nhiệt ẩm ướt phát triển ở bộ phận phía Đông mà điển
hình rừng cây chương (laurier) xanh quanh năm gồm phần lớn là cây phong
tử điệp.
e. ở khí hậu ôn đới:
- Từ Bắc xuống Nam có sự thay thế nhau của các kiểu thảm rừng - thảo
nguyên, thảo nguyên ôn đới với các loại cỏ ưa khô thuộc họ hòa thảo, bán
hoang mạc và hoang mạc. Sự thay thế nhau của các kiểu thảm này tùy
thuộc vào lượng ẩm càng hụt dần khi vào sâu trong nội địa.
- Phía Đông và phía Tây lục địa rừng lá rụng lá phát triển nhờ ảnh
hưởng thuận lợi của đại dương. Những loài cây ở rừng này thường có lá
rộng to bản như sồi, dẻ, phong...
- Quá về phía Bắc của đới, loại rừng lá rộng nhường chỗ cho rừng hỗn
giao và rừng lá kim (rừng taiga).
g. Thảm thực vật khô hạn gồm cây bụi, cỏ, rêu và địa y chiếm ưu thế
trong đới cận cực (đới đài nguyên).
h. ở đới cực, cây cỏ mất dần chỉ còn lại thảm rêu và địa y.
10. Những nét địa đới trong sự hình thành đá trầm tích
Quy luật của sự lắng đọng các đá trầm tích xảy ra trong lớp vỏ địa lý
cũng có tính địa đới bởi vì sự trầm lắng đó phụ thuộc trực tiếp vào chế độ
nhiệt, ẩm, dòng chảy, và giới hữu cơ, trong đó khí hậu có một ý nghĩa to
lớn trong sự hình thành các phức hệ trầm tích nhất định. Muối, cát kết màu
đỏ, bôcxit, đá vôi, san hô tích đọng trong điều kiện khí hậu nóng. Để xuất
hiện cao lanh và sét đọng trong điều kiện khí hậu nóng. Để xuất hiện cao
lanh và sét điểm hình cần phải có khí hậu ẩm. Trầm tích muối, các lớp đá
trầm tích màu đỏ, hoàng thổ là những dấu hiệu của khí hậu khô. Băng tích,
băng vùi là những bằng chứng của khí hậu lạnh.
Tính chất địa đới của trầm tích hồ đã được V.V.Alabưsev mô tả từ năm
1932. N.M.Strakhôv đã xác định ba kiểu địa đới chủ yếu về phát sinh của
các thành tạo đá trầm tích: kiểu băng tuyết, kiểu khô hạn và kiểu ẩm ướt.
57
a. Kiểu băng tuyết:
Sự thành tạo đá trầm tích trong kiểu này phát triển trong điều kiện băng
hà lục địa đới cận cực được đặc trưng bởi sự phá hủy cơ giới các đá, sự vận
chuyển và trầm lắng lại vật liệu băng tích.
b. Kiểu khô hạn:
Phát triển trong các vùng hoang mạc với những điều kiện khí hậu và
địa hóa đặc biệt, nơi lượng bốc hơi vượt quá lượng mưa, nhiệt độ cao kết
hợp với cán cân âm của ẩm, nguồn cung cấp nước chủ yếu từ nước ngầm.
Tác dụng trầm tích trong các bồn nước bị hạn chế, vai trò của gió trở thành
lớn lao. Đá vụn thô, cát kết và sét màu đỏ cùng các thành hệ muối là những
trầm tích đặc trưng của kiểu này. ở các vùng biển các vỉa muối, thạch cao,
đôlômit được hình thành. ở các miền khí hậu khô khan cũng xuất hiện các
mỏ khoáng trầm tích đồng, chì và kẽm.
c. Kiểu ẩm ướt:
Sự thành tạo các đá kiểu ẩm ướt đóng một vai trò quan trọng nhất
trong việc hình thành nên quyển đá trầm tích. Kiểu này xảy ra những miền
khí hậu trong đó lượng mưa lớn hơn bốc hơi, như trong các đới ẩm ướt của
vòng đai ôn đới cận nhiệt, nhiệt đới và xích đạo. ở đó điều kiện nhiệt độ
cho phép nước tồn tại ở trạng thái lỏng ít ra trong thời kỳ ấm của năm.
Trong các điều kiện này tích đọng cuội kết, cát kết, bột kết, sét, đá vôi, đá
silic. ở các miền khí hậu nóng ẩm tích tụ các quặng sắt và nhôm tái trầm
tích, các vỉa than dày, cát thạch anh dùng làm thủy tinh, đất sét trắng chịu
lửa.
11. Tính địa đới của các quá trình hình thành địa hình
Trong quá trình hình thành địa hình trên bề mặt trái đất, các quá trình
nội lực và ngoại lực xảy ra đồng thời và địa hình chính là kết quả của sự tác
động qua lại giữa cả hai quá trình đó. Các quá trình nội lực không bị phụ
thuộc vào tính địa đới địa lý, nhưng các quá trình ngoại lực thì luôn luôn
mang dấu vết của tính địa đới địa lý. Các quá trình ngoại lực xảy ra trên
58
mặt đất hay ở những nơi không sâu dưới mặt đất với nguồn năng lượng chủ
yếu là năng lượng bức xạ mặt trời, đó là các quá trình phong hóa phá hủy
đất đá, xâm thực, vận chuyển, bồi tụ do nước chảy, gió , băng hà, sóng
biển... Tất cả các quá trình đó có tính địa đới và do đó các dạng địa hình
mà chúng tạo ra thuộc loại điêu khắc hình thái (bóc mòn bồi tụ) cũng phân
bố mang tính địa đới trên trái đất.
Trên các đới băng tuyết (các đảo Bắc cực và châu Nam cực) băng hà
và tuyết thống trị. Các thành tạo địa hình do băng hà gồm các đồi băng
tích, đá trán cừu, đấu băng và lòng chảo băng, vũng hẹp băng hà (Fiord),
đồi hình rắn, đồng bằng băng tích, đảo đá ngầm... Trong vùng đài nguyên,
phổ biến các dạng bề mặt đặc thù có liên quan với phong hóa băng sinh và
băng kết vĩnh cửu, trong đó có các hố kaxtơ nhiệt, các gò đống, những gồ
ghề theo bậc trên sườn...
Đới Taiga được đặc trưng bởi các quá trình xâm thực và rửa trôi bề
mặt, song cường độ xâm thực không lớn lắm do thực vật rừng có tác dụng
ngăn cản; do đó địa hình có dạng mềm mại với các sườn thoải là chủ yếu.
Các dạng vi và trung địa hình đặc thù đối với đầm lầy chiếm một diện tích
khá lớn. Các dạng địa hình tàn dư của bồi tụ băng hà và nước - băng hà như
địa hình đồi băng tích hình bầu dục, đồi hình rắn, đồng bằng băng thủy...
cũng đặc biệt điển hình đối với đới này.
Trong đới thảo nguyên có sự phát triển của xâm thực khe rãnh mạnh
mẽ: vào mùa xuân tuyết tan nhanh và thường có mưa rào tạo nên dòng chảy
trên mặt mạnh, đất hoàng thổ và kiểu hoàng thổ dễ bị rửa trôi do sự vắng
mặt thực vật rừng. ở những bộ phận thấp của đới thảo nguyên phát triển
rộng rãi các dạng xói ngầm - hố sụt.
Trong điều kiện khí hậu khô khan ở đới nửa hoang mạc và hoang
mạc, lớp phủ thực vật thưa thớt, dòng chảy không đáng kể nên quá trình
xâm thực yếu, chỉ có hoạt động của các dòng chảy tạm thời. Trong các
vùng phổ biến loại đất cát vụn bở thì hoạt động của gió là nhân tố hình
thành địa hình thống trị, còn nơi đất mịn thì quá trình thổi mòn cũng như
quá trình di chuyển và tích tụ muối là chủ yếu. Các dạng địa hình phong
59
thành như các đá hình nấm, hàm ếch thổi mòn, lòng chảo thổi mòn, cồn cát
lưỡi liềm... là những dạng địa hình có tính chất địa đới.
Trong việc thành tạo địa hình đới rừng xích đạo cũng mang tính địa
đới. ở đây phong hóa hóa học mạnh mẽ, hình thành nên lớp vỏ phong hóa
Sialit có bề dày đạt tới hàng chục mét. Lượng ẩm phong phú cũng là những
điều kiện cho các hiện tượng đất trượt, đất trôi ở các tầng vụn bở, rửa trôi
bề mặt, lầy hóa và tích tụ phù sa nhanh chóng phát triển. Xâm thực có thể
xảy ra với một mức độ rất lớn sau khi phá hoại rừng.
12. Các đới cảnh quan trên Trái Đất
Quy luật địa đới phân hóa tự nhiên trên Trái Đất thành các vòng đai và
các đới địa lý tự nhiên. Các vòng đai được phân biệt chủ yếu dựa vào nền
tảng nhiệt lượng, hoặc cân bằng bức xạ tính theo Kcal/cm2/năm, hoặc tổng
nhiệt độ trên 10oC. Số lượng vòng đai thay đổi tùy tác giả, chia ít nhất là
hai: nội chí tuyến và ngoại chí tuyến; chia nhiều nhất là bảy vòng đai: cực,
cận cực, ôn đới, cận nhiệt đới, nhiệt đới, cận xích đạo, xích đạo (hoàn toàn
phù hợp với sự phân loại các đới khí hậu của B.P.Alixov, 1952). Theo
X.V.Kalexnik (1978), mục đích chủ yếu của sự phân chia các vòng đai địa
lý là ở chỗ chỉ mô tả những nét chung nhất của sự phân bố yếu tố địa đới
đầu tiên là nhiệt, trên nền chung đó có thể vạch ra các đới cảnh quan, ông
đã phân chia mỗi bán cầu ra các vòng đai lạnh, vòng đai ôn hòa và vòng đai
nóng. Ranh giới của các vòng đai này đi theo các đường đẳng nhiệt. Đới
cảnh quan (đới địa lý tự nhiên) là một bộ phận lớn của các vòng đai địa lý,
trong đó thống trị một cảnh quan nào đó, được phân chia dựa trên sự khác
biệt về cân bằng bức xạ và lượng mưa năm, nghĩa là dựa trên tương quan
giữa nhiệt và ẩm có trong từng bộ phận của lớp vỏ địa lý. Đã có nhiều tác
giả đưa ra các công thức để định lượng hóa tương quan nhiệt - ẩm này,
đáng chú ý hơn cả là chỉ số bức xạ khô hạn (K) do A.A.Grigôriev và
B.I.Bưđcô đưa ra:
Lr
R
K
60
trong đó, R là cân bằng bức xạ tính bằng Kcal/cm2/năm, L là tiềm
nhiệt bốc hơi bằng Kcal/g/năm, và r tổng lượng mưa bằng g/cm2/năm, Lr
bằng Kcal/cm2. Nếu K xấp xỉ 1, tức là nhiệt và ẩm có độ lớn bằng nhau
(mưa rơi bao nhiêu thì chừng ấy nước có thể bị bốc hơi), khi K > 1: thiếu
ẩm (khô hạn), và khi K < 1: thừa ẩm (ướt). ở đài nguyên K < 0,33, ở đới
rừng của các vòng đai ôn đới, cận nhiệt và xích đạo K từ 0,33 đến 1, trong
đới thảo nguyên K: 1 - 2, trong bán hoang mạc K: 2 - 3 và ở hoang mạc
K > 3.
Do hệ quả của tính chu kỳ của quy luật địa đới nên cùng một trị số K
sẽ lặp lại ở tất cả các đới của các vòng đai khác nhau nhưng có thể phân
biệt hai đới cùng có hệ số K thông qua sự khác nhau về nền tảng nhiệt
lượng R. Độ lớn của K quy định kiểu đới cảnh quan và độ lớn R quy định
đặc tính cụ thể và trạng thái của đới. Thí dụ, K > 3 trong mọi trường hợp
biểu thị kiểu cảnh quan hoang mạc, nhưng phụ thuộc độ lớn của R, nghĩa là
vào lượng nhiệt, trạng thái hoang mạc thay đổi: khi R = 0 - 50
Kcal/cm2/năm hoang mạc đó là hoang mạc ôn đới, khi R = 50 - 70: hoang
mạc cận nhiệt đới và khi R > 75: hoang mạc nhiệt đới. Đới cảnh quan có
một kiểu địa thực vật và một kiểu thổ nhưỡng địa đới nhất định có liên
quan với tương quan nhiệt -ẩm của đới. Tên gọi của đới thường phỏng theo
dấu hiệu thực vật vì thảm thực vật có thể dễ dàng nhận biết được và là vật
chỉ thị rất nhạy bén của các điều kiện địa lý tự nhiên. Ranh giới của đới ở
ngoài thực địa thường được xác định theo các kiểu thổ nhưỡng và thực vật
địa đới.
Cũng cần chú ý rằng, do sự phân bố đất và biển trên Trái Đất không
đều nhau, khí hậu bờ Đông, bờ Tây và bộ phận trung tâm lục địa khác
nhau; bờ các lục địa khi thì bao bọc bởi dòng biển nóng, khi thì bởi dòng
biển lạnh; địa hình đất nổi nhiều vẻ; sự phân bố các đới cũng phụ thuộc vào
sự lưu thông trong khí quyển (bình lưu nhiệt và ẩm)...Vì vậy các đới địa lý
không phải lúc nào cũng là những dải liên tục kéo dài theo vĩ độ bao quanh
các vòng địa lý mà chúng thường bị đứt đoạn, có khi chạy theo hướng kinh
61
tuyến hoặc có sự khác nhau giữa bờ Đông và bờ Tây lục địa ngay trong
cùng một vĩ độ.
Trên bề mặt lục địa của Trái Đất bao gồm 7 vòng đai lớn và một số đới
địa lý tự nhiên sau:
a. Vòng đai cực và cận cực:
Đây là vòng đai nằm trên các vĩ độ cao của địa cầu. Thời tiết quanh
năm lạnh, cán cân bức xạ thay đổi từ -5 đến +20 Kcal/cm2/năm. Có hai đới
cảnh quan: Đới hoang mạc Bắc cực và đới đài nguyên.
b. Vòng đai ôn đới:
Cán cân bức xạ khoảng từ 20 đến 60 Kcal/cm2/năm, sự dao động nhiệt
độ trong năm rất lớn vàc các mùa thể hiện rõ. Tùy theo điều kiện nhiệt -
ẩm, mức độ gần xa biển... có thể phân chia vành đai này thành các đới cảnh
quan: Đới rừng hỗn hợp và rừng lá rộng ở bộ phận phía Tây và phía Đông
lục địa gần đại dương; Đới rừng lá kim (Taiga) ở phía Bắc; Đới thảo
nguyên rừng và thảo nguyên; Đới hoang mạc và bán hoang mạc ôn đới
trong nội địa.
c. Vòng đai cận nhiệt đới:
Là vòng đai chuyển tiếp giữa ôn đới và nhiệt đới. Tùy theo sự phân hóa
điều kiện nhiệt - ẩm, có thể chia thành 3 đới cảnh quan: Đới rừng thưa và
cây bụi lá cứng Địa Trung Hải ở bờ Tây lục địa; Đới rừng hỗn hợp cận
nhiệt gió mùa ở bờ Đông lục địa; Đới bán hoang mạc và hoang mạc trong
miền khí hậu khô hạn cận nhiệt.
d. Vòng đai nhiệt đới:
Nét đặc trưng là cán cân bức xạ lớn 60 - 70 Kcal/cm2/năm. Sự phân hóa
của điều kiện nhiệt - ẩm trong vòng đai dẫn đến sự hình thành 3 đới cảnh
quan: Đới rừng nhiệt đới ẩm thường xanh ở các vùng gió mùa; Đới Xavan
và rừng thưa nhiệt đới phát triển ở những nơi có mùa khô kéo dài 4 - 6
tháng; Đới hoang mạc và bán hoang mạc nhiệt đới ở các vĩ độ chí tuyến
(trừ ô gió mùa).
e. Vòng đai cận xích đạo:
62
Hình thành ở khu vực gió mùa xích đạo, cân bằng bức xạ lớn 70 - 80
Kcal/cm2/năm, có sự xen kẽ giữa hai thời kỳ mưa và khô. Độ ẩm là chỉ tiêu
phân chia vòng đai này thành hai đới cảnh quan: Đới rừng rụng lá một mùa
ẩm và đới Xavan và rừng thưa cận xích đạo.
g. Vòng đai xích đạo:
Nằm ở vĩ độ xích đạo, cân bằng bức xạ lớn 100 - 160 Kcal/cm2/năm.
Sự phong phú về nhiệt ẩm nên thảm thực vật rừng xích đạo (rừng Ghilê)
phát triển mạnh. Đây là cảnh quan cổ và phong phú nhất trên địa cầu.
Sơ đồ 10: - Sơ đồ các vòng đai và các đới cảnh quan trên lục địa giả
thuyết (theo A.M.Riabtsicôv, E.N.Lucasôva và các tác giả khác)
63
13. Tính địa đới ở các đại dương
Góc tới của tia mặt trời trên các đại dương cũng giảm dần từ xích đạo
đến hai cực giống như trên các lục địa nên tiền đề căn bản về tính địa đới
của cảnh quan cũng có ở các đại dương. Tuy nhiên tính địa đới ở trong môi
trường nước có những nét riêng biệt do bề mặt đại dương luôn ở trạng thái
64
vận động, những khối nước lớn bị di chuyển do các dòng biển, triều lên
triều xuống và sóng. Ngoài ra môi trường nước khác với đất nổi về khả
năng phản xạ, nhiệt dung và độ dày chiếu qua của tia sáng mặt trời. Bề dày
trung bình của lớp có ánh sáng là 100 m, đại đa số thực vật có quá trình
quang hợp (tảo) tồn tại trong lớp nước này.
Trên bề mặt nước đại dương tính địa đới biểu hiện ở sự thay đổi nhiệt
độ, độ mặn, thành phần khí trong nước, ở động lực tầng trên của đại dương
cũng như trong giới hữu cơ của nó. Càng xuống sâu thì những biểu hiện của
tính địa đới càng mất dần. Theo quy luật địa đới, nhiệt độ nước biển giảm
dần từ xích đạo về phía hai cực. Nhiệt độ bình quân của các vùng biển nhiệt
đới từ 24 - 270C, ở các vùng ôn đới là 16 - 170C và ở các vùng hàn đới là
khoảng 00C (thường là -2 - 30C).
Vòng đai theo vĩ độ Bắc bán cầu (0C) Nam bán cầu (0C)
60 - 70
60 - 50
50 - 40
40 - 30
30 - 20
20 - 10
0 - 0
3,1
6,1
11,0
18,9
23,9
26,5
27,3
1,4
5,0
9,8
17,0
21,7
25,1
26,4
Nhiệt độ trung bình hàng năm trên bề mặt đại dương thế giới (0C).
Trên mỗi đại dương, độ mặn các đới cũng thay đổi khác nhau. Theo
Wiist (1936) độ mặn tăng lên ở những nơi có cân bằng nước âm và giảm đi
ở những nơi có cân bằng nước dương. Độ mặn tăng lên từ xích đạo về phía
các chí tuyến sau đó lại giảm về phía hai cực. Theo Francis Boeuf, độ mặn
ở các miền xích đạo và nhiệt đới ẩm là 34 - 35%0 , ở các miền chí tuyến là
36 -37%0, các miền ôn đới là 35%0, và hàn đới là 32 - 34%0.
65
Vĩ
độ
Lượng mưa
(mm/năm)
Lượng bốc hơi
(mm/năm)
Cân bằng nước
(mm/năm)
Độ mặn
S(%0)
50N
250N
500N
1770
550
840
1100
1290
430
+ 670
- 740
+ 410
34,54
35,79
33,99
K.Vallô (1948) bắt đầu thí nghiệm phân vùng địa lý đại dương thế giới.
Các vùng nước lớn đã được phân chia chứng minh rằng sự phân bố của
chúng về cơ bản tuân theo nguyên tắc của các vòng hay đới địa lý. ở Thái
Bình Dương, người ta đã phân biệt được ba bộ phận (thực tế là ba vòng đai
địa lý); 1) Lòng chảo phía bắc (từ phía bắc TBD đến chí tuyến Bắc); 2)
Vùng biển san hô ở giữa chí tuyến Bắc và chí tuyến Nam, chủ yếu bộ phận
trung tâm và bộ phận phía Tây của đại dương; 3)Vùng biển phía Nam (giữa
chí tuyến Nam và nam TBD), đặc biệt mở rộng về phía Đông. ở Đại Tây
Dương: 1) Vùng biển giáp Bắc Băng Dương (đới rìa của Đại Tây Dương);
2) Gơnxtrim; 3) Vòng đai lặng gió của chí tuyến Paka; 4)Vùng biển hẹp
xích đạo (dải hẹp nhất của ĐTD); 5) Miền chí tuyến Kozerôga.
Đ.V.Bođanov (1961) đã phân vùng Bắc Đại Tây Dương ra các đới địa
lý: 1. Đới cực; 2. Đới cận cực; 3. Đới ôn đới; 4. Đới cận nhiệt; 5. Đới nhiệt
đới; 6. Đới xích đạo.
66
II. quy luật phi địa đới
1. Khái niệm về tính phi địa đới
Khi nghiên cứu tỉ mỉ hơn các đới cảnh quan, các quy luật phân hóa địa
lý lãnh thổ, người ta đã phát hiện ra các sự kiện dường như có vẻ mâu thuẫn
với những ý kiến chung về quy luật tính địa đới. Như các đới không phải
bao giờ cũng là một dải liên tục, nhiều đới bị đứt đoạn, trong đó một số đới
chỉ phát triển ở các bộ phận rìa của lục địa (ví dụ, đới rừng hỗn hợp và rừng
lá rộng ở vòng đai ôn đới), một số đới khác (như hoang mạc, thảo nguyên)
lại chỉ phân bố ở các vùng bên trong lục địa, ranh giới các đới ít nhiều bị
lệch đi mạnh so với chiều vĩ tuyến, ở một số đới có hướng kinh tuyến (thí
dụ các đới ở trung tâm lục địa Bắc Mỹ). Trong phạm vi ngay cùng một đới
cũng có sự tương phản về địa lý tự nhiên rất lớn (ví dụ, giữa rừng Tai ga ở
Tây và Đông Xibia). Địa hình miền núi nói chung đã phá vỡ sự phân bố của
đới ngang theo vĩ độ và thay thế vào đó làm xuất hiện tính đai cao theo
chiều thẳng đứng.
Theo A.G.Isatsenko, trong thực tế các loại phá vỡ hay làm lệch tính địa
đới theo vĩ độ nói lên rằng sự biểu hiện của nó còn phụ thuộc vào các nhân
tố khác (phi địa đới). Sự sự phá vỡ tính địa đới cũng hoàn toàn hợp quy
luật, vì chỉ trong điều kiện mà bề mặt Trái Đất tuyệt đối đồng nhất về địa
hình và vật liệu thì các đới địa lý mới có dạng các dải đều đặn và liên tục.
Tuy nhiên trong quá trình phát triển kiến tạo của Trái Đất, bề mặt của nó đã
bị phân dị, nó được đặc trưng không chỉ bằng quy luật địa đới mà còn bằng
quy luật phi địa đới mà cơ sở của nó là biểu hiện năng lượng bên trong Trái
Đất.
Sự biểu hiện của các tác dụng phi địa đới rõ ở sự hình thành các vành
đai theo độ cao, ở sự phân hóa địa lý tự nhiên theo kinh độ.
2. Quy luật địa ô (sự phân hóa ĐLTN theo kinh độ)
Sự biểu hiện rõ rệt nhất của sự phân hóa phi địa đới là sự phân bố
không đồng đều giữa đất nổi và đại dương trên bề mặt trái đất (đất nổi
67
chiếm 29% diện tích Trái Đất, đại dương 71%, phần lớn tập trung ở Bắc
bán cầu). Do những khác biệt về tính chất vật lý của lục địa và đại dương
mà các khối khí khác biệt về tính chất vật lý của lục địa và đại dương mà
các khối khí khác nhau về tính chất: lục địa và hải dương được hình thành
trên các bề mặt ấy. Sự di chuyển của các khối khí này làm phức tạp thêm
hoàn lưu chung của khí quyển cũng như sự phân hóa của địa lý tự nhiên.
Vị trí của lãnh thổ trong chế độ hoàn lưu lục địa - đại dương (phi địa
đới) của khí quyển trở thành một trong số các nhân tố quan trọng của sự
phân hóa địa lý tự nhiên, vị trí có ảnh hưởng đến toàn bộ những đặc điểm
của cảnh quan. Tùy theo mức độ cách xa đại dương vào sâu trong nội địa
mà tần suất thâm nhập của các khối khí hải dương yếu đi, mức độ lục địa
của khí hậu tăng lên, lượng chứa ẩm trong không khí, lượng mưa và mức độ
ẩm ướt bị giảm xuống nhiều, biên độ nhiệt độ tăng lên. Ví dụ, lượng mưa
hàng năm ở các vùng Taiga bên trong lục địa á âu hầu như ít hơn 3 lần so
với lượng mưa ở vùng tây Âu gần đại dương, mức chênh lệch giữa nhiệt độ
trung bình tháng 1 ở Tây Scandinavi và trung tâm Iakut trên cùng một vĩ độ
vượt quá 400C.
Sự phân bố các dòng biển nóng và dòng biển lạnh ở đại dương đã có
ảnh hưởng mạnh mẽ tới khí hậu và cảnh quan ở bộ phận rìa lục địa, làm
tăng cường sự phân hóa giữa bộ phận lục địa gần đại dương và bộ phận ở
sâu trong đất liền.
Địa hình xem như một nhân tố phi địa đới, hướng các thành phần sơn
văn cũng như các khối núi cao là những bức tường chắn trên con đường di
chuyển của các khối khí làm sâu sắc tính chất tương phản của khí hậu ở các
vùng khác nhau, đặc biệt, các khối núi kéo dài dọc theo kinh tuyến, nhất là
nếu chúng kéo dài theo sát các miền duyên hải đại dương có tác dụng ngăn
chặn các khối khí đại dương vào sâu trong lục địa, làm tăng thêm sự khác
biệt khí hậu theo kinh độ (theo địa ô), ví dụ sự phân bố các dãy Coócđie ở
Bắc Mỹ cũng như các núi của vùng Viễn Đông làm cho ô ẩm ướt của các
lục địa quanh Thái Bình Dương bị thu hẹp lại mạnh mẽ.
68
Sự thay đổi nêu trên về mức độ cung cấp nhiệt và ẩm tùy theo mức độ
xa bờ biển từ đại dương vào sâu trong lục địa đã diễn ra sự thay thế hợp quy
luật của các quần xã thực vật cũng như các kiểu đất gắn liền với chúng.
Viện sĩ V.L.Komarov đã gọi hiện tượng này là tính địa ô. Hiện nay khái
niệm tính địa ô được thừa nhận rộng rãi.
A.I. Ianputinin (1946) đã phân chia mỗi lục địa thành 3 ô địa lý tự
nhiên: Tây, Trung Tâm và Đông. Cần chú ý rằng tính địa ô biểu hiện không
giống nhau ở các vòng đai theo vĩ độ. Những khác biệt về phân hóa theo
địa ô biểu hiện rõ ở đới ôn đới của lục địa á âu, ở đây A.A.Grigôriev đã
phân chia ra 7 ô. ở vòng đai nhiệt đới chỉ có hai ô được phân biệt rõ: ô tín
phong khô hạn ở phía Tây các lục địa (như Châu Phi), và ô gió mùa ẩm ướt
ở rìa Đông các lục địa (như Châu á). ở xích đạo sự phân dị theo kinh độ
biểu hiện yếu ớt.
3. Tính vành đai theo chiều cao ở miền núi
Một trong những thể hiện rõ rệt nhất của sự phân hóa địa lý tự nhiên
theo quy luật phi địa đới là tính vành đai theo chiều cao. Quy luật này được
thể hiện ở sự thay thế của các thành phần ĐLTN theo chiều cao dưới dạng
các dải hoặc các vành đai (đai cao) ở các miền núi mà nguyên nhân chính
là sự hạ thấp nhiệt độ khi lên cao (trung bình giảm 0,60C/100m). Nhìn bề
mặt ngoài các đai này thay đổi từ thấp lên cao tương tự như sự thay đổi các
đới địa lý theo vĩ độ từ xích đạo về cực.
Trong sự hình thành các đới theo vĩ độ cũng như các vành đai theo
chiều cao, yếu tố nhiệt đóng vai trò quyết định, nhưng trong hai trường hợp
này bản chất của nhiệt khác nhau về nguyên tắc: tính địa đới trong cơ sở
đầu tiên của nó có liên quan với sự thay đổi góc tới của tia mặt trời theo vĩ
độ; còn nhiệt độ giảm dần theo độ cao là do sự gia tăng nhanh bức xạ sóng
dài của bề mặt đất khi lên cao trong điều kiện độ lớn của góc tới không
thay đổi, kết quả nhiệt độ hạ thấp nhanh chóng. ở bắc bán cầu, nếu đi từ
69
xích đạo về phía hai cực thì cứ phải vượt qua một khoảng cách độ 1300km
mới thấy nhiệt độ hạ thấp 60C, nhưng ở miền núi chỉ cần lên cao 1km đã
thấy có sự hạ nhiệt tương đương. Như vậy sự hạ thấp theo chiều cao ở miền
núi có tốc độ nhanh hơn nhiều so với sự thay đổi theo vĩ độ ở đồng bằng.
Do kết quả đó, chúng ta có thể qua sát sự thay đổi của các điều kiện ĐLTN
tương đương như sự chuyển dịch từ nhiệt đới đến hàn đới trên khoảng vài
km theo chiều thẳng đứng (nếu vùng núi đó ở nhiệt đới).
Sự biến đổi của các thành phần lớp vỏ địa lý theo đới và theo chiều cao
cũng có sự khác biệt, nhịp điệu không giống nhau và theo X.V. Kalexnik
có khi còn diễn ra trong điều kiện trái ngược nhau. Ví dụ:
* Lượng mưa ở miền núi tăng theo chiều cao do ảnh hưởng của địa
hình chắn gió. Tuy nhiên, đến một độ cao nào đó (thông thường bằng nửa
chiều cao của núi) thì lượng mưa lại giảm xuống. Khi lên cao, áp suất
giảm, không khí trở lên loãng hơn.
* Cường độ chiếu sáng và chế độ ánh sáng của đai băng tuyết vĩnh cửu
trên núi cao ở vùng nhiệt đới có khác so với vùng cực, biểu hiện ở thời gian
chiếu sáng khác nhau trong một ngày và trong các mùa, góc nhập xạ hai
nơi không giống nhau.
* Độ dài của ngày và đêm cũng khác nhau. ở vĩ độ thấp thì độ dài
ngày ít biến đổi giữa mùa đông và mùa hạ, trong khi đó ở vùng cực có tới 6
tháng ngày và 6 tháng đêm.
Tính chất độc đáo của các vành đai theo chiều cao được xem như là
những thể tổng hợp thể địa lý tự nhiên đặc biệt. ở đây, ngoài sự biểu hiện
trong khí hậu còn quan sát thấy các quá trình địa mạo đặc thù không có ở
các cảnh quan địa đới như lở núi, lở tuyết. Mạng lưới thủy văn đặc biệt, các
băng hà núi cũng không giống các lớp phủ băng phủ ở đới cận cực. Thổ
nhưỡng miền núi cũng khác với thổ nhưỡng địa đới đồng bằng ở phẫu diện
bị rút ngắn lại và chứa nhiều vật liệu thô vụn... Tất cả những điểm trên sẽ
70
đem lại kết quả là các quần xã sinh vật và thổ nhưỡng ở miền núi có những
nét mới mà trong điều kiện của các đới ngang không thể có được. Vì thế,
theo X.V.kalexnik, những đai cao theo chiều thẳng đứng không phải là bản
sao của những đới theo chiều ngang tương ứng và cũng không phải là biến
thái riêng biệt của những đới này.
Mỗi miền núi, tùy thuộc vào độ cao và vị trí địa lý của nó, đều có
những đặc điểm phổ vành đai và sự xếp tầng của nó. Một miền núi càng
cao và càng gần xích đạo càng có phổ vành đai đầy đủ, nghĩa là càng có
nhiều vành đai khác nhau. Một miền núi càng thấp và càng xa xích đạo,
phổ theo vành đai của nó càng ít hơn. Điều đó cũng chứng tỏ sự phụ thuộc
của tính vành đai theo chiều cao và tính địa đới theo vĩ độ. Ví dụ: sự phân
hóa vành đai cao đơn giản nhất có thể quan sát trên các đới băng tuyết ở
Bắc cực, ở đây chỉ tồn tại một vòng đai duy nhất: băng hà và hoang mạc
cực. Trong đới đài nguyên có thể chia ra hai vành đai: a. Đài nguyên núi; b.
Băng hà và núi trọc. Trong vùng Taiga sự phân hóa vành đai theo chiều cao
phức tạp hơn: a. Vành đai rừng Taiga trên núi, b. Vành đai chuyển tiếp
rừng cây lùn và cây bụi, c. Đài nguyên núi, d. Băng hà và núi trọc (băng
tuyết vĩnh cửu). ở các núi cao vùng nhiệt đới sắc phổ của nó được mở rộng
hơn, bao gồm nhiều vành đai khác nhau, ví dụ ở sườn Nam dãy Hymalaya
có các vành đai: a) Từ chân lên đến 1000m là vành đai rừng nhiệt đới ẩm
thường xanh; b) Từ 1000 -1200m là vành đai rừng cận nhiệt đới ẩm thường
xanh; c) Từ 2000 - 3500m là vành đai rừng ôn đới trên núi; d) Từ 3500 -
4000m là vành đai đồng cỏ núi cao; e) Từ 4000m trở lên là hoang mạc lạnh
núi cao băng tuyết vĩnh viễn.
Nhìn chung, đới ngang nào cũng có những địa hình cao mang một hệ
thống các tầng thẳng đứng riêng. Những tầng (đai cao) này đến lượt chúng
lại phản ánh một cách đầy đủ tính chất độc đáo của tính địa đới nằm ngang
của mình. Đó là sự biểu thị tự nhiên và đúng đắn của mối liên hệ giữa đai
ngang và đai cao.
71
Sơ đồ 11: - Sơ đồ tính vành đai theo chiều cao của sườn Tây dãy Uran.
1. Núi trọc; 2. Đài nguyên núi; 3. Bạch dương lùn núi cao và đồng cỏ;
4. Rừng đài nguyên núi và rừng thưa; 5. Rừng Taiga núi nhon lá tối, 6.
Rừng Taiga núi lá nhọn sáng, 7. Rừng phụ Taiga núi (rừng hỗn hợp); 8.
Rừng lá rộng trên núi; 9. Thảo nguyên núi.
Câu hỏi hướng dẫn học tập Chương IV
1. Quy luật địa đới là gì? Những nguyên nhân và biểu hiện của nó trong
lớp vỏ địa lý?
2. Hãy phân tích và chứng minh rằng sự phân bố nhiệt, hình thế khí áp, hệ
thống các loại gió, mưa và bốc hơi trên địa cầu mang tính địa đới.
3. Các quá trình thủy văn và các quá trình địa hóa mang tính địa đới như
thế nào? Hãy phân tích và chứng minh.
4. Hãy giải thích và chứng minh tính địa đới của sự phân bố thổ nhưỡng và
các kiểu thảm thực vật trên địa cầu.
5. Hãy giải thích các quá trình hình thành địa hình mang tính địa đới. Biểu
hiện tính địa đới của các dạng địa hình trên Trái Đất như thế nào? Lấy
các ví dụ để chứng minh.
72
6. Hãy giải thích về sự phân hóa các đới cảnh quan trên Trái Đất. Dựa vào
sơ đồ 10, hãy nêu sự phân bố các đới cảnh quan trên Trái Đất và giải
thích tại sao ranh giới các đới cảnh quan hoàn toàn không trùng với
chiều vĩ tuyến?
7. ở các đại dương thế giới tính địa đới được biểu hiện như thế nào? Có
điểm nào giống và khác so với tính địa đới trên lục địa không? Hãy giải
thích và chứng minh những điểm đó.
8. Hiểu như thế nào về quy luật phi địa đới? So sánh sự khác nhau giữa
quy luật địa đới và phi địa đới. Lấy ví dụ chứng minh.
9. Quy luật địa ô do những nhân tố nào chi phối? Biểu hiện của nó như thế
nào? Lấy ví dụ để chứng minh (liên hệ với các ô địa lý tự nhiên ở lục
địa Bắc Mỹ - xem phần địa lý tự nhiên các châu).
10.Hiểu như thế nào về tính vành đai theo chiều cao ở miền núi? Hãy so
sánh những nét giống và khác nhau giữa đai cao ở miền núi với đới
ngang ở đồng bằng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_cac_quy_luat_dia_ly_chung_cua_trai_dat_canh_quan_hocp1_1993.pdf