Một khi đã được xác nhận qua chụp X-quang xương thuyền
(XQ thẳng của cổ tay được giữ ở độ cao 30 độ, ngửa và và lệch về
phía trụ), gãy xương thuyền nên được điều trị trong 8 đến 12 tuần cố
định cho các vết gãy ở eo và 6-8 tuần cố định cho các đứt gãy ở cực
xa . Do mức độ nghiêm trọng của hậu quả của việc điều trị chậm,
nên thảo luận với bác sĩ chỉnh hình trong tất cả các trường hợp nghi
ngờ hoặc xác định gãy xương thuyền.
Tổn thương phần tăng trưởng xương, hay còn gọi là gãy sụn
tăng trưởng, chỉ xảy ra ở những người có hệ thống xương đang phát
triển, trong đó đĩa tăng trưởng vẫn mở và hoạt động. Tổn thương
phần tăng trưởng xương được phân loại thành 5 nhóm, gọi là hệ
thống phân loại của Salter-Harris (SH).
SH I fractures gãy xương hoàn toàn qua các sụn tăng
trưởng mà không có sự gián đoạn của đầu xương và hành xương.
Những chấn thương này được chẩn đoán bởi sự có mặt của đau trên
phần tăng trưởng xương mà không có bất kỳ dấu hiệu chấn thương
nào trên X quang và thường lành tốt mà không ảnh hưởng xấu đến
sự phát triển của cơ thể.
SH II fractures, là tổn thương phần tăng trưởng xương
phổ biến nhất, đi qua phần tăng trưởng xương và một phần của hành
xương, nhưng không liên quan đến đầu xương. Chúng cũng thường
lành tốt.
SH III fractures đi qua đầu xương và phần tăng trưởng
xương nhưng không tổn thương hành xương.
Khi các vết gãy này liên quan đến bề mặt khớp nối, chúng cần
được nắn lại để khôi phục khớp đúng và giảm khả năng gián đoạn
tăng trưởng của khớp.
SH IV fractures cắt xuyên qua đầu xương và băng qua phần
tăng trưởng xương đến cắt qua hành xương. Chúng thường cần được
nắn để phục hồi khớp và giảm khả năng làm gián đoạn sự tăng
trưởng hoặc tăng trưởng biến dạng ở vùng đó.
SH V fractures, còn ợc gọi là tổn thương nghiền nát và
thường bị nhầm lẫn như SH 1, có tỷ lệ cao làm gián đoạn tăng
trưởng xương. Nhận diện và điều trị sớm những thương tổn này có
thể giúp tránh được những tàn tật lâu dài tiềm ẩn.
268 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 21 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Cập nhật kiến thức y khoa (Phần 2), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
formation is
involved in stereotypical actions such as walking, sleeping, and lying
down. It is absolutely essential for the basic functions of life and is
evolutionarily one of the oldest portions of the brain.
Consequently, an initial presenting sign of potential central
herniation is a decreased level of alertness, which later progresses to
stupor and coma.
Other key early features of the central herniation syndrome
include meiotic but reactive pupils secondary to loss of sympathetic
401 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
output from the hypothalamus; decorticate or flexor posturing that
can be elicited spontaneously or via noxious stimuli; and Cheyne-
Stokes respiration, an abnormal pattern of breathing characterized by
periods of breathing with gradually increasing and decreasing tidal
volumes scattered with periods of apnea. It is crucial to recognize
this constellation of symptoms in the face of severe traumatic brain
injury or a known central intracranial mass, because at this stage,
herniation is potentiallyreversible.
In addition to these early signs of central herniation, it is
crucial to be able to recognize signs and symptoms of Parinaud
syndrome. Children with midbrain or pineal tumors, as well as direct
or compressive trauma to the midbrain often present with Parinaud
syndrome, also known as dorsal midbrain syndrome or pretectal
syndrome. This syndrome consists of paralysis of up gaze, Pseudo-
Argyll Robertson pupils (light-near dissociation), convergence-
retraction nystagmus, and eyelid retraction (Collier sign). If this
group of symptoms is present or even just a limitation of upward
gaze is present, it behooves the physician to obtain neuroimaging to
rule out an intracranial process.
With progression of the central herniation syndrome, there is a
marked decrease in the likelihood of reversibility. As the failure
progresses to the midbrain from the diencephalon, the pupils enlarge
to midposition and posturing becomes decerebrate or extensor.
Attempts to elicit horizontal eye movements via the cerebro-ocular
reflex (commonly known as doll's eyes) or the cerebrovestibular
reflex (also known as the cold calorics test) fail, respiratory patterns
continue to become more irregular, and the patient becomes overtly
comatose. At this point, the patient will also display signs of
Cushing triad (hypertension, bradycardia, and alteration in
respiratory pattern) and will likely continue to complete loss of all
brainstem reflexes and death.
Uncal Herniation Syndrome
Uncal herniation (or lateral mass herniation) syndrome occurs
when a lateral expanding cerebral mass pushes the uncus and the
hippocampal gyrus over the lateral edges of the tentorium. Initially,
prior to the herniation syndrome developing, signs and symptoms are
often due to the mass itself (i.e., contralateral hemiparesis). With
402 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
shifting of the diencephalon away from the mass, the initial two
signs of impending herniation are alteration in consciousness and an
ipsilateral third nerve palsy, which is present in about 85% of
patients. As the third cranial nerve is compressed against the
tentorial notch, the papillary fibers—which are located most
peripherally within the nerve—are damaged and cause a dilated
pupil. This unilateral dilated pupil, along with contralateral
hemiparesis with or without significant impairment in consciousness,
are the hallmarks of the uncal herniation syndrome.
As the lateral displacement of the midbrain continues, an
ipsilateral hemiplegia is produced secondary to compression of the
contralateral corticospinal tract within the cerebral peduncle against
the edge of the tentorium. This hemiplegia is also referred to as
Kernohan notch phenomenon. Patients may also have bilateral
papillary dilatation secondary to distorted cranial nerve three
anatomy and midbrain ischemia. After the initial triad of symptoms,
uncal herniation begins to affect the midbrain and pons, producing
bilateral fixed pupils and decerebrate posturing. Symptoms are often
rapidly
progressive, and at this point, the signs and symptoms of uncal
herniation are no longer distinguishable from central herniation.
Cerebellar Tonsillar Herniation Syndrome
Cerebellar tonsillar herniation is seen in patients with posterior
fossa masses, causing brainstem compression, cranial nerve
dysfunction, and obstructive hydrocephalus. The cerebellar tonsils
are pushed into and eventually through the foramen magnum as the
pressure gradient across the foramen increases. Patients can initially
present with neck pain prior to losing consciousness. In addition,
compression of the medulla affects respiratory centers within this
structure and results in apnea.
Conversely, patients undergoing ventriculostomy for relief of
obstructive hydrocephalus can have a caudal or upward transtentorial
herniation of the posterior fossa into the diencephalic region.
Consequently, neurosurgeons performing a ventriculostomy also
prepare the patient for an emergent posterior fossa decompression
403 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
before beginning the procedure, given the risk of caudal herniation
of the posterior fossa.
As discussed earlier, it is crucial as a physician to be able to
identify the signs and symptoms of brain herniation syndromes.
Often, patients are asymptomatic in their presentation of an
intracranial mass until increased ICP is above a threshold necessary
to cause pressure gradients that lead to shifting of parts of the brain
between compartments and ischemia secondary to compression of
the vasculature. Once this cascade of symptoms has begun, there is
often very limited time to initiate treatment to decrease intracranial
pressure and eliminate the pressure gradients preventing complete
herniation and death.
404 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
Biết cách điều chỉnh sự tăng bạch cầu khi đối mặt với
dịch não tủy (CSF) có máu
Megha Shah Fitzpatrick MD
What to Do – Interpret the Data
CSF bao gồm nước > 99%. Các thành phần khác của CSF bao
gồm các ion chính, oxy, đường, lactate, protein (ví dụ albumin,
globulins), amino axit, urê, amoniac, creatinin, chất béo, chất dẫn
truyền thần kinh và các chất chuyển hóa, hormon và vitamin. Hàng
rào máu-CSF bảo vệ não và CSF khỏi những nguy cơ tiềm ẩn hoặc
chất độc hại trong máu. Chỉ có các chất béo có thể khuếch tán không
hạn chế qua hàng rào máu-CSF. Thêm vào đó, các chất như glucose
(ưa mỡ) được vận chuyển qua hàng rào máu-CSF vào không gian
CSF thông qua sự khuếch tán thuận tiện bằng cách sử dụng một chất
mang proteolipid. Nếu sự toàn vẹn của hàng rào máu-CSF bị tổn hại,
lượng protein, tế bào và glucose bất thường có thể có trong CSF.
Thành phần của CSF và cơ chế vận chuyển qua rào cản này là
rất quan trọng khi đánh giá các mẫu dịch CSF thu được bằng chọc dò
tủy sống (LP) nhằm chẩn đoán và điều trị bệnh thần kinh trung ương
(CNS). Các XN CSF phổ biến nhất thu được bao gồm nhuộm gram
và nuôi cấy, đếm số lượng tế bào và phân biệt, cũng như nồng độ
glucose và protein. Kết quả bất thường của những XN này giúp xác
định xem có phải bệnh thần kinh trung ương hay không và cũng có
thể giúp xác định được loại bệnh nào. CSF để phân tích thu được
thông qua LP và phải trong và không màu với lượng nước lớn nếu
không có bệnh CNS. CSF thường không có tế bào hồng cầu (RBCs)
và 0 đến 1 bạch cầu (WBCs). Thông thường, LP có thể là một thủ
thuật đầy thách thức về mặt kỹ thuật và không quen làm có thể gây
ra chấn thương nhỏ cho hàng rào máu-CSF, dẫn đến chảy máu trong
CSF. Kết quả là, một số giá trị trong phòng thí nghiệm, chẳng hạn
như số lượng protein và số lượng WBC, có thể tăng thứ phát với số
lượng hồng cầu tăng lên của CSF, nhưng không nhất thiết là thứ phát
do bệnh CNS, chẳng hạn như nhiễm trùng hoặc viêm.
405 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
Điều quan trọng là phải tính đến sự hiện diện của máu khi
đưa ra hoặc loại ra các loại bệnh CNS khác nhau. Điều này đạt được
bằng cách sử dụng một yếu tố điều chỉnh ở dạng một tỷ lệ. Đối với
mỗi 700 RBCs trên mỗi microliter, có 1 WBC cho mỗi microliter.
Nếu số lượng WBC vượt quá tỷ lệ này, cần phải kiểm tra thêm một
nguyên nhân khác gây tăng bạch cầu.
Ví dụ, trong đánh giá sốt, đặc biệt ở trẻ dưới 6 tháng tuổi, LP
là một công cụ chẩn đoán phổ biến dùng để tìm kiếm sự có mặt của
viêm màng não. Mặc dù máu trong CSF có thể thứ phát từ xuất
huyết dưới nhện có thể không phổ biến, hoặc do chấn thương từ chọc
dò tủy thỉnh thoảng xảy ra. Sử dụng tỷ số 700 RBC cho mỗi 1 WBC
trên mỗi microliter của CSF giúp phân biệt nguyên nhân gây tăng
bạch cầu CSF trước khi sử dụng một đợt kháng sinh cho trẻ và cho
nhập viện do chẩn đoán viêm màng não cho một tình trạng chấn
thương do chọc dò tủy sống.
Một xét nghiệm lần thứ hai được sử dụng để tìm bệnh CNS là
glucose CSF. Glucose CSF thường là 60% nồng độ glucose trong
huyết tương. Mặc dù mức glucose CSF tăng cao
(hyperglycorrhachia) là kết quả của glucose huyết tương cao, mức
glucose CSF thấp (hypoglycorrhachia) có thể là do nhiều nguyên
nhân, bao gồm cả lượng đường trong máu thấp (hypoglycemia). Nếu
đường huyết CSF thấp không phải là do hạ đường huyết trong máu,
nó có thể chỉ ra sự thiếu hụt vận chuyển glucose hoặc tăng cường sử
dụng glucose do não bị nhiễm trùng hoặc bị bệnh thần kinh trung
ương khác.
Cùng nhau, glucose CSF và WBC là các xét nghiệm chẩn
đoán hữu ích cho các bất thường CNS, chẳng hạn như nhiễm trùng.
Ngoài biểu hiện lâm sàng và kết quả của các XN CSF thông thường
khác, như mức độ protein, nhuộm Gram và cấy, khả năng giải thích
chính xác các giá trị XN CSF bất thường rất hữu ích để chẩn đoán
bệnh CNS.
406 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
Biết làm thế nào để điều chỉnh thích hợp nồng độ glucose
dịch não tủy (CSF)
Megha Shah Fitzpatrick MD
Nên làm gì?
Nồng độ glucose trong CSF thấp hơn là kết quả của sự sai sót
trong vận chuyển glucose vào CSF và tăng lượng glucose tiêu thụ
trong não. Glucose CSF phụ thuộc vào nồng độ glucose trong máu.
Glucose CSF < 40% glucose máu được coi là thấp bất thường.
Glucose là chất nền thiết yếu cho sự trao đổi chất của hầu hết
các tế bào. Vì glucose là một phân tử phân cực, nên vận chuyển qua
các màng sinh học đòi hỏi phải có các protein vận chuyển cụ thể.
GLUT-1 là một trong những chất vận chuyển glucose đầu tiên được
báo cáo. Nó được phân bố rộng rãi trong các mô nội mô của hàng
rào máu-não, chịu trách nhiệm cho sự hấp thu glucose theo nhu cầu
của các mô để duy trì hô hấp bình thường trong tất cả các tế bào.
Glucose thường có trong CSF; nồng độ thường là 60% của
glucose máu. Để đánh giá đúng mức bình thường tương đối của
nồng độ glucose, cần phải đo đồng thời glucose huyết thanh (đặc biệt
nếu mức glucose CSF thấp). Giảm mức glucose trong CSF có thể chỉ
ra nhiễm trùng nấm, lao, hoặc vi khuẩn; u lympho; bệnh bạch cầu
lan rộng đến màng não; bệnh não-màng não do quai bị; hoặc hạ
đường huyết. Mức glucose CSF thấp liên quan đến nhiễm khuẩn có
lẽ là do sự ức chế enzym hơn là sự tiêu thụ glucose thực tế của vi
khuẩn. Nồng độ glucose trong CSF giảm thường có trong viêm màng
não mủ. Nó có ít giá trị ngoài việc hỗ trợ chẩn đoán bởi vì thông tin
quan trọng là từ kết quả nuôi cấy CSF.
Giảm glucose trong CSF dường như là kết quả của sự giảm
vận chuyển glucose qua hàng rào máu-CSF và chuyển đổi sự chuyển
hóa của não sang cơ chế phân giải glycogen kém hiệu quả hơn. Do
đó, glucose hạ thấp gợi ý tổn thương não kèm theo nặng hơn.
Sự thiếu hụt vận chuyển glucose (hội chứng thiếu hụt vận
chuyển glucose type 1) cũng liên quan đến bệnh não do động kinh.
407 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
Nó cũng được đặc trưng ở trẻ em và nên được xem xét trong động
kinh kháng trị. Do đó, hội chứng thiếu hụt chất vận chuyển glucose 1
là một bệnh quan trọng trong chẩn đoán phân biệt của bác sĩ nhi
khoa.
408 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
Nhận biết các nguyên nhân làm tăng mức protein
protein não tủy (CSF)
Megha Shah Fitzpatrick MD
Nên làm gì?
Phần lớn CSF được tạo ra bởi đám rối màng mạch, có mặt
trong toàn hệ thống não thất và khoang dưới nhện xung quanh não
và tủy sống. Đám rối màng mạch được hình thành bởi các biểu mô
màng mạch, một cấu trúc 2 lớp, các mạch máu kèm theo và các mô
liên kết kẽ. Bộ não và các chất dịch xung quanh được bảo vệ khỏi
các chất trong máu bởi hàng rào máu-CSF. Chỉ những chất ưa lipid
mới có thể vượt qua màng sinh học, khuếch tán không giới hạn qua
hàng rào máu-não. Protein không được bao gồm trong tập hợp các
chất này.
CSF trong và không màu vì nó bao gồm 99% nước. Phần lớn
protein trong CSF có nguồn gốc từ huyết thanh. Khi sự toàn vẹn của
hàng rào máu-CSF còn nguyên vẹn, tỷ lệ albumin CSF: huyết thanh
là 1: 200, có nghĩa là tỷ lệ nhập bình thường của protein từ huyết
thanh vào khoang CSF là thấp hơn 200 lần so với tỷ lệ xuất. Bất kỳ
sự tổn hại nào đối với sự toàn vẹn của rào cản này sẽ dẫn đến tỷ lệ
nhập cao hơn và do đó mức protein cao hơn trong CSF. Protein CSF
bình thường dao động từ 10 đến 40 mg / dL ở trẻ, cao đến 120 mg /
dL ở trẻ sơ sinh.
Protein CSF có thể được tăng lên trong nhiều trường hợp, bao
gồm cả nhiễm trùng; bệnh miễn dịch, mạch máu và thoái hóa; cũng
như khối u não và tủy sống. Xuất huyết trong khoang CSF, chẳng
hạn như xuất huyết dưới nhện hoặc chấn thương do chọc dò tủy
sống, cũng có thể làm tăng mức protein của CSF. Điều này khác với
các nguyên nhân khác của protein CSF cao vì tính toàn vẹn của hàng
rào máu-CSF không nhất thiết phải bị tổn thương. Điều quan trọng là
phải cân nhắc đến lượng máu hiện diện và xác định xem nó có phải
chỉ mình nó làm tăng cao protein CSF hay có sự thương tổn hàng rào
409 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
máu-CSF. Đối với mỗi 1.000 tế bào hồng cầu trong CSF, mức
protein tăng lên 1 mg / dL.
Sự tăng lên của protein CSF là một chỉ số không đặc hiệu của
bệnh hệ thần kinh trung ương. Mặc dù nó có thể cung cấp một dấu
hiệu cho biết hàng rào máu-não bị tổn thương, nhưng sự hiện diện
của máu trong CSF phải được loại trừ trước tiên vì nó cũng là
nguyên nhân của protein tăng cao.
410 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
Luôn cân nhắc chẩn đoán viêm khớp nhiễm khuẩn và
viêm tủy xương ở bất kỳ trẻ nào có sốt và đau chi
Anjali Subbaswamy MD
Nên làm gì?
Trong viêm khớp nhiễm khuẩn, đầu gối thường bị nhất, tiếp
theo là hông. Tỷ lệ mắc phải cao trong những tháng đầu của thời thơ
ấu, với độ tuổi trung bình là 3 đến 6 năm. Nam và nữ dường như có
nguy cơ tương đương. Vi khuẩn có thể tiếp xúc với khớp do sự lây
lan qua đường máu hoặc trực tiếp từ một nơi lân cận. Khớp hông đặc
biệt nhạy cảm, vì nó nằm trong bao khớp và có chung sự cung cấp
máu với đầu xương đùi. Staphylococcus aureus và các loài
Streptococcus là những tác nhân gây bệnh phổ biến nhất. Sự phá hủy
khớp và sụn tăng trưởng là do các enzyme vi khuẩn, viêm và áp lực
từ sự tích tụ của dịch mủ trong một khoang cố định. Giảm chiều dài
chân và giảm sự di động khớp là di chứng phổ biến. Các triệu chứng
bao gồm sốt, đau khớp hoặc chi, tăng bạch cầu, và tốc độ lắng đọng
hồng cầu tăng lên. Chẩn đoán được xác nhận bởi chọc dịch khớp và
cấy. Không phải không thường gặp những trường hợp cấy dịch mủ
âm tính, trong tình huống đó thì sử dụng liệu pháp kháng sinh nhắm
đến các vi khuẩn thường gây bệnh nhất.
Viêm tủy xương phát triển và biểu hiện theo nhiều cách tương
tự. Nguyên nhân bao gồm đường máu, tiêm nhiễm trực tiếp bởi chấn
thương hoặc phẫu thuật, và lan truyền của nhiễm khuẩn tại chỗ. Tỷ
lệ mắc bệnh viêm tủy xương theo đường máu là cao nhất trong hai
thập kỷ đầu của cuộc đời, phổ biến hơn trong suy giảm miễn dịch,
chấn thương nhẹ với bệnh nhiễm trùng máu, và đặt ống thông vào
tĩnh mạch. Xét nghiệm chẩn đoán bao gồm chụp X quang, cộng
hưởng từ và / hoặc xạ hình xương của chi bị ảnh hưởng. Nhiễm
trùng bán cấp và mãn tính sau đó có thể phát triển, đòi hỏi liệu pháp
kháng sinh dài hạn, lên đến 6 tuần. Các mầm bệnh gây bệnh phổ
biến nhất là S. aureus, liên cầu và Kingella kingae (chủ yếu ở trẻ
dưới 5 tuổi).
411 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
Cả hai loại viêm khớp nhiễm khuẩn và viêm tủy xương đều là
những trường hợp khẩn cấp về y tế và bất cứ trẻ em nào có biểu hiện
sốt và đau khớp hoặc đau chi cần phải được đánh giá và điều trị
nhanh chóng.
412 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
Chụp MRI ở bệnh nhân bị bệnh Legg-Calvé-Perthes
(LCPD) bởi vì nó nhạy hơn X quang trong việc phát hiện
những thay đổi sớm
Yolanda Lewis-Ragland MD
Nên làm gì?
LCPD ước tính ảnh hưởng đến khoảng 1 trong số 1.200 trẻ
em, chủ yếu là nam giới. LCPD còn được gọi là hoại tử thiếu máu
cục bộ của hông, coxa plana, viêm xương sụn, và hoại tử vô mạch
của đầu xương đùi.
Dấu hiệu và triệu chứng của Legg-Calvé-Perthes Disease
Các triệu chứng đầu tiên của LCPD thường là đi khập khiễng,
và đau ở một bên hông, háng, hoặc đầu gối, với sự giảm dạng và
xoay trong của hông. Thông thường phụ huynh sẽ chú ý lần đầu tiên
khi trẻ đi khập khiễng trong giờ sinh hoạt. Trẻ thường không thể nhớ
một chấn thương nào cả, và cũng không thể xác định chính xác vị trí
của cơn đau.
Nguyên nhân
LCPD có nguồn gốc không rõ; tuy nhiên, một giả thuyết về sự
bất thường cục bộ với huyết khối mạch máu đã được đề xuất. Huyết
khối mạch máu dẫn đến sự chết xương xảy ra ở đầu xương đùi do sự
gián đoạn trong dòng máu. Khi xương chết xảy ra, đầu đùi sẽ phát
triển thành một vết nứt, là dấu hiệu cho sự khởi đầu của sự tái hấp
thụ lại xương của cơ thể. Khi xương bị hấp thụ chậm, nó sẽ được
thay thế bằng mô và xương mới. LCPD dường như diễn ra theo bốn
giai đoạn riêng biệt:
1. Đầu xương đùi trở nên đặc và có thể gãy phần nâng đỡ
xương
2. Phân mảnh và tái hấp thu của xương
413 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
3. Cốt hóa lại xương mới
4. Sửa chữa, xương mới tái định hình.
Những yếu tố nguy cơ của Legg-Calvé-Perthes Disease
Một số yếu tố nguy cơ của LCPD bao gồm trẻ nhỏ so với tuổi
và vận động quá mức; dân tộc thiểu số ở châu Á, người Eskimo và
người da trắng; và tiếp xúc với khói thuốc gián tiếp
Chẩn đoán
Chẩn đoán ban đầu sẽ yêu cầu chụp tia X, MRI hoặc scan
xương. Các biện pháp chẩn đoán khác có thể bao gồm các test về
giới hạn của động tác dạng, đo đùi để xác định teo cơ và các test để
xác định phạm vi vận động của trẻ. Một số nghiên cứu đã tập trung
vào độ nhạy của MRI đối với chẩn đoán sớm. Một số nghiên cứu về
LCPD sớm chứng minh sự vượt trội của MRI đối với chụp X quang
và Hạt nhân. MRI đã chứng minh hoại mạch máu của hông bị ảnh
hưởng khi chụp X quang và xạ hình xương bình thường. Trong vài
tuần đến vài tháng sau đó, XQ có thể trở nên dương tính với LCPD.
414 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
Biết rằng đau hông ở trẻ em có thể là một tình huống
chẩn đoán khó khăn cho các bác sĩ
Laura Hufford MD
Nên làm gì?
Mặc dù hầu hết các tình trạng gây đau hông đều lành tính và
tự hạn chế, đánh giá bệnh lý và điều trị nhanh thường rất quan trọng
và cần thiết để ngăn ngừa tàn tật và tử vong.
Bệnh nhân có biểu hiện đi khập khiễng và hông giảm khả
năng xoay trong, có thể có trợt đầu trên xương đùi. Trong bệnh này,
đầu trên xương đùi bị chuyển ra sau. Điều quan trọng là đau hông có
thể lan đến đầu gối. Độ tuổi biểu hiện trung bình là 12 tuổi, và các
yếu tố nguy cơ bao gồm chứng béo phì, suy giáp và thiếu hormone
tăng trưởng. Một khi chẩn đoán được xác nhận bằng chụp X quang,
bệnh nhân nên được đặt trên nạng, ở trạng thái không mang trọng
lượng và hội chẩn chỉnh hình để có thể phẫu thuật.
Hoại tử vô mạch chỏm xương đùi nguyên phát được gọi là
bệnh Legg-Calvé-Perthes (LCPD). Tuổi biểu hiện nhiều là từ 5 đến 7
tuổi, và phổ biến ở trẻ trai hơn trẻ gái. Bệnh nhân có thể bắt đầu với
một sự khập khiễng, khi hoại tử tiến triển, xuất hiện đau hông, đùi,
hoặc đau đầu gối. Khi thăm khám, trẻ bị đau khi xoay trong và dạng,
và thông thường, XQ thương quy (dấu chân ếch) đủ để chẩn đoán.
Liệu pháp điều trị cho LCPD vẫn còn nhiều tranh cãi. Trên thực tế,
70% đến 90% bệnh nhân có chuyển động tốt và không có đau ở 20
năm theo dõi bất kể điều trị ban đầu. Do đó, nếu nghi ngờ LCPD,
bệnh nhân nên được đặt vào tình trạng không mang trọng lượng và
giới thiệu đến chỉnh hình để đánh giá và quản lý thêm.
Viêm màng hoạt dịch thoáng qua là một chứng viêm tự giới
hạn của lớp hoạt dịch lót bên trong khớp hông. Nó xảy ra ở trẻ trai
gấp đôi ở trẻ gái và thường gặp ở trẻ từ 3 đến 8 tuổi. Bệnh nhân
thường không có sốt và có biểu hiện đi khập khiễng và đau hông một
bên. Tuy nhiên, một tỷ lệ nhỏ trẻ em bị viêm màng hoạt dịch thoáng
qua 2 bên. Một nghiên cứu cho thấy 25% trẻ em bị viêm thoái hoá
415 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
khớp thoáng qua có tràn dịch khớp hoặc sưng màng hoạt dịch phía
đối diện. Đau thường kéo dài từ 3 đến 10 ngày và được điều trị bằng
thuốc chống viêm và nghỉ ngơi.
Viêm khớp nhiễm khuẩn là một nhiễm trùng do vi khuẩn trong
khoang khớp và có thể dẫn đến tàn tật vĩnh viễn và tử vong nếu
không được điều trị kịp thời. Bệnh nhân thường không biểu hiện sốt
và dễ kích thích hoặc ngủ lịm. Hông thường được giữ ở vị trí gập,
xoay ngoài, dạng và bị giảm khả năng di chuyển. Tiêu chuẩn vàng
để chẩn đoán viêm khớp nhiễm khuẩn bao gồm chọc hút dịch khớp.
Dịch khớp nói chung là đục, với số lượng bạch cầu > 50.000 / μL và
neutrophilic ưu thế. Cấy dịch có vi khuẩn gây bệnh trên 70% bệnh
nhân. Tình trạng này là một trường hợp khẩn cấp y tế vì bất kỳ sự
chậm trễ nào trong việc làm sạch khớp bị nhiễm trùng bằng phẫu
thuật có liên quan đến hoại tử khớp và viêm tủy xương.
Phân biệt các nguyên nhân gây ra đau hông là một nhiệm vụ
khó khăn nhưng quan trọng. Chụp X quang phim phẳng có thể giúp
loại trừ các bệnh cơ xương khớp như LCPD và chứng trợt đầu trên
xương đùi (SCFE). Tuy nhiên, phân biệt giữa viêm màng hoạt dịch
thoáng qua và nhiễm khuẩn khớp hông có thể khó khăn. Một nghiên
cứu của Kocher et al. khuyến cáo sử dụng bốn yếu tố dự báo để xác
định khả năng bị viêm khớp nhiễm khuẩn. Các yếu tố đó bao gồm
sốt 38,5 ° C, không chịu được trọng lượng, tốc độ lắng hồng cầu ≥
40 và số lượng bạch cầu huyết thanh ≥12,000 tế bào / mL3. Nghiên
cứu của Kocher cho thấy nếu có ba hoặc bốn yếu tố dự báo, thì >
93% là viêm khớp nhiễm khuẩn và nên được chọc dịch khớp làm
XN và có thể phải phẫu thuật mở khớp. Nếu bệnh nhân có hai yếu tố
dự báo, Kocher khuyên bạn nên chọc hút dịch khớp dưới hướng dẫn
của siêu âm và sau đó điều trị theo kết quả XN dịch khớp.
416 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
Nhớ kiểm tra creatinine phosphokinase (CPK) ở những
BN “đau cơ” đáng kể
Lindsey Albrecht MD
Nên làm gì?
Tiêu cơ vân thường bị chẩn đoán nhầm và không chẩn đoán ở
trẻ em và thanh thiếu niên mắc bệnh virus, nhiệt độ quá cao hoặc
những người vận động quá mức.
Than phiền về đau nhức cơ rất phổ biến ở trẻ em. Trong hầu
hết các trường hợp, đau nhức là thoáng qua và lành tính; mặc dù đôi
khi tiềm ẩn một vấn đề lớn hơn. Tiêu cơ vân là một nguyên nhân
tiềm ẩn nghiêm trọng gây ra chứng đau cơ trong thời thơ ấu và được
đặc trưng bởi sự phân hủy các mô cơ vân. Sự phân hủy cơ dẫn đến
sự rò rỉ các thành phần tế bào cơ, bao gồm creatin kinase (CK) và
myoglobin vào tuần hoàn. Myoglobin niệu có thể dẫn đến suy thận
cấp, là hậu quả nghiêm trọng nhất của tiêu cơ vân.
Sự tiêu cơ vân ở trẻ em khác với người trưởng thành về
nguyên nhân, biểu hiện lâm sàng và tiên lượng.
Ở trẻ em, sự tiêu cơ vân thường là do viêm cơ virus, chấn
thương, bệnh mô liên kết, và quá liều thuốc. Trong thời thơ ấu,
nhiễm virut là nguyên nhân hàng đầu, chiếm gần 40% tất cả các
trường hợp tiêu cơ vân ở trẻ em. Chấn thương, dẫn đến sự chèn ép
cơ hoặc tổn thương cơ, là nguyên nhân hàng đầu của tiêu cơ vân ở
trẻ em trên 9 tuổi. Chấn thương chiếm khoảng 26% tất cả các ca trẻ
em bị tiêu cơ vân. Tập thể dục quá mức được biết đến là thỉnh
thoảng gây ra tiêu cơ vân ở trẻ em và người lớn và chiếm khoảng 4%
trường hợp trẻ em. Trong một trường hợp báo cáo, 119 học sinh bị
đau cơ và CK cao sau khi được hướng dẫn để thực hiện 120 lần hít
đất trong 5 phút. Đặc biệt có thể xảy ra tiêu cơ vân khi luyện tập thể
dục ở nhiệt độ và độ ẩm cao. Các rối loạn chuyển hóa như toan keton
ĐTĐ, bệnh McArdle, thiếu aldolase A, có thể dẫn đến tiêu cơ vân ở
trẻ em.
417 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
Biểu hiện lâm sàng điển hình gồm tam chứng đau cơ, yếu cơ
và tiểu sẫm màu, nhưng xảy ra không thường xuyên ở BN nhi.
Trong nghiên cứu nhi khoa lớn nhất cho đến nay, chỉ có 1
trong số 191 bệnh nhân có cả ba triệu chứng. Đau cơ đã được ghi
nhận ở 45% bệnh nhân, yếu cơ 38% và nước tiểu đậm trong khoảng
4% trẻ ở nghiên cứu này. Các đặc điểm bổ sung phổ biến khác bao
gồm sốt 40%, cơ nhạy cảm đau 39%, và triệu chứng nhiễm virus
39%
Xét nghiệm đánh giá tiêu cơ vân nên bao gồm CK huyết
thanh, hóa sinh cơ bản và xét nghiệm nước tiểu. Chẩn đoán chính
xác tiêu cơ vân thường được thực hiện khi CK huyết thanh > 5 lần
bình thường mà không có bằng chứng có sự gia tăng đáng kể các
phân số tim hay não (CK-MB hoặc CK-BB). Que thử nước tiểu có
thể dương tính với hemoglobin nhưng kiểm tra bằng kính hiển vi
không thấy hồng cầu. Điều này đại diện myoglobin niệu hơn là tiểu
máu. Suy thận cấp (ARF) ít gặp ở bệnh nhân nhi khoa có kết quả que
thử nước tiểu dưới < 2+.
ARF thường gặp hơn khi kết quả que thử cao hơn (> 2+),
nhưng vẫn chỉ xảy ra ở 5% trẻ. CK huyết thanh tương quan với mức
độ rối loạn chức năng thận, bởi vì các giá trị CK cao hơn có liên
quan đến nồng độ creatinine trong máu cao hơn. Ngoài tỷ lệ ARF
thấp hơn nhiều so với ở người lớn, trẻ cũng thường không tiến triển
thành suy thận mãn tính.
Điều trị tiêu cơ vân ở trẻ nên bao gồm việc bắt đầu bù dịch
sớm. Hầu hết các nhà lâm sàng có xu hướng điều trị với 1,5 đến 2
lần nhu cầu dịch duy trì. Cần thiết sử dụng bicarbonate để kiềm hóa
nước tiểu, mặc dù hiệu quả ở người lớn, nhưng chưa được chứng
minh là ngăn ngừa được ARF ở trẻ em. Các bất thường điện giải
đáng kể, chẳng hạn như tăng kali máu, rất hiếm nhưng cần phải được
điều trị một cách hợp lý và tích cực.
Việc chẩn đoán tiêu cơ vân ở trẻ em thường bị cản trở do thiếu
các triệu chứng điển hình. Bệnh nhân bị đau cơ, yếu cơ, hoặc cơ
nhạy cảm đau nên được đánh giá tiêu cơ vân, bởi vì di chứng nghiêm
trọng như ARF có thể xảy ra nếu không bắt đầu bù dịch TM tích
cực. Vì bệnh do virut và chấn thương là nguyên nhân hàng đầu gây
418 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
ra sự tiêu cơ vân ở trẻ, nên khi có những điều này phải tăng nghi ngờ
để chẩn đoán sớm.
419 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
Hãy nhớ rằng đau khớp hoặc đau chi, đặc biệt là ở chi
dưới, có thể là đau quy chiếu từ một vị trí khác
Michael Clemmens MD
Nên làm gì?
Thực hiện một cuộc thăm khám toàn diện và cân nhắc chụp
XQ của cả những vùng được hỏi, cũng như những vị trí gần và xa
hơn.
Đau chi dưới có thể là một dấu hiệu bệnh lý đáng kể ở trẻ em.
Ở trẻ mới biết đi, nó thường biểu hiện như một sự khập khiễng hoặc
không có khả năng chịu trọng lượng. Trẻ sơ sinh có thể cảm thấy
không thoải mái khi thay tã hoặc từ chối di chuyển một chi. Định
khu vị trí bệnh có thể là khó khăn bởi vì trẻ nhỏ thường không thể
truyền đạt được vị trí đau. Ngoài ra, bệnh ở một khu vực có thể gây
đau ở một khu vực khác. Điều này xảy ra phổ biến nhất với hông, có
thể gây đau quy chiếu ở đùi hoặc đầu gối. Tuy nhiên, đi khập khiễng
và đau quy chiếu cũng có thể thứ phát từ bệnh lý cột sống hoặc bệnh
tiêu hóa, như viêm ruột thừa. Bác sĩ lâm sàng có thể bị nhầm lẫn nếu
toàn bộ chi dưới và phần cơ thể liền kề không được đánh giá.
Chẩn đoán phân biệt của đau chi dưới, đi khập khiễng là khá
rộng và phụ thuộc và tuổi của trẻ. Table
230.1 danh sách một số nguyên nhân phổ biến của đau chi
dưới theo từng nhóm tuổi. Việc lựa chọn chẩn đoán cần được công
nhận, đánh giá và điều trị khẩn cấp sẽ được xem xét ở đây. Một chẩn
đoán phân biệt mở rộng hơn có thể được tìm thấy trong tài liệu tham
khảo được cung cấp hoặc trong các chương riêng biệt về rối loạn
phát triển của mô hông và gãy xương trong chấn thương không do
tai nạn (do bạo hành trẻ em). Nói chung, các nguyên nhân cụ thể của
đi khập khiễng được chia thành 3 loại: đau, yếu, hoặc bất thường về
cấu trúc. Hỏi bệnh sử kỹ lưỡng, thăm khám tỉ mỉ, và việc sử dụng
hợp lý các XN và X quang thường sẽ dẫn đến chẩn đoán chính xác.
420 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
Bệnh Legg-Calvé-Perthes (LCPD) và chứng trợt đầu trên
xương đùi (SCFE) là các bệnh về hông, nếu được chẩn đoán sớm sẽ
cải thiện tiên lượng. LCPD là một hội chứng hoại tử vô mạch chỏm
xương đùi. Đau trong LCPD thường không nghiêm trọng và có thể
quy chiếu đến mắt trước đùi hoặc đầu gối. Một số trường hợp chỉ có
khập khiễng. Khi thăm khám, phạm vi chuyển động có thể bị hạn
chế. SCFE xảy ra do chấn thương cấp tính hoặc lặp đi lặp lại cho
một đĩa sụn tăng trưởng bất thường của đầu xương đùi. Nó xảy ra
phổ biến nhất ở những năm đầu của tuổi teen, ngay trước khi trẻ dậy
thì, và nó liên quan đến chứng béo phì. Cùng với việc xoay ngoài bị
ảnh hưởng, trẻ thường than phiền rất nhức nhối vùng hông, đùi, hoặc
đầu gối.
Bảng 230. 1 Common Causes of Lower Extremity Pain by Age Group
Age Causes
Birth to 2 years Septic arthritis
Osteomyelitis
Developmental dysplasia of the
hip Nonaccidental trauma
2 to 10 years Septic arthritis
Osteomyelitis
Legg-Calvé-Perthes disease
Juvenile rheumatoid arthritis
Transient synovitis of the hip
Leukemia
Fractures
10 to 18 years Fractures
Slipped capital femoral epiphysis
Transient synovitis of the hip
Tumors
Osteomyelitis
Việc chẩn đoán sớm và điều trị viêm khớp nhiễm khuẩn,
nhiễm khuẩn ở khớp, là rất quan trọng để ngăn ngừa tàn tật do phá
hủy khớp. Mặc dù nó có thể xảy ra trong bất kỳ khớp nào, nhưng nó
thường ảnh hưởng đến hông và đầu gối. Sốt thường có mặt, và thăm
khám quan trong là đau nặng khi chuyển động khớp thụ động. Dấu
421 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
hiệu viêm trong máu tăng lên, và vi khuẩn có thể có mặt trong dịch
khớp của khớp bị ảnh hưởng hoặc trong máu. Bệnh giống viêm khớp
nhiễm khuẩn nhất là viêm màng hoạt dịch ở hông, một bệnh tự giới
hạn, gây viêm tạm thời không rõ nguyên nhân. Trẻ em bị viêm hoạt
dịch thoáng qua không có biểu hiện toàn thân và các XN thường
bình thường.
Gãy xương chày xoắn ốc ở trẻ em (CAST), trước đây gọi là
gãy xương của trẻ mới biết đi, do chấn thương nhẹ như xoắn mắt cá
chân, sảy chân, hoặc nhảy từ độ cao thấp. Gãy xương CAST biểu
hiện với đau chân, đi khập khiễng, hoặc không chịu được trọng
lượng ở trẻ em dưới 7 tuổi. Sưng và biến dạng thường không có.
Chẩn đoán được gợi ý bằng điểm nhạy cảm đau ở phía trên vị trí đứt
gãy, thường là phần dưới thứ ba của xương chày. Đau cũng có thể
được gợi lên bằng cách nhẹ nhàng xoắn bàn chân và phần trên của
cẳng chân theo hướng ngược lại. Gãy xương CAST được nhìn thấy
tốt nhất bằng hình ảnh X quang với chế độ nghiêng trước. Tuy nhiên,
trong nhiều trường hợp, x-quang sẽ bình thường và chẩn đoán được
dựa vào một mình lâm sàng.
Ung thư lympho cấp tính là trường hợp ác tính phổ biến nhất ở
trẻ em và thường xuất hiện với chứng đau xương hoặc khập khiễng
kéo dài. Việc chẩn đoán bệnh bạch cầu lymphô cấp tính cần được đề
ra ở bất cứ trẻ em nào có đau chi dưới vào ban đêm hoặc đau chân
dai dẳng. Bệnh sử, khám lâm sàng, phết máu ngoại vi, và XQ có thể
dẫn đến chẩn đoán. Các khối u ác tính của xương phát sinh ở đầu xa
xương đùi hoặc đầu gần xương chày cũng có thể có đau đầu gối.
422 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
Đừng bỏ sót chẩn đoán chấn thương do bạo hành ở trẻ
em bị chấn thương xương
Michael Clemmens MD
What to Do – Interpret the Data
Biết các kiểu hay đặc tính phổ biến của gãy xương liên quan
đến đả thương. Lạm dụng trẻ em là nguyên nhân phổ biến gây gãy
xương ở trẻ nhỏ, đặc biệt ở trẻ dưới 2 tuổi. Trẻ em không phải là
người có thể tự đi bộ nên hiếm khi bị gãy xương dài do tai nạn. Khi
gãy xương như vậy xảy ra ở nhóm tuổi này, thường có một bệnh sử
rõ ràng về ngã hoặc các thương tích hợp lý khác. Bất kỳ vết nứt nào
ở trẻ không có khả năng đi lại (trẻ ngồi xe lăn) thì cần nâng cao chỉ
số nghi ngờ về lạm dụng trẻ em.
Một số yếu tố trong bệnh sử lâm sàng nên cảnh báo bác sĩ lâm
sàng về khả năng chấn thương do bạo hành. Các thương tích không
giải thích được hoặc không được nhìn thấy dẫn đến gãy xương, đặc
biệt ở trẻ nhỏ, là phải nghi ngờ về sự lạm dụng. Khi báo cáo cơ chế
chấn thương không phù hợp với giai đoạn phát triển của đứa trẻ hoặc
với các thương tích được ghi nhận khi thăm khám hoặc chụp X-
quang thì khả năng bị đả thương xảy ra cao hơn đáng kể. Cũng cần
quan tâm đến bệnh sử thay đổi hay có tính đáng nghi ngờ, cho thấy
đứa trẻ bị thương bởi anh chị em ruột hoặc người chăm sóc, hoặc
bệnh sử mâu thuẫn thu được từ người chăm sóc riêng.
Nhiều gãy xương là đơn độc do bạo hành. Tuy nhiên, một số
trẻ sẽ có tiền sử bị thương nhiều lần, phải vào các trung tâm y tế
khác nhau để điều trị. Nhiều vết nứt gãy, đặc biệt là những vết ở
những giai đoạn lành khác nhau, hoặc các vết nứt liên quan đến các
thương tích khác, chẳng hạn như bỏng hoặc bầm tím, cần nghi ngờ
lạm dụng trẻ em.
Tổn thương hành xương điển hình xảy ra như là một kết quả
của chấn thương do cắt và biểu hiện một loạt các vi gãy xương ở
hành xương. Một tổn thương hành xương điển hình, còn được gọi là
gãy góc hay gãy bucket handle dựa trên hình ảnh chụp X quang của
423 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
nó, là đặc trưng do đả thương gây ra. Hơn nữa, trong trường hợp
không có tiền sử chấn thương, gãy xương sườn ở trẻ nhỏ rất đáng
nghi ngờ là do đả thương. Những vết nứt này thường được duy trì
dọc theo mặt sau và mặt bên của xương sườn, và là kết quả của các
lực nén ép gây ra trong khi giữ chặt xung quanh lồng ngực. Cuối
cùng, gãy xương bả vai hoặc gãy xương ở các độ tuổi khác nhau có
tương quan cao với đả thương.
Một số vết gãy khác có thể được nhìn thấy trong lạm dụng trẻ
em nhưng không đặc hiệu như đề cập ở trên. Chúng bao gồm gãy
xương sọ, đặc biệt nếu chúng phức tạp hoặc có liên quan đến bệnh
sử đáng nghi và gãy mỏm gai hoặc cột sống. Sự tách rời của đầu
xương và gãy đốt ngón tay hay ngón chân, gãy xương bàn tay và
xương bàn chân cũng liên quan đến đả thương.
Vị trí phổ biến nhất của gãy xương do đả thương là ở giữa
thân của một xương dài. Gãy xương cánh tay hoặc xương đùi ở trẻ
không có khả năng đi lại gợi ý đả thương. Gãy xương cẳng tay và
cẳng chân cũng thường gặp ở trẻ bị ngược đãi, nhưng ở trẻ có khả
năng đi lại thì những thương tích này cũng có thể là do tai nạn. Gãy
xương đòn và gãy xương sọ thường xảy ra do hậu quả của việc lạm
dụng nhưng cũng có thể xảy ra ở những bối cảnh khác.
Trong trường hợp chẩn đoán chấn thương do bạo hành thì nên
bắt đầu với XQ. XQ thẳng và nghiêng của bộ phận cơ thể bị ảnh
hưởng phải được thu thập trong tất cả các trường hợp thương tích
được báo cáo hoặc nghi ngờ. Một cuộc khảo sát xương hoàn chỉnh
phải được chỉ định ở trẻ em dưới 2 tuổi khi nghi ngờ bị ngược đãi.
Trong một số trường hợp, khảo sát xương có thể hữu ích ở trẻ lớn
hơn. Cuộc khảo sát xương bao gồm một cái nhìn trước sau (XQ
thẳng) của tất cả các xương, nhìn nghiêng cột sống và xương sọ, và
nhìn nghiêng 2 bên của xương sườn. Nên áp dụng cách nhìn kiểu
nón cụt (cone down view) khi nghi ngờ hoặc có những vùng tổn
thương kèm theo. Khi cần thêm thông tin về các thương tích hiện tại
hoặc liên quan, có thể scan xương, chụp cắt lớp vi tính, hoặc chụp
cộng hưởng từ.
Chẩn đoán lạm dụng trẻ em không phải lúc nào cũng rõ ràng.
Bác sĩ hoặc nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ phải duy trì
mức độ cảnh giác cao đối với khả năng bị đả thương. Bệnh sử và
thăm khám kỹ, sử dụng hợp lý các XN hình ảnh có thể dẫn đến việc
424 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
nhận ra chấn thương do bạo hành. Bác sĩ có trách nhiệm báo cáo
không những các trường hợp lạm dụng đối với các cơ quan chức
năng thích hợp, mà còn cả trường hợp nghi ngờ lạm dụng. Điều này
cho phép điều tra kỹ lưỡng bởi một đội ngũ các chuyên gia và hỗ trợ
bác sĩ trong việc chẩn đoán xác định.
425 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
Thăm khám hông kỹ lưỡng ở trẻ sơ sinh và trẻ em mỗi
khi chúng đến khám cho tới khi chúng có thể tự đi bộ tốt
Michael Clemmens MD
Nên làm gì
Loạn sản phát triển khớp hông (DDH) đề cập đến một mối
quan hệ giải phẫu bất thường giữa đầu xương đùi và ổ cối. Nếu đầu
xương đùi không khớp với ổ cối, khớp sẽ không phát triển bình
thường, dẫn đến tàn tật suốt đời. Hông có thể bị trật khớp khi sinh
hoặc trật khớp đơn thuần, với trật khớp xảy ra trong những tháng đầu
đời. DDH có thể xuất hiện bất cứ lúc nào trong thời thơ ấu, nhưng
thường được chẩn đoán lúc mới sinh hoặc sơ sinh. Sự nhận biết sớm
dẫn đến điều trị nhanh hơn và ít xâm lấn hơn. Trẻ sơ sinh thường có
thể được điều trị mà không cần phẫu thuật, trong khi hầu hết trẻ
được chẩn đoán sau 2 tuổi yêu cầu phẫu thuật.
Các yếu tố nguy cơ của DDH bao gồm quan hệ tình dục với
phụ nữ, đẻ ngôi mông và tiền sử gia đình có người bị. Những trẻ gái
đẻ ngôi mông có nguy cơ đặc biệt cao. Sự có mặt của vẹo cổ, tật
xương đốt bàn chân vẹo vào, hoặc rối loạn thần kinh cơ cũng làm
tăng nguy cơ DDH. Cha mẹ của trẻ lớn hơn có thể báo cáo một sự đi
khập khiễng, dáng đi như vịt, hoặc sự chênh lệch chiều dài chân.
DDH chủ yếu được chẩn đoán bằng khám lâm sàng. Nghiệm
pháp Ortolani và Barlow có thể phát hiện hầu hết trường hợp nhưng
không phải tất cả DDH trong giai đoạn sơ sinh và trong 4 tháng đầu
đời. Người bác sĩ phải khám trẻ sơ sinh khi bé bình tĩnh, và kiểm tra
từng hông một lúc. Có âm thanh khi vận động cho thấy nghiệm pháp
dương tính. Dây chằng lách cách nói chung không chỉ ra bệnh lý. Sự
bất đối xứng của chiều dài đùi hay nếp gấp da cũng gợi ý chẩn đoán.
Giới hạn dạng khớp hông là một dấu hiệu ban đầu của DDH sau 3
tháng tuổi. Điều cần thiết là bác sĩ lâm sàng thực hiện thăm khám
cẩn thận và ghi chép lại cuộc khám nghiệm hông tại mỗi lần khám
bệnh vì chứng loạn sản hông có thể phát triển sau khi khám lần đầu
tiên bình thường. Siêu âm là XN hình ảnh được lựa chọn ở trẻ dưới 4
426 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
tháng tuổi vì nó có thể xác định tính di động của hông và giải phẫu.
Sau tuổi đó, chụp X quang thường rất hữu ích vì đầu xương đùi bắt
đầu cốt hóa.
Khi nghi ngờ DDH, trẻ nên được giới thiệu ngay đến bác sỹ
phẫu thuật chỉnh hình có tay nghề trong chẩn đoán và điều trị tình
trạng này. Điều trị phụ thuộc vào tuổi tác. Đai Pavlik được sử dụng
trong giai đoạn đầu của trẻ sơ sinh để duy trì sự duỗi và dạng khớp.
Tã 3 lớp không phải là cách điều trị hiệu quả cho DDH. Trẻ
lớn hơn và trẻ mới biết đi phải thường xuyên nắn kín. Việc chẩn
đoán sau khi trẻ 18 tháng tuổi thường đòi hỏi nắn hở và cố định
khớp.
Những sai lầm cần tránh trong việc đánh giá trẻ DDH bao
gồm việc không xem xét các yếu tố nguy cơ, không đánh giá hông ở
mỗi lần khám trong 2 năm đầu đời, và thực hiện thăm khám hông
không đầy đủ hoặc không chính xác. Trong những trường hợp có
vấn đề, bác sĩ lâm sàng không nên ngần ngại tìm kiếm ý kiến thứ hai
từ bác sĩ nhi khoa hoặc bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình có kinh nghiệm.
Chụp X quang không hữu ích ở trẻ em dưới 4 tháng.
Khi chẩn đoán đã rõ ràng, không nên có một sự chậm trễ trong
việc giới thiệu một chuyên gia thích hợp.
427 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
Biết cách nhận biết và điều trị chứng vẹo cột sống vì
chẩn đoán sớm và điều trị đặc biệt quan trọng để tránh
những hậu quả nghiêm trọng
Elizabeth Wells MD
Nên làm gì?
Chứng vẹo cột sống có thể là bẩm sinh, thần kinh cơ, thoái
hóa, hoặc tự phát. Cột sống nên được thăm khám ở tất cả các bệnh
nhân nhi khoa như là một phần của các cuộc thăm khám ở trẻ sơ sinh
và khám hàng năm. Chứng vẹo cột sống nguyên phát được thấy ở trẻ
trước vị thành niên và vị thành niên đang phát triển nhanh (thường là
trẻ lớp 5-9). Trẻ gái thường cần điều trị nhiều hơn trẻ trai 5 đến 8
lần. Điều quan trọng khi hỏi về chứng vẹo cột sống là tiền sử gia
đình, vì nguy cơ cao gấp 20 lần ở ở trẻ có người trong gia đình bị
ảnh hưởng.
Làm thế nào để sàng lọc
Trong suốt cuộc thăm khám, lưng của đứa trẻ nên được bộc lộ
hoàn toàn. Bác sĩ nhi khoa nên hướng dẫn trẻ lớn hơn đứng thẳng
với 2 bàn chân, vai quay lại, và hai tay treo ở hai bên, thẳng đầu và
nhìn thẳng về phía trước. Các dấu hiệu của chứng vẹo cột sống bao
gồm sự không đối xứng của chiều cao vai, xương bải vai, hoặc hông
hoặc sự lệch trục của cột sống. Sau khi kiểm tra lưng ở vị trí thẳng
đứng, bác sĩ nên yêu cầu đứa trẻ cúi xuống trước ở thắt lưng (với bàn
chân và lòng bàn tay chạm nhau) và kiểm tra lại sự không đối xứng.
Test uốn người về phía trước để kiểm tra sự không đối xứng của
ngực là kỹ thuật sàng lọc quan trọng nhất.
Điều trị
Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ khuyến cáo trẻ sơ sinh, trẻ em và
thanh thiếu niên bị chứng vẹo cột sống nghiêm trọng được chuyển
tới bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình nhi khoa. Bác sĩ chỉnh hình sẽ thực
428 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
hiện chụp XQ thẳng tư thế đứng của cột sống để xác nhận chẩn
đoán. Các đề xuất điều trị sẽ tùy thuộc vào mức độ, tính linh hoạt, và
vị trí của đường cong. Các hướng dẫn hiện tại là theo dõi chặt chẽ từ
3 đến 6 tháng bằng XQ đối với độ cong < 15 đến 20 độ; sử dụng nẹp
Milwaukee trong khoảng từ 20 đến 40 độ; Đeo nẹp (brace) hoặc
phẫu thuật giữa 40 và 50 độ; và sự kết hợp tủy sống cho > 50 độ.
Hậu quả của việc bỏ sót vẹo cột sống
Vì chứng vẹo cột sống nghiêm trọng (> 50-60 độ) đòi hỏi phải
điều trị bằng phẫu thuật cột sống, bác sĩ nhi khoa phải nhận ra chứng
vẹo cột sống ở giai đoạn sớm để tránh phẫu thuật lớn. Phương pháp
điều trị không phẫu thuật được ưa thích vì phẫu thuật lưng, ngoài các
nguy cơ chung liên quan đến phẫu thuật và gây tê, có thể liên quan
đến các vấn đề, như tổn thương thần kinh và tủy sống. Không được
điều trị, đường cong bên sẽ tiếp tục phát triển cho đến khi trưởng
thành xương, thông thường là từ 13 đến 16 tuổi đối với trẻ em gái và
14 và 17 tuổi đối với trẻ em trai. Nếu không có phẫu thuật, chứng
vẹo cột sống nghiêm trọng có thể làm giảm đáng kể khả năng sống
còn và làm giảm chức năng tim phổi, dẫn đến tăng áp phổi và suy
tim sung huyết.
Đừng bỏ sót những tình trạng khác cùng biểu hiện với vẹo cột
sống
Mặc dù hầu hết trẻ bị chứng vẹo cột sống thường có các cấu
trúc khác bình thường nhưng điều quan trọng là đừng bỏ lỡ một vấn
đề phát triển rộng hơn, trong đó cột sống cong sang một bên là một
đặc điểm.
Trẻ sơ sinh bị chứng vẹo cột sống nên được đánh giá, thường
là chụp X quang, để xác định xem nó có phải do chèn ép trong tử
cung hay dị dạng đốt sống. Một bệnh nhân có đốt sống bị biến dạng
nên được kiểm tra cẩn thận để tìm các dị tật khác. Trẻ lớn hơn bị
chứng vẹo cột sống nên được đánh giá để xác định liệu chứng vẹo
cột sống là mắc phải hay bẩm sinh. Một đứa trẻ ngắn, không cân
xứng, hoặc có cấu trúc xương dài thay đổi cần được khảo sát xương
để loại trừ chứng loạn sản xương hoặc bệnh xương chuyển hóa. Da
nên được kiểm tra kỹ lưỡng để loại trừ một hội chứng da-thần kinh,
chẳng hạn như u sợi thần kinh hoặc bệnh nhiễm sắc tố dầm dề
(incontinentia pigmentosa). Nếu tình trạng chậm phát triển tâm thần
429 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
trầm trọng xảy ra ở trẻ nam vị thành niên bị chứng vẹo cột sống, tầm
vóc ngắn, và khuôn mặt giống ngựa (coarse facies), nên xem xét hội
chứng Coffin-Lowry. Bệnh thần kinh cơ nguyên phát có thể là
nguyên nhân gây ra chứng vẹo cột sống ở trẻ lớn hơn, nếu thăm
khám thần kinh thấy yếu cơ, thay đổi phản xạ gân, phối hợp kém,
hoặc rối loạn dáng đi. Cuối cùng, cần phải cân nhắc phân biệt với
bệnh mô liên kết, và phải đánh giá về nhãn khoa và tim mạch khi có
các bất thường khác trong cấu trúc nâng đỡ (ví dụ hội chứng marfan,
các khớp lỏng lẻo, lệch lenses mắt).
Tất cả trẻ cần được kiểm tra chứng vẹo cột sống. Phân loại
chứng vẹo cột sống và đánh giá các nguyên nhân cơ bản sẽ phụ
thuộc vào tuổi lúc biểu hiện và những bất thường liên quan. Bác sĩ
nhi khoa phải tập trung đặc biệt vào cột sống trong thời kỳ tăng
trưởng của thanh thiếu niên để ngăn ngừa các hậu quả của phẫu thuật
hoặc không điều trị bệnh.
430 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
Đừng bỏ qua những vấn đề cơ xương khớp phổ biến có
hậu quả xấu như chấn thương do vận động quá mức, gãy
sụn tăng trưởng, và gãy xương thuyền
Nailah Coleman MD
Nên làm gì?
Sự cạnh tranh thể thao, có thể là Little League, Junior Varsity,
Varsity, hoặc các môn thể thao đại học, thường có thể dẫn đến chấn
thương thể thao. Một số thương tích dễ nhận ra; tuy nhiên, có thể có
một số ít khó nhận ra và, nếu không được điều trị, có thể có những
hậu quả nghiêm trọng. Thương tích do vận động quá mức, gãy
xương thuyền, và gãy sụn tăng trưởng cần được chẩn đoán và điều
trị một cách kịp thời.
Thương tích do vận động quá mức, bao gồm viêm gân, viêm
khớp dịch (apophysitis), và gãy xương do mệt mỏi, có thể xảy ra với
sự tham gia thể thao quá mức. Trong khi vẫn đang tăng trưởng và
phát triển, các vận động viên trẻ tuổi có thể đặc biệt có khuynh
hướng bị thương do các môn thể thao sử dụng lặp lại (ví dụ: chạy,
ném bóng). Những vết thương này có thể bao gồm viêm khớp dịch
(ví dụ như bệnh Osgood-Schlatter, tibial guophysitis apophysitis),
viêm mỏm lồi cầu trong (ví dụ, bệnh khuỷu tay Little League, gây ra
bởi lực kéo và lực nén từ việc ném lặp lại và mạnh lên phần giữa và
phần bên của khuỷu tay ), tổn thương các bề mặt khớp phát triển (ví
dụ, viêm xương sụn bóc tách, xẹp và biến dạng của khớp, cũng được
thấy trong khuỷu tay Little League), và các chấn thương của cột
sống chưa trưởng thành (ví dụ như khuyết eo đốt sống, là một khiếm
khuyết trong phần eo của đốt sống (pars interarticularis), gây ra bởi
lặp đi lặp lại sự duỗi quá mức của xương sống, thường thấy trong tập
gym). Việc công nhận sớm thương tổn do vận động quá mức có thể
giúp tránh được bệnh mãn tính và tàn tật trong tương lai. Tùy thuộc
vào thời điểm được chẩn đoán, việc điều trị các chấn thương do vận
động quá mức là nghỉ ngơi và đeo nẹp lưng cho đến phẫu thuật điều
chỉnh.
431 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
Các xương thuyền, còn được gọi là xương bàn tay, là một nơi
thường xuyên bị gãy ở thanh thiếu niên và người lớn, và nên được
xem xét ở một người ngã duỗi tay và đau đớn trên mốc giải phẫu
hõm lào. Gãy xương không được điều trị qua phần lưng của xương
thuyền, do chỉ có một nguồn cung cấp máu duy nhất, có thể dẫn đến
không kết hợp, viêm khớp cổ tay, và hoại tử mạch máu của dây
chằng gần. May mắn thay, hầu hết các gãy xương thuyền ở trẻ em
đều xảy ra thông qua đầu xa của xương. Một khi nghi ngờ, và thậm
chí không có xác nhận bằng hình ảnh XQ, thì gãy xương thuyền nên
được điều trị với thumb spica (bó bột bất động ở bàn tay, quấn bột
đến gần hết ngón cái)
Một khi đã được xác nhận qua chụp X-quang xương thuyền
(XQ thẳng của cổ tay được giữ ở độ cao 30 độ, ngửa và và lệch về
phía trụ), gãy xương thuyền nên được điều trị trong 8 đến 12 tuần cố
định cho các vết gãy ở eo và 6-8 tuần cố định cho các đứt gãy ở cực
xa . Do mức độ nghiêm trọng của hậu quả của việc điều trị chậm,
nên thảo luận với bác sĩ chỉnh hình trong tất cả các trường hợp nghi
ngờ hoặc xác định gãy xương thuyền.
Tổn thương phần tăng trưởng xương, hay còn gọi là gãy sụn
tăng trưởng, chỉ xảy ra ở những người có hệ thống xương đang phát
triển, trong đó đĩa tăng trưởng vẫn mở và hoạt động. Tổn thương
phần tăng trưởng xương được phân loại thành 5 nhóm, gọi là hệ
thống phân loại của Salter-Harris (SH).
SH I fractures gãy xương hoàn toàn qua các sụn tăng
trưởng mà không có sự gián đoạn của đầu xương và hành xương.
Những chấn thương này được chẩn đoán bởi sự có mặt của đau trên
phần tăng trưởng xương mà không có bất kỳ dấu hiệu chấn thương
nào trên X quang và thường lành tốt mà không ảnh hưởng xấu đến
sự phát triển của cơ thể.
SH II fractures, là tổn thương phần tăng trưởng xương
phổ biến nhất, đi qua phần tăng trưởng xương và một phần của hành
xương, nhưng không liên quan đến đầu xương. Chúng cũng thường
lành tốt.
432 Group Cập nhật kiến thức Y khoa
Lỗi cấp cứu nhi
SH III fractures đi qua đầu xương và phần tăng trưởng
xương nhưng không tổn thương hành xương.
Khi các vết gãy này liên quan đến bề mặt khớp nối, chúng cần
được nắn lại để khôi phục khớp đúng và giảm khả năng gián đoạn
tăng trưởng của khớp.
SH IV fractures cắt xuyên qua đầu xương và băng qua phần
tăng trưởng xương đến cắt qua hành xương. Chúng thường cần được
nắn để phục hồi khớp và giảm khả năng làm gián đoạn sự tăng
trưởng hoặc tăng trưởng biến dạng ở vùng đó.
SH V fractures, còn ợc gọi là tổn thương nghiền nát và
thường bị nhầm lẫn như SH 1, có tỷ lệ cao làm gián đoạn tăng
trưởng xương. Nhận diện và điều trị sớm những thương tổn này có
thể giúp tránh được những tàn tật lâu dài tiềm ẩn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
giao_trinh_cap_nhat_kien_thuc_y_khoa_phan_2.pdf