Tính chất sinh lí và sinh thái của selen: Các động vật có xương sống như chuột có
khả năng metyl hoá selenat và selenit thành các hợp chất như đimetylselenua (CH3Se
CH3) và đimetylđiselenua (CH3SeSeCH3), ta hình dung giống như tính chất của lưu
huỳnh. Sự metyl hoá selen được điều hoà bởi vi khuẩn. Một số vi khuẩn khác lại có khả
năng oxi hoá selen nguyên tố đến selenit ( SeO32 ).
Selen cũng được xem là một nguyên tố dinh dưỡng vi lượng cho cơ thể một số
sinh vật, mặc dù nó xuất hiện chỉ ở một cửa rất hẹp giữa mức lợi ích và mức độc hại.
Chẳng hạn, các triệu chứng thiếu selen ở cá khi mức độ mô của nó < 0,1 g L1 trọng
lượng khô, nhưng các bằng chứng thể hiện độc ở >10g g1. Selen là thành phần của
enzim glutathion peroxiđaza và nhiều protein bao gồm hemoglobin, miosin, xitocrom C
và một số ribonucleoprotein. Sự thiếu selen trong động vật có vú có thể gây ra các rối
loạn của gan, tuỵ và các mô khác. Gia súc thiếu selen thể hiện các triệu chứng thiếu máu,
chậm phát triển và khả năng sinh sản.
303 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 502 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Độc học môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ều sinh vật bậc thấp. Đặc biệt vi khuẩn, động vật nguyên sinh (đơn bào) và nấm
thể hiện khả năng sinh chuyển hoá chất độc trong môi trường. Mặc dù nhiều động vật có
xương sống có thể trao đổi chất các chất độc nhanh hơn so với các dạng thấp này của sự
277
sống, khả năng tổng cộng của tất cả các dộng vật có xương sống đối với sự sinh chuyển
hoá các chất độc là không có ý nghĩa gì đối với toàn bộ số phận chất độc trong môi
trường. Giống như các chất xúc tác vô cơ, các vi sinh vật đơn giản sử dụng các enzim để
hạ thấp năng lượng hoạt hoá của phản ứng và làm tăng tốc độ của sự chuyển hoá. Mỗi
phản ứng chuyển hoá thành công phân huỷ hoá chất đi xa hơn, ngay cả vô cơ hoá nó
thành các hợp chất vô cơ (CO2, H2O, các muối) và tiếp tục các chu trình cacbon và hiđro
trên trái đất.
Sinh chuyển hoá các chất độc bởi vi sinh vật vô cùng phong phú. Ví dụ các vi
khuẩn, tuỳ điều kiện môi trường sống mà tồn tại các chủng vị khuẩn hiếu khí hoặc yếm
khí. Mỗi chúng vi khuẩn chuyển hoá chất độc theo một con đường khác nhau. Chẳng
hạn:.
Đối với PCB có số nguyên tử clo nhỏ hơn hoặc bằng 6 trong điều kiện hiếu khí các
vi khuẩn phân huỷ hiếu khí chúng qua hai giai đoạn: PCB chuyển hoá sinh học thành các
hợp chất axit benzoic có chứa các nhóm thế clo và sau đó, là quá trình khoáng hoá
clobenzoat thành cacbon đioxit và clo vô cơ; mỗi giai đoạn của quá trình này cần sự có
mặt của các nhóm vi khuẩn khác nhau.
+ axit hiđroxi
clo hoá
catechol axit clobenzoic
axit clobenzoic
Trong điều kiện yếm khí, PCB phân huỷ sinh học chậm tạo thành các hợp chất
PCB ít độc hơn có 1 2 nguyên tử clo phân tử theo phản ứng đeclo hoá. Trong quá trình
này, các vi khuẩn kị khí thúc đẩy phản ứng phân huỷ PCB xảy ra qua hai giai đoạn: trong
giai đoạn đầu electron tấn công vào liên kết C – Cl của PCB, sau đó clo bị tách loại và
thay thế bằng hiđro.
Ar – Cl + e– + R – H vi sinh vật Ar – H + Cl– + R
(H2O) (HO
)
(H2) (H
)
x
y
Cl
Cl
Cl
y
OH
OH Cl
Cl
y
COOH
O
COOH
xCl
x x
Cl
COOH
Cl Cl
COOHHO
OH
CO2
OH
Cl
OH
COOH
Cl
COOH
CO2
H2O CO2+
278
Đối với DDT trong đất và trầm tích: sự phân huỷ yếm khí thường chuyển hoá
DDT thành DDD, còn sự phân huỷ hiếu khí chuyển hoá DDT thành DDE.
Sự oxi hoá - khử kim loại trong nước cũng là một ví dụ: Fe2+ trong nước mặt bị
oxi hoá trong điều kiện hiếu khí thành sắt Fe3+ kết tủa hiđroxit, trong khi đó Fe3+ không
tan có mặt trong trầm tích ở đáy hồ trong điều kiện yếm khí lại bị khử thành Fe2+ tan vào
nước hồ.
Fe
3+
+ e
–
Fe2+
Thường sự sinh trưởng của vi sinh vật được kích thích vì chúng thu năng lượng từ
phản ứng sinh chuyển hoá. Khi quần thể các vi sinh vật mở rộng, tốc độ sinh chuyển hoá
toàn phần tăng, ngay cả khi tốc độ của mỗi vi sinh vật cá thể không thay đổi hoặc ngay cả
giảm. Điều này gây khó khăn cho sự mô hình hoá và dự đoán các tốc độ sinh chuyển hoá
trong tự nhiên. Khi nồng độ chất độc (và thế năng) là nhỏ so với các cơ chất khác hoặc
khi các vi sinh vật không thể thu có hiệu quả năng lượng từ sự sinh chuyển hoá, sự sinh
trưởng không được kích thích nhưng sự sinh chuyển hoá vẫn vượt một cách đáng kể qua
sự đồng trao đồng chất.
Sự sinh chuyển hoá có thể được mô hình hoá bằng sử dụng động học enzim đơn
giản Michaelis – Menten, động học sinh trưởng vi sinh vật Monod, hoặc các mô hình số
phức tạp hơn kết hợp với các thông số môi trường khác nhau, và ngay cả sự hình thành
lớp đệm lót và chất nhớt nhựa cây, chúng đều ảnh hưởng đến sự khuếch tán của hoá chất
và sự dinh dưỡng đối với quần thể vi sinh vật. Sự có thể tồn tại được của các quần thể vi
sinh vật và các tốc độ sinh chuyển hoá phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như sự kích thích
di truyền, độ ẩm, các chất dinh dưỡng, oxi, pH và nhiệt độ. Sự sinh chuyển hoá thường
tăng với nhiệt độ trong một khoảng tối ưu nào đó. Sự có sẵn oxi và thức ăn khác nhau (C,
N, P, Fe, Si) thường làm hạn chế sự sinh trưởng vi sinh vật, mà sự dinh dưỡng giới hạn
thường thay đổi với không gian (ví dụ, sông suối) và thời gian (mùa).
Sự phơi nhiễm lâu dài của các quần thể vi sinh vật đối với các chất độc nào đó là
cần thiết cho sự thích nghi của các hệ enzim có khả năng phân huỷ các chất độc này.
Chẳng hạn, người ta thấy các quần thể vi sinh tự nhiên ở vùng ô nhiễm lâu dài bởi sự rỉ ra
của dầu tự nhiên và các hiđrocacbon từ rừng thông phát triển các hệ enzim oxi hoá được
các hiđrocacbon dầu mỏ và đã được áp dụng xử lí dầu tràn.
Ar Cl Ar Cl Ar
R-H
Ar H + R
e Cl
279
Trong các hệ đất liền với hàm lượng oxi và dinh dưỡng cao, độ ẩm thấp và cacbon
hữu cơ cao có thể khống chế sự sinh chuyển hoá bởi sự sinh trưởng của vi sinh hạn chế
và lượng các chất độc cao đối với các vi sinh vật.
7.1.6. Mô hình số phận môi trường của chất độc
Sự bàn luận ở trên cung cấp sự mở đầu định tính ngắn gọn về sự vận chuyển và số
phận của các hoá chất trong môi trường. Mục đích của các nhà nghiên cứu môi trường là làm
sao chuyển bức tranh định tính này thành mô hình khái niệm và cuối cùng thành sự miêu tả
định lượng để có thể sử dụng để dự đoán hoặc tái cấu trúc số phận của hoá chất trong môi
trường (hình 7.1). Sự miêu tả định lượng thường lấy dạng của mô hình cân bằng khối. Ý
tưởng là ngăn hoá (phạm vi hoá) môi trường thành các đơn vị xác định (các thể tích kiểm
soát) và mô tả bằng biểu thức toán học cho cân bằng khối bên trong phạm vi (ngăn).
Cấu trúc của mô hình cân bằng khối dựa theo đường nét chung của chương này.
Thứ nhất, xác định các phạm vi không gian và thời gian được xem xét và thiết lập các
phạm vi môi trường hoặc các thể tích kiểm soát. Thứ hai, các nguồn phát thải được nhận
diện và được định lượng. Thứ ba, các biểu thức toán học cho các quá trình vận chuyển
lưu chuyển và khuếch tán được miêu tả. Cuối cùng là các quá trình chuyển hoá hoá học
được định lượng. Quá trình xây dựng mô hình này được mô tả ở hình 7.4.
Sự lắng đọng Sự khuếch tán vào
khí quyển, Ikk khí quyển, Okk
Đầu vào lưu
chuyển từ sông, Is Sự lưu chuyển
pha đơn, Oht
Sự lưu chuyển giữa
các pha, Oh
Các nguồn phát
thải, Ipt Phản ứng bất thuận
nghịch , Obtn
Hình 7.4. Mô hình cân bằng khối hoá học đơn giản
ttTrÇm tÝch, O
Ph¹m vi m«i tr-êng
ThÓ tÝch kiÓm so¸t, V
Nång ®é, C
Biến đổi tồn dư = đầu vào (I) – đầu ra (O)
V dC/dt = (Ikk + Is + Ipt) – (Okk + Ott + Oht + Oh + Obtn)
ở trạng thái không thay đổi, dC/dt = 0 và (Ikk + Is + Ipt) = (Okk + Ott + Oht + Oh + Obtn)
280
Trong ví dụ này chúng ta đơn giản coi ngang bằng sự biến đổi trong tồn dư (tổng
khối lượng trong hệ) với hiệu số giữa hoá chất đầu vào và đầu ra. Đầu vào bao gồm vô số
các nguồn điểm và không điểm hoặc đơn giản xác định tổng hoá chất đi vào hệ. Đầu ra
bao gồm tất cả các cơ chế mất: sự vận chuyển hoá chất ra khỏi phạm vi và các phản ứng
chuyển hoá bất thuận nghịch. Nếu trạng thái không thay đổi được giả thiết (nghĩa là nồng
độ của hoá chất không thay đổi trong suốt phạm vi thời gian của mô hình), thì sự biến đổi
tồn dư là không và chúng ta còn lại phương trình cân bằng khối để giải. Các điều kiện
trạng thái thay đổi cần đòi hỏi lời giải bằng số đối với các phương trình vi phân.
7.2. Sự đánh giá rủi ro môi trường
7.2.1. Mở đầu
Đánh giá rủi ro là quá trình ấn định tầm cỡ và khả năng của các ảnh hưởng có hại
liên quan với biến cố. Sự xây dựng phương pháp luận đánh giá rủi ro tập trung vào các
biến cố tai nạn (ví dụ tai nạn rơi máy bay) hoặc các ảnh hưởng gây hại của môi trường
đối với con người (phơi nhiễm hoá chất) và như vậy hầu hết sự đánh giá rủi ro được đặc
trưng bởi những biến cố hoặc ảnh hưởng gây hại cụ thể dẫn đến một sự kết thúc nhất định
rõ ràng (ví dụ, tỉ lệ chết của người hoặc bệnh ung thư). Quan hệ điểm cuối đơn – ảnh
hưởng đơn này cho phép sử dụng các mô hình cơ học và thống kê tương đối đơn giản để
đánh giá rủi ro và được sử dụng rộng rãi trong đánh giá rủi ro sức khoẻ con người. Tuy
nhiên, mô hình dơn giản này không thích hợp cho các hệ sinh thái vì sự phức tạp cố hữu
của hệ sinh thái (các loài khác nhau, quần thể và cộng đồng) và sự phơi nhiễm xảy ra với
vô số nguồn gây hại (vật lí, hoá học, sinh học) ảnh hưởng cả trực tiếp đến tính đa dạng
của các thành phần, các quá trình và các điểm cuối sinh thái. Như vậy mặc dù gốc rễ của
đánh giá rủi do sinh thái có thể tìm thấy ở đánh giá rủi ro sức khoẻ con người (được đề
cập ít nhất ở phần sau), phương pháp luận đánh giá rủi ro sinh thái chưa được phát triển
tốt và các rủi ro được đánh giá còn chưa được đáng tin cậy cao.
Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ (EPA) đã đưa ra các hướng dẫn để lập kế hoạch
và tiến hành đánh giá rủi ro sinh thái. Vì tính phức tạp và tính chưa đáng tin cậy liên quan
đến sự đánh gia rủi ro sinh thái, các hướng dẫn của EPA chỉ cung cấp khung chung cho
sự tổ chức, phân tích các dữ kiện, thông tin, các giả định và chưa đáng tin cậy để đánh giá
sự có khả năng của các ảnh hưởng sinh thái có hại (hình 7.5).
Sự đánh giá rủi ro sinh thái có thể định nghĩa là quá trình đánh giá sự có khả năng
mà các ảnh hưởng sinh thái có hại có thể xảy ra hoặc đang xảy ra như là kết quả phơi
nhiễm đối với một hoặc nhiều hơn các chất độc. Việc đánh giá sự có khả năng có thể mở
rộng từ những phán đoán định tính đến các khả năng định lượng, mặc dù sự đánh giá rủi
ro định lượng vẫn còn ít trong sự đánh giá rủi ro sinh thái.
281
Hình 7.5. Khung chung cho sự đánh giá rủi ro sinh thái
Ba giai đoạn đầu của quá trình đánh giá rủi ro sinh thái: (1) trình bày (đề xuất) vấn
đề, (2) phân tích và (3) đặc trưng rủi ro.
Trình bày vấn đề gồm sự xem xét các con đường tiềm năng và các loài có thể chịu
ảnh hưởng bởi chất độc. Một phần của giai đoạn trình bày vấn đề là xây dựng mô hình
tổng quan miêu tả các con đường phơi nhiễm, khu hệ sinh vật quan tâm và các điểm cuối
ảnh hưởng dự kiến.
Giai đoạn phân tích bao gồm đánh giá sự phơi nhiễm đối với chất độc và mối quan
hệ giữa các đặc tính của chất độc và các ảnh hưởng sinh thái.
Giai đoạn đặc trưng rủi ro bao gồm đánh giá rủi ro thông qua sự hợp nhất của phơi
nhiễm và các định hình chất độc – đáp ứng, miêu tả rủi ro bằng thiết lập các đường biểu
diễn của bằng chứng, và xác định các ảnh hưởng sinh thái và thông tin sự miêu tả này cho
nhà quản lí rủi ro. Trong khi bàn luận giữa các nhà đánh giá rủi ro và quản lí rủi ro cả ở
giai đoạn đầu (lập kế hoạch) và hoàn thành (thông tin kết quả) thường một sự khác biệt rõ
được vẽ ra giữa sự đánh giá rủi ro và sự quản lí rủi ro. Sự đánh giá rủi ro tập trung vào sự
đánh giá khoa học sự có khả năng của các ảnh hưởng có hại, và sự quản lí rủi ro bao gồm
Sù ®¸nh gi¸ rñi ro sinh th¸i
Tr×nh bµy vÊn ®ÒBµn luËn gi÷a
nhµ ®¸nh gi¸
rñi ro vµ nhµ
qu¶n lÝ rñi ro
(lËp kÕ ho¹ch)
§Æc tr-ng
ph¬i nhiÔm
§Æc tr-ng
c¸c ¶nh
h-ëng sinh
th¸i P
h
©n
t
Ýc
h
§Æc tr-ng rñi ro
T
h
u
n
h
Ën
d
÷
liÖu
; k
iÓm
tra v
µ q
u
an
s¸
t
Bàn luận giữa nhà đánh
giá rủi ro và nhà quản lí
rủi ro (kết quả)
Sự quản lí rủi ro
282
sự lựa chọn tiến trình tác động trong sự đáp ứng đối với sự rủi ro đã được nhận biết, dựa
vào nhiều yếu tố (xã hội, luật pháp hoặc kinh tế) để bổ sung vào kết quả đánh giá rủi ro.
Sự quan sát và thu thập dữ liệu thường là cần thiết cho bất kì giai đoạn nào trong suốt quá
trình đánh giá rủi ro và quá trình toàn bộ thường là gập ghềnh hơn là tuyến tính.
7.2.2.Trình bày vấn đề
Trình bày vấn đề là quá trình để phát sinh và đánh giá các giả thiết bước đầu về
câu hỏi vì sao các ảnh hưởng sinh thái xảy ra hoặc có thể xảy ra, vì các hoạt động của con
người. Trong quá trình trình bày vấn đề, các mục đích quản lí được đánh giá để giúp thiết
lập các mục tiêu cho sự đánh giá rủi ro, vấn đề sinh thái được xác định, và kế hoạch cho
sự phân tích các dữ liệu và đặc trưng rủi ro được hình thành. Mục tiêu của quá trình này là
để hình thành (1) các điểm cuối đánh giá đủ dể phản ảnh các mục đích quản lí và hệ sinh
thái mà chúng có mặt, (2) các mô hình tổng quan miêu tả các quan hệ quan trọng giữa tác
động và điểm cuối đánh giá. Các điểm cuối đánh giá và các mô hình tổng quan sau đó
được hợp nhất vào sự hình thành kế hoạch hoặc đề xuất cho phân tích rủi ro.
Lựa chọn các điểm cuối đánh giá
Các điểm cuối đánh giá bao gồm thực thể sinh thái và thuộc tính thực thể, chúng
liên quan tới sự đánh giá rủi ro và quản lí rủi ro, ví dụ các điểm cuối đánh giá đối với môi
trường mước là động vật hoang dã phụ thuộc nước, động vật đáy không xương sống, cộng
đồng cá có vây, thực vật nước, tiêu chuẩn chất lượng nước/trầm tích, Cơ sở khoa học
cho sự đánh giá rủi ro tăng cường khi mà các điểm cuối đánh giá là cả thích nghi sinh
thái và nhạy cảm với tác nhân tác động quan tâm.
Các điểm cuối đánh giá thích nghi sinh thái phản ánh các thuộc tính quan trọng
của hệ sinh thái và có thể liên quan chức năng với các thành phần khác của hệ sinh thái;
chúng giúp duy trì cấu trúc, chức năng và đa dạng sinh học của sinh thái. Ví dụ, các điểm
cuối đánh giá thích nghi sinh thái có thể đóng góp vào cơ sở thực phẩm (nghĩa là sản
phẩm ban đầu), làm tăng sinh nguồn dự trữ (chu trình dinh dưỡng) hoặc phản ứng cấu
trúc cộng đồng, hệ sinh thái hoặc phong cảnh (nghĩa là đa dạng loài). Sự thích nghi sinh
thái trở nên có ích khi nó có khả năng để nhận biết dòng thác tiềm năng của các ảnh
hưởng có hại có thể sinh ra từ ảnh hưởng khởi đầu, như thay đổi chức năng hệ sinh thái.
Sự lựa chọn điểm cuối đánh giá có thể chọn một hoặc nhiều loài và quá trình hệ sinh thái
điển hình cho cộng đồng chức năng rộng.
Các điểm cuối đánh giá nhạy cảm với tác nhân tác động là: tài nguyên sinh thái
hoặc các thực thể nếu chúng nhạy cảm với tác nhân tác động cảm ứng - người. Độ nhạy
cảm biểu thị thực thể sinh thái dễ đáp ứng như thế nào đối với một tác nhân tác động riêng.
283
Sự đo lường độ nhạy cảm có thể bao gồm tỉ lệ chết hoặc sự giảm sinh trưởng hoặc sự sinh
sản, gây ra bởi sự nhiễm chất độc; những sự dị thường tập tính như chốn tránh nơi làm tổ
hoặc địa bàn nguồn thức ăn do phải tiếp cận với tác nhân tác động như tiếng ồn, hoặc thay
đổi cư trú. Độ nhạy cảm liên quan trực tiếp với kiểu tác động của tác nhân tác động. Ví dụ,
độ nhạy cảm hoá học bị ảnh hưởng bởi sinh lí, di truyền và trao đổi chất riêng. Độ nhạy
cảm cũng bị ảnh hưởng bởi lịch sử đời sống cá thể và cộng đồng, ví dụ, các loài cá có vòng
đời dài và tốc độ sinh sản thấp sẽ dễ bị tổn thương hơn đối với sự tuyệt chủng từ sự tăng tỉ
lệ chết so với loài có vòng đời ngắn và tốc độ sinh sản cao. Các động vật non nhạy cảm đối
với tác nhân tác động hơn động vật trưởng thành, v.v Sự phơi nhiễm là một yếu tố quyết
định chìa khoá khác trong tính nhạy cảm. Các đặc tính và các điều kiện phơi nhiễm ảnh
hưởng đến các đáp ứng thực thể sinh thái đối với tác nhân tác động, và như vậy sẽ quyết
định thực thể sinh thái nào là nhạy cảm. Vì vậy người ta phải xem xét thông tin về sự tiếp
cận của thực thể sinh thái đối với tác nhân tác động theo thời gian (nghĩa là tần xuất và độ
dài liên quan với các giai đoạn sống nhạy cảm) và cường độ phơi nhiễm. Người ta thấy
ngay cả ở sự phơi nhiễm tác nhân tác động rất thấp, các ảnh hưởng có hại vẫn xuất hiện
nếu thực thể sinh thái bị hạn chế trong giai đoạn sống quyết địng. Ví dụ, nếu cá không có
khả năng tìm được nơi làm tổ thích hợp trong thời kì sinh sản của chúng, sự rủi ro có ý
nghĩa ngay cả khi chất lượng nước cao và nguồn thức ăn dồi dào. Sự phơi nhiễm có thể xảy
ra tại một thời điểm này nhưng các ảnh hưởng có thể không xuất hiện cho đến một thời
điểm khác. Cả các đặc tính lịch sử sống và hoàn cảnh phơi nhiễm ảnh hưởng đến tính nhạy
cảm trong trường hợp này. Ví dụ, sự phơi nhiễm của quần thể đối với các hoá chất homon
môi trường có thể ảnh hưởng đến tỉ lệ giới con cái hoặc các ảnh hưởng xuất hiện chậm ở
đời con (ung thư vú, tử cung hoặc vô sinh) làm phức tạp hoá sự đánh giá tính nhạy cảm.
Mô hình tổng quan cần phải phản ánh những yếu tố bổ sung này.
Xác định các điểm cuối đánh giá
Hai khía cạnh đòi hỏi để xác định các điểm cuối đánh giá. Thứ nhất là thực thể
sinh thái được đánh giá như là loài, nhóm chức năng của loài, chức năng hoặc đặc điểm hệ
sinh thái, hoặc môi trường tự nhiên được đánh giá riêng. Thứ hai là đặc điểm của thực thể
quan tâm, điều này quan trọng đối với việc bảo vệ và tiềm năng rủi ro.
Khả năng phán đoán của chuyên gia và sự hiểu biết về các đặc điểm và chức năng
của hệ sinh thái là quan trọng để thể hiện những mục đích chung vào các điểm cuối đánh
giá có thể sử dụng được. Điểm cuối đánh giá quá rộng không thể đo lường hết được.
Điểm cuối đánh giá quá hẹp có thể không quan sát được hết các đặc tính quan trọng của
hệ sinh thái. Các điểm cuối đánh giá xác định rõ ràng sẽ cung cấp cả phương pháp và biên
giới cho sự đánh giá rủi ro.
284
Các điểm cuối đánh giá ảnh hưởng trực tiếp đến loại, các đặc điểm và sự giải thích
các dữ liệu và thông tin được sử dụng cho phân tích, và qui mô và đặc trưng của sự đánh
giá. Ví dụ, điểm cuối đánh giá như là “sự sinh sản của nhuyễn thể hai vỏ: xác định các đặc
tính quần thể địa phương và đòi hỏi rất nhiều loại khác nhau của dữ liệu và đặc trưng hệ
sinh thái so với điểm kết thúc đánh giá “cấu trúc và chức năng quần xã sinh vật ở nước”.
Sự có mặt của đa tác nhân tác động cũng ảnh hưởng đến sự lựa chọn điểm cuối
đánh giá. Khi này người ta có thể chọn một điểm cuối đánh giá mà điểm cuối đánh giá
này nhạy cảm đối với nhiều tác nhân tác động đã được nhận biết, đáp ứng theo các đường
khác nhau đối với tác nhân tác động khác nhau, người ta có thể xem xét các ảnh hưởng
kết hợp của đa tác nhân tác động trong lúc giảm đi các ảnh hưởng.
Sự hình thành các mô hình tổng quan
Các mô hình tổng quan liên kết các hoạt động của con người với các tác nhân tác
động và đánh giá các mối quan hệ giữa các con đường phơi nhiễm, các ảnh hưởng sinh
thái, và các vật nhận sinh thái. Các mô hình tổng quan bao gồm một tập hợp các giả thiết
rủi ro miêu tả các quan hệ dự đoán giữa tác nhân tác động, sự phơi nhiễm và đáp ứng
điểm cuối đánh giá, cùng với lí lẽ lựa chọn chúng. Các giả thiết rủi ro là các giả thiết theo
quan niệm khoa học rộng; chúng không cần thiết phải thử thống kê và các giả thiết biến
đổi hoặc phương pháp phân tích riêng bất kì. Các giả thiết rủi ro có thể dự đoán các ảnh
hưởng của tác nhân tác động, hoặc chúng có thể mặc nhiên đúng như các tác nhân có thể
gây ra các ảnh hưởng sinh thái quan sát được.
Sơ đồ có thể sử dụng để minh hoạ các quan hệ được miêu tả bởi mô hình tổng
quan và các giả thiết rủi ro. Sơ đồ mô hình tổng quan là công cụ hữu ích cho sự thông tin
các con đường quan trọng và để nhận biết các nguồn chủ yếu của sự chưa đáng tin cậy.
Các sơ đồ này và các giả thiết rủi ro có thể được sử dụng để nhận dạng hầu hết các con
đường quan trọng và các quan hệ xem xét ở giai đoạn phân tích.
Tính phức tạp của mô hình tổng quan phụ thuộc vào tính phức tạp của vấn đề, số
các tác nhân tác động và các điểm cuối đánh giá xem xét, bản chất của các ảnh hưởng và
các đặc điểm của hệ sinh thái. Đối với tác nhân tác động đơn và điểm cuối đánh giá đơn,
mô hình tổng quan có thể là các quan hệ tương đối đơn giản. Trong trường hợp, ở đây mô
hình khái niệm miêu tả, bên cạnh các con đường của các tác nhân tác động và điểm cuối
đánh giá riêng, sự tương tác của đa tác nhân tác động và các điểm cuối đánh giá đòi hỏi
thêm một số các mô hình phụ để miêu tả các con đường riêng. Các mô hình khác sau đó
cũng được sử dụng để khảo sát các con đường riêng này tương tác như thế nào. Một ví
dụ về mô hình tổng quan đối với đường phân nước (hình 7.6).
285
Sự chọn lọc các đo lường
Bước sau cùng của giai đoạn trình bày vấn đề là sự hình thành kế hoạch phân tích hoặc
đề xuất nhằm nhận dạng các đo lường để đánh giá giả thiết rủi ro và mô tả phác hoạ đánh giá,
các dữ liệu cần, các giả định, các nội dung và phương pháp riêng để tiến hành phân tích.
Các hoạt động
Nông nghiệp Công nghiệp Thành phố Giải trí thương mại Vùng, toàn cầu
Tác nhân tác động
Chất độc Dinh dưỡng Hạt đất, bụi Tiếng động Bệnh tật Bức xạ tử ngoại
Thay đổi
thuỷ văn
Thay đổi
nơi cư trú
Áp lực thu
hoạch
Biến đổi
khí hậu
Loài gây hại
lan rộng
Các mô hình ảnh hưởng sinh thái
Điểm cuối đánh giá
Động vật hoang dã
phụ thuộc nước
Động vật đáy
không xương sống
Quần
xã cá
Tiêu chuẩn chất lượng
nước/trầm tích
Thực vật
nước
Các đo lường
Quần thể
/đánh giá sức
khoẻ chim
nước, lưỡng
cư, bò sát
Động vật
không xương
sống hồ, độ
phong phú,
đa dạng, chỉ
số sức khoẻ
Đánh giá sức
khoẻ: những bất
thường lớn, bệnh
học mô, tồn
lượng chất độc,
chỉ thị sinh học
Đánh giá nước:
chỉ số oxi, độ
đục, năng suất
sơ bộ, tồn lượng
chất độc, thử
nghiệm sinh học
Đánh giá thực
vật: độ che phủ,
sự giảm ánh
sáng, chất dinh
dưỡng hoà tan,
tảo lớn
Hình 7.6. Ví dụ mô hình tổng quan đường phân nước
Biện pháp
kiểm soát
nước, thuốc
trừ dịch hại,
phân bón,
cải tạo đất
Nơi thải
hoá chất,
phát thải
chất thải,
xây dựng,
tràn dầu
Các nguồn
ô tô, nước
cống thải,
xây dựng,
bãi thải
Nạo vét
kênh, bảo vệ
ven bờ, bắt
cá, săn bắn,
bơi thuyến,
chợ búa
Sự lắng đọng
từ khí quyển,
đốt nhiên liệu
hoá thạch,
cloflocacbon
286
Có ba loại đo lường có thể được lựa chọn. Đo lường ảnh hưởng (còn gọi là điểm cuối đo
lường) là đo lường để sử dụng đánh giá đáp ứng của điểm cuối đánh giá khi bị phơi nhiễm
tác nhân tác động. Đo lường phơi nhiễm là đo lường xem sự phơi nhiễm xảy ra như thế
nào, bao gồm tác nhân tác động chuyển động qua môi trường thế nào và nó có thể xảy ra
đồng thời với điểm cuối đánh giá thế nào. Đo lường hệ sinh thái và các đặc tính của vật
nhận bao gồm các đặc điểm hệ sinh thái ảnh hưởng đến tính cách và vị trí của điểm cuối
đánh giá, sự phân bố của tác nhân tác động, và các đặc tính lịch sử đời sống của điểm cuối
đánh giá, mà có thể ảnh hưởng đến sự phơi nhiễm hoặc sự đáp ứng đối với tác nhân tác
động. Những sự đo lường này tăng lên khi tính phức tạp của sự đánh giá tăng.
Một sự xem xét quan trọng trong sự nhận dạng các đo lường này là độ nhạy cảm
đáp ứng và sự thích nghi sinh thái của chúng. Độ nhạy cảm đáp ứng thường là cao nhất
với sự đo lường ở các mức thấp của tổ chức sinh học, nhưng sự thích nghi sinh thái cao
nhất ở các mức cao của tổ chức sinh học. Sự đối nghịch này được thể hiện trên hình7.7.
Mức tổ chức sinh học
Thời gian đáp ứng
Hình 7.7. Sự đối nghịch giữa độ nhạy cảm đáp ứng và sự thích nghi sinh thái
Thời gian đáp ứng và độ nhạy cảm đáp ứng của vật nhận sinh thái là hàm số của
mức tổ chức sinh học. Mức tổ chức sinh học càng cao có sự thích nghị sinh thái càng lớn.
Tuy nhiên, khi mức tổ chức sinh học tăng, thời gian đáp ứng tăng, độ nhạy cảm đáp ứng
giảm, và các mối quan hệ liên quan trở nên không đáng tin cậy. Sự đánh giá rủi ro môi
trường phải cân bằng thế nào để có độ nhạy cảm, sự thích nghi sinh thái và các quan hệ
liên quan hợp lí.
Độ nhạy cảm đáp ứng Sự thích nghi sinh thái
Sự thích nghi sinh thái Độ nhạy cảm đáp ứng
287
7.2.3. Phân tích
Giai đoạn hai của đánh giá rủi ro sinh thái, giai đoạn phân tích, gồm hai phần:
Đặc trưng phơi nhiễm
Đặc trưng ảnh hưởng sinh thái
Đặc trưng phơi nhiễm
Trong sự đặc trưng phơi nhiễm, các dữ kiện tin cậy và xác đáng được phân tích để
miêu tả các nguồn tác nhân tác động, sự phân bố các tác nhân tác dộng trong môi trường
và sự tiếp xúc hoặc sự cùng xảy ra của các tác nhân tác động với các vật nhận sinh thái.
Sự mô tả tác nhân tác động để nhận biết ở đâu tác nhân tác động sinh ra và sinh ra
như thế nào, các nguồn khác của tác nhân tác động. Sự phân tích phơi nhiễm có thể xuất
phát với nguồn đã được biết, sự phân tích cũng có thể bắt đầu với sự phơi nhiễm đã biết
và cố gắng để liên kết chúng với nguồn, hoặc có thể bắt đầu với tác nhân đã biết và cố
gắng để nhận dạng nguồn và định lượng sự tiếp xúc hoặc sự cùng xảy ra của tác nhân tác
động với vật nhận sinh thái. Sự miêu tả nguồn bao gồm những gì được biết về cường độ,
thời điểm, vị trí của tác nhân tác động và có những thành phần khác được phát thái bởi
nguồn ảnh hưởng đến sự vận chuyển, chuyển hoá hoặc nhận dạng sinh học của tác nhân
tác động quan tâm không.
Nhiều tác nhân tác động có các đồng hành tự nhiên hoặc đa nguồn cần phải xem
xét, ví dụ, nhiều hoá chất gặp trong tự nhiên (như là các kim loại), đa nguồn (các
PAH).Các tác nhân tác động vật lí hoặc sinh học cũng có những đồng hành tự nhiên. Sự
tạo ra các tác nhân tác động thứ cấp cũng có thể làm thay đổi lớn rủi ro. Các tác nhân tác
động thứ cấp có thể được tạo ra thông qua các quá trình chuyển hoá sinh học hoặc phi
sinh học hoặc vật lí hoặc thông qua các quá trình hệ sinh thái. Ví dụ: các chất dinh dưỡng
đi vào các cửa sông lạch có thể làm giảm oxi hoà tan do chúng làm tăng sản xuất nguyên
sinh và sự phân huỷ kế tiếp. Sự thay đổi môi trường hiếu khí sang yếm khí thường kèm
theo sự tạo ra sunfua thông qua vi khuẩn khử sunfat. Sunfua tác dụng như tác nhân thứ
cấp đối với sinh vật phụ thuộc oxi, xong cũng có thể làm giảm sự phơi nhiễm các kim
loại thông qua sự kết tủa của các sunfua kim loại. Sự phân bố của tác nhân tác động có
thể được miêu tả bằng sử dụng sự đo lường, mô hình hoặc cả hai. Nếu tác nhân tác động
đã được giải phóng sẵn, đo lường trực tiếp môi trường hoặc kết hợp mô hình hoá và đo
trực tiếp. Phương pháp mô hình hoá có thể cần thiết nếu sự đánh giá được dự định cho
sự dự đoán viễn cảnh.
288
Sự phân tích phơi nhiễm sau đó đi tới sự định hình phơi nhiễm để nhận dạng vật
nhận và con đường phơi nhiễm, mô tả cường độ và phạm vi không gian và thời gian phơi
nhiễm, mô tả tác động của những sự biến đổi và chưa đáng tin cậy đối với sự đánh giá
phơi nhiễm, và trình bày kết luận về sự có khả năng của sự phơi nhiễm sẽ xảy ra. Có thể
lấy ví dụ sự phơi nhiễm hexaclobenzen (tác nhân tác động) của chồn vizon (vật nhận sinh
thái) từ các nguồn ô nhiễm khác nhau dựa vào sự đo lường trực tiếp sự hấp thu hàng
ngày (bảng 7.1)
Trong nhiều trường hợp phơi nhiễm được xác định qua các phương pháp gián
tiếp, ví dụ đo tải trọng cơ thể hoặc tồn lượng mô. Các phương pháp này điển hình được
sử dụng để đánh giá sự phơi nhiễm đối với các động vật hoang dã hoặc các khu hệ sinh
vật khác mà sự hấp thu hàng ngày của chúng không được biết. Tải trọng toàn thân ít
hữu ích hơn so với nồng độ trong các mô riêng. Tải trọng cơ thể hoặc mô là phương
pháp đo sự phơi nhiêm tốt đối với các tác nhân tác động (hoá chất) không bị thay đổi
qua sự trao đổi chất.
Bảng 7.1. Sự hấp thu hàng ngày toàn phần cực đại hexaclobenzen (HCB) đối với
chồn vizon.
Môi trường
Nồng độ cực
đại của HCB
Tốc độ hấp thu
trung bình,
ngày–1
Sự hấp thu hàng ngày
cực đại của HCB, ng kg
thể trọng–1 ngà y–1
Không khí 0,29 ng m–3
0,55 m
3
ngày–1 0,16
Nước 87 ng L–1 0,1 L ngày–1 8,7
Khẩu phần ăn 1: 100% cá 287 ng g–1 215 g ngày–1 60.845
Khẩu phần ăn 2: 100%
chim và động vật có vú
80 ng g–1
158 g ngày–1 4.740
Sự hấp thu hàng ngày
toàn phần đối với không
khí, nước và khẩu phần 1
60.854
Sự hấp thu hàng ngày
toàn phần đối với không
khí, nước và khẩu phần 2
60.854
Sự phơi nhiễm nói chung được định lượng như là các giá trị nhiễm được đánh giá
cho mỗi vật nhận sinh thái trong mỗi phạm vi quan tâm. Biểu thức của sự phơi nhiễm bao
gồm khoảng thời gian (như ngày hoặc tháng), thời gian thực tế được lựa chọn trên cơ sở
289
trường hợp riêng bao gồm thông tin như bản chất của sự phơi nhiễm, ngắt đoạn hoặc liên
tục và khoảng thời gian của chu trình sống của vật nhận. Sự xử lí thống kê các giá trị
phơi nhiễm được đánh giá là cần thiết để điều chỉnh cả sự biến đổi thực tế và sự chưa
đáng tin cậy.
Đặc trưng ảnh hưởng sinh thái
Trong sự đặc trưng các ảnh hưởng sinh thái, những dữ liệu xác đáng được phân tích
để đánh giá các quan hệ tác nhân tác động – đáp ứng và để cung cấp bằng chứng mà sự
phơi nhiễm tác nhân tác động gây ra đáp ứng quan sát được. Sự đặc trưng miêu tả các ảnh
hưởng khó được thuyết minh bởi tác nhân tác động, cần liên kết các ảnh hưởng này với
điểm cuối đánh giá, và đánh giá các ảnh hưởng thay đổi với sự thay đổi các mức tác nhân
tác động.
Phân tích đáp ứng sinh thái
Phân tích đáp ứng sinh thái gồm ba thành phần chủ yếu:
Xác định mối quan hệ giữa sự nhiễm tác nhân tác động và các ảnh hưởng
sinh thái.
Đánh giá sự đáng tin cậy các ảnh hưởng có thể xảy ra hoặc đang xảy ra như
là kết quả của sự phơi nhiễm.
Liên kết các ảnh hưởng sinh thái đo lường được với các điểm cuối đánh giá.
Sự đánh giá rủi ro sinh thái đòi hỏi sự hiểu biết về các mối quan hệ giữa sự phơi
nhiễm tác nhân tác động và các đáp ứng sinh thái tạo ra. Các quan hệ tác nhân tác động –
đáp ứng được sử dụng trong sự đánh giá riêng phụ thuộc vào phạm vi và bản chất của sự
đánh giá rủi ro sinh thái như được xác định trong giai đoạn hình thành vấn đề và được
phản ảnh trong kế hoạch phân tích. Ví dụ, đánh giá điểm của ảnh hưởng (nghĩa là LC 50)
có thể được so sánh với các đánh giá điểm từ các tác nhân tác động khác. Hàm tác nhân
tác động – đáp ứng (nghĩa là dạng đường biểu diễn) có thể là tiêu chuẩn để xác định sự có
mặt hoặc vắng mặt của ngưỡng ảnh hưởng hoặc để đánh giá các sự rủi ro gia tăng, hoặc
các hàm tác nhân tác động – đáp ứng có thể được sử dụng như đầu vào cho các mô hình
ảnh hưởng sinh thái. Trong những trường hợp đơn giản sự đáp ứng sẽ là một biến số (ví
dụ, tỉ lệ chết) và sự phân tích đơn biến định lượng có thể được sử dụng. Nếu sự đáp ứng
quan tâm gồm nhiều biến số riêng (ví dụ độ phong phú loài trong quần xã ở nước), thì kĩ
thuật thống kê đa biến phải được sử dụng. Kĩ thuật này (ví dụ, yếu tố và phân tích nhóm)
có thời gian dài sử dụng trong sinh thái, tuy nhiên ít được dùng trong đánh giá rủi ro. Các
quan hệ tác nhân tác động – đáp ứng có thể được miêu tả khi sử dụng bất kì chiều nào của
290
sự phơi nhiễm (cường độ, không gian, thời gian). Cường độ thường được sử dụng nhiều
nhất đối với tác nhân tác động là hoá chất (ví dụ, liều, nồng độ). Khoảng thời gian nhiễm
cũng có thể được sử dụng cho các quan hệ tác nhân tác động hoá chất – đáp ứng; ví dụ,
các mức nhiễm cấp trung bình thường liên quan với thông số thời gian (ví dụ, 24 giờ, 48
giờ, 96 giờ). Cả chiều thời gian và không gian của phơi nhiễm có thể là quan trọng đối
với những xáo trộn vật lí như lụt lội.
Nhân quả là quan hệ giữa nguyên nhân (một hoặc nhiều tác nhân tác động) và ảnh
hưởng (đáp ứng điểm cuối đánh giá đối với một hoặc nhiều tác nhân tác động). Sự hình
thành các quan hệ nhân quả đặc biệt quan trọng trong sự đánh giá rủi ro được tiến hành
bởi các ảnh hưởng sinh thái có hại quan sát được như cá chết hoặc sự giảm sút lâu dài
trong một quần thể. Các tiêu chuẩn được thiết lập để đánh giá nhân quả là các giả thuyết
của Knoch. Tuy nhiên phương pháp này không thể thực hành được nếu nguồn tài nguyên
thí nghiệm không có sẵn hoặc nếu các ảnh hưởng có hại xảy ra trên một phạm vi không
gian rộng, thực nghiệm và sự tương quan khó xác thực. Trong hầu hết các trường hợp sự
nội suy là cần thiết để đánh giá nhân quả. Phạm vi đánh giá rủi ro cũng ảnh hưởng đến sự
nội suy qua bản chất của điểm cuối đánh giá. Sự đánh giá sơ bộ là đánh giá rủi ro đối với
các mức dinh dưỡng chung, như cá và chim, có thể nội suy trong số các chi khác nhau
hoặc các họ để nhận được khoảng nhạy cảm đối với tác nhân tác động.
Bất cứ phương pháp nào được sử dụng để liên kết điểm cuối đánh giá với các đo
lường của ảnh hưởng, điều quan trọng là làm sao để áp dụng các phương pháp đó trong sự
phù hợp với sinh thái cơ sở và các nguyên tắc của độc học. Ví dụ, như sự không phù hợp sử
dụng quan hệ cấu trúc - hoạt tính để dự đoán tính độc từ cấu trúc hoá học trừ khi hoá chất
xem xét có cùng kiểu tác dụng độc đối với các hoá chất chuẩn. Tương tự những sự nội
suy từ loài chim trên cạn cho chim nước có thể đáng tin cậy hơn nếu các yếu tố như sự
khác nhau về các chuẩn thức ăn, sinh lí, và tập tính mùa (ví dụ, đực cái, tập quán di cư)
được xem xét.
Sự định hình tác nhân tác động – đáp ứng
Hoạt động sau cùng của phân tích đáp ứng sinh thái là sự định hình tác nhân tác
động – đáp ứng để đánh giá các loài đơn, quần thể, các mức dinh dưỡng chung, quần xã,
hệ sinh thái hoặc phong cảnh. Ví dụ nếu loài đơn bị tác động, các ảnh hưởng sẽ biểu thị
các thông số riêng như là các ảnh hưởng đến tỉ lệ chết, sự sinh trưởng và sinh sản, trong
khi đó ở mức quần xã, các ảnh hưởng được tổng kết trong danh từ cấu trúc hoặc chức
năng phụ thuộc vào điểm cuối đánh giá. Sự định hình tác nhân tác động – đáp ứng tổng
kết bản chất và cường độ của ảnh hưởng, thời gian phục hồi, thông tin nhân quả liên kết
291
tác nhân tác động với các ảnh hưởng quan sát được, và những sự chưa đáng tin cậy liên
quan với sự phân tích.
7.2.4. Đặc trưng rủi ro
Đặc trưng rủi do là giai đoạn cuối của đánh giá rủi ro sinh thái. Trong giai đoạn
này các dữ liệu phơi nhiễm và ảnh hưởng được gom ở giai đoạn phân tích được kết hợp
lại và tiềm năng rủi ro được đặc trưng. Trong quá trình đặc trưng rủi ro, các rủi ro được
đánh giá, được giải thích, và những mặt mạnh, những hạn chế, những giả định và những
sự không đáng tin cậy được tổng kết. Các rủi ro được đánh giá bằng sự kết hợp thành
một thể thống nhất giữa sự phơi nhiễm và sự định hình tác nhân tác động – đáp ứng với
việc sử dụng các kĩ thuật khác nhau so sánh đánh giá điểm cuối hoặc phân bố các dữ
liệu của phơi nhiễm và ảnh hưởng, mô hình quá trình, hoặc phương pháp bán thực
nghiệm như các dữ liệu quan sát thực địa. Các rủi ro được miêu tả và thông tin cho
bước quản lí rủi ro.
Đánh giá rủi ro
Sự đánh giá rủi ro xác định sự có khả năng của các ảnh hưởng có hại đối với các
điểm cuối đánh giá, và là quá trình sử dụng sự phơi nhiễm và sự định hình tác nhân tác
động–đáp ứng. Các rủi ro có thể được đánh giá bằng một hoặc nhiều hơn các phương
pháp sau: (1) đánh giá dựa trên sự phán đoán nhà nghề tốt nhất và được biểu thị bằng
các loại chất lượng như là thấp, trung bình hoặc cao (hình 7.8); (2) phương pháp
thương số (đánh giá bằng so sánh các đánh giá điểm đơn của phơi nhiễm và các ảnh
hưởng, là tỉ số của nồng độ phơi nhiễm và nồng độ ảnh hưởng, nếu tỉ số này lớn hơn 1
thì chứng tỏ sự rủi ro có ý nghĩa). Ví dụ, sự đánh giá rủi ro sinh thái đối với động vật
hoang dã (chim) phơi nhiễm thuốc trừ sâu cacbofuran (2,3-đihiđro-2,2-đimetyl-7-
benzofuranol metylcacbamat) trong hệ sinh thái nông nghiệp bằng phương pháp này và
có thương số > 1; (3) đánh giá bằng sát nhập quan hệ tác nhân – đáp ứng toàn bộ
thường là một hàm số không tuyến tính của sự phơi nhiễm; (4) đánh giá bằng sát nhập
sự biến đổi trong các đánh giá phơi nhiễm và ảnh hưởng, cung cấp khả năng dự đoán
biến đổi về tầm cỡ và sự có khả năng của các ảnh hưởng ở những dự đoán tương lai
phơi nhiễm khác nhau; (5) đánh giá dựa vào các mô hình quá trình, mà các mô hình này
dựa vào một phần hoặc toàn phần những sự gần đúng lí thuyết của dự phơi nhiễm và
các ảnh hưởng; (6) đánh giá dựa vào các phương pháp bán thực nghiệm, bao gồm các
dữ liệu quan sát thực địa.
292
Tài nguyên
Nguồn tác
Nhân tác động
Tảo
phù du
Động
vật
nổi
Trứng
cá và
ấu
trùng
Sinh
vật
đáy
mềm
Sinh
vật
đáy
cứng
Cá
đáy
Cá
ăn
thịt
Đời
sống
thực
vật
Lưỡng
cư, bò
sát
Động
vật có
vú
Chim
Chất
lượng
nước
Sức
khoẻ
con
người
Nước xả thuốc
trừ dịch hại
C
TB
T
C
TB
T
C
TB
T
C
TB
T
C
TB
T
C
TB
T
C
TB
T
C
T
Các nguồn
điểm
T
T
C
TB
T
T
C
TB
T
C
TB
T
T
Sản xuất dầu
khí
T
T
C
TB
T
T
C
TB
T
T
T
T
T
Khí quyển
T
T
T
T
T
Trầm tích ô
nhiễm
T
T
C C
T
C
TB
T
Bệnh, mầm
bệnh
C
TB
T
T
C C C
TB
T
TB
TB
TB
Tải hạt
C
TB
T
C
TB
T
C C C C
T
T
T
C
Tải cacbon
C
TB
T
C
TB
T
C C C
TB
T
C
TB
T
TB
Tải dinh dưỡng
C C C C C
TB
T
C
TB
T
C
TB
T
C C
Lụt
C
TB
T
C
TB
T
C
TB
T
C
TB
T
C
TB
T
C
TB
T
C
TB
T
C
TB
T
C
TB
T
C
Áp lực nghề cá
C
TB
T
C
Phấn hoa, xâm
thực
C
T
Biến đổi khí
hậu
C C
TB
TB
TB
C
Hình 7.8. Ví dụ đánh giá rủi ro theo loại chất lượng đối với nền tác nhân tác động
và nguồn tài nguyên rủi ro. C = cao, TB = trung bình, T = thấp
Miêu tả rủi ro
Sau khi các rủi ro đã được đánh giá, thông tin có được cần phải được hợp thành
một thể thống nhất và được làm rõ ý nghĩa nội dung để đưa ra các kết luận về các sự rủi
293
ro của điểm cuối đánh giá. Sự miêu tả rủi ro bao gồm sự đánh giá toàn bộ các bằng chứng
ủng hộ và phản bác sự đánh giá rủi ro và giải thích làm rõ các ảnh hưởng có hại đối với
điểm cuối đánh giá. Sự tin cậy trong các kết luận của đánh giá rủi ro có thể được tăng lên
bởi sử dụng một số thông tin bằng chứng để làm rõ và so sánh các đánh giá rủi ro. Những
thông tin bằng chứng này có thể dẫn ra từ các nguồn khác bởi những kĩ thuật khác thích
hợp đối với các ảnh hưởng có hại đến điểm cuối đánh giá, như phương pháp thương số,
các kết quả mô hình hoá, thí nghiệm thực địa hoặc quan sát thực địa. Một số các yếu tố để
xem xét khi đánh giá tách riêng các thông tin bằng chứng. Đó là: sự xác đáng của bằng
chứng đối với mô hình tổng quan, sự đầy đủ và chất lượng của các dữ liệu và các thiết kế
thực nghiệm hỗ trợ nghiên cứu, mặt mạnh của các quan hệ nguyên nhân/ảnh hưởng, và
những sự không đáng tin cậy tương đối của mỗi bằng chứng và khuynh hướng của chúng.
Ở điểm này trong sự đặc trưng rủi ro, những sự thay đổi mong đợi ở điểm cuối
đánh giá được đánh giá và miêu tả. Bước tiếp theo là làm rõ những sự thay đổi này được
xem là có hại và có ý nghĩa không. Những sự thay đổi có hại có ý nghĩa được xác định bởi
những sự quan tâm sinh thái hoặc xã hội, và như vậy chúng phụ thuộc vào sự phán đoán
nghề nghiệp giỏi của nhà đánh giá. Năm tiêu chuẩn được đề xuất để đánh giá sự thay đổi
có hại ở điểm cuối đánh giá là: bản chất của các ảnh hưởng, cường độ các ảnh hưởng,
phạm vi không gian, phạm vi thời gian, khả năng phục hồi.
Để phân biệt sự thay đổi sinh thái nào là có hại trong số những biến cố thường có
của sự biến đổi hệ sinh thái hoặc gây ra những thay đổi nhỏ không có ý nghĩa khu hệ sinh
vật, điều này là quan trọng để xem xét bản chất và cường độ của các ảnh hưởng. Ví dụ,
điểm cuối đánh giá bao gồm sự sống sót, sự sinh trưởng và sự sinh sản của loài phải xem
xét các ảnh hưởng được dự đoán gồm sự sống sót và sinh sản hoặc chỉ sự sinh trưởng
không thôi. Hoặc nếu sự sống sót của con bị ảnh hưởng, thì sự tổn thất tương đối phải
được xem xét. Điều này cần thiết để xem xét cả bối cảnh sinh thái và thống kê của ảnh
hưởng khi đánh giá cường độ. Ví dụ, ý nghĩa thống kê giảm 1% trong sự sinh trưởng cá
có thể không ảnh hưởng đối với điểm cuối đánh giá của sự biến đổi quần thể cá, và sự
giảm sút 10% trong sinh sản có thể là sấu đối với quần thể động vật biển có vú sinh sản
chậm so với tảo nổi sinh sản nhanh.
Phạm vi không gian và thời gian cũng cần được xem xét trong sự đánh giá tai hoạ của
ảnh hưởng, đặc biệt là ảnh hưởng đối với phong cảnh (diện tích ảnh hưởng, thời gian phục
hồi) cũng như nhiều trường hợp khác liên quan đến các yếu tố thời gian và không gian.
Sự phục hồi có thể đánh giá được tuy khó khăn. Ví dụ, ta có khả năng phân biệt
được những thay đổi, đó là thuận nghịch (sự phục hồi dòng kênh từ sự thải nước cống),
bất thuận nghịch (sự tuyệt chủng loài, không phục hồi được). Tốc độ tương đối của sự
294
phục hồi cũng có thể đánh giá được. Ví du, quần thể cá trong dòng suối phục hồi nhanh
hơn từ sự phơi nhiễm hoá chất phân huỷ hơn là từ sự thay đổi nơi sinh sống do kênh hoá
dòng suối.
Quản lí rủi ro
Khi sự đặc trưng rủi ro hoàn thành, sự miêu tả đánh giá rủi ro được thông tin cho
nhà quản lí rủi ro để làm điểm tựa cho việc ra quyết định quản lí rủi ro. Thông tin này
thường là một báo cáo có thể gồm các nội dung sau: miêu tả các kết quả kế hoạch hoá
của nhà đánh giá rủi ro/ nhà quản lí rủi ro, báo cáo về mô hình tổng quan và điểm cuối
đánh giá, bàn luận về các nguồn dữ liệu chủ yếu và các phương pháp phân tích sử dụng,
báo cáo về sự định hình tác nhân tác động – đáp ứng và phơi nhiễm, miêu tả các rủi ro
đối với điểm cuối đánh giá bao gồm sự đánh giá rủi ro và đánh giá tai hoạ, tổng kết các
phạm vi chủ yếu của sự không đáng tin cậy (sự bất định) và các phương pháp được sử
dụng đối với chúng, bàn luận về sự phán xét chính sách khoa học hoặc các giả định thiếu
hoặc không đủ làm cầu nối thông tin và làm cơ sở cho các giả định này.
Khi rủi ro có ý nghĩa được khẳng định, cần thiết phải quản lí nó. Các chiến lược
quản lí rủi ro tìm kiếm giảm thiểu các rủi ro. Sự quản lí rủi ro tiến hành ở nhiều dạng
khác nhau bao gồm: các kĩ thuật kiểm soát ô nhiễm, quan trắc ô nhiễm và phòng ngừa tại
chỗ, hạn chế sử dụng địa điểm để tránh phơi nhiễm, khôi phục sản xuất.
7.3. Độc học môi trường và sức khoẻ con người
Sự đánh giá rủi ro sức khoẻ con người trong độc học môi trường dựa vào sự đánh
giá rủi ro sinh thái thông qua động vật hoang dã. Sự liên kết giữa động vật hoang dã và
sức khoẻ con người được xem là cơ sở cho sự nội suy trong đánh giá rủi ro. Con người
chia sẻ nhiều cơ chế tế bào và dưới tế bào với các động vật hoang dã. Con người và động
vật hoang dã cũng trùng lặp trong môi trường vật lí của chúng và vì vậy bị phơi nhiễm
bởi cùng những chất ô nhiễm. Đó là bằng chúng để giả thiết rằng khi các hệ bảo tồn cao
là mục tiêu của chất độc môi trường thì cả hệ sinh thái và con người bị ảnh hưởng.
Có những khó khăn và nhiều điều quan tâm trong sự nội suy các dữ liệu động vật
hoang dã cho người. Khi có sự thay đổi riêng chất ô nhiễm trong sức khoẻ động vật
hoang dã, thì điều quan tâm ở người là về sự phối hợp các ảnh hưởng có hại ở người có
khuynh hướng tập trung vào các thời kì phát triển nhạy cảm bao gồm trong tử cung, sinh
đẻ mới, dậy thì, tiết sữa, tắt kinh; cũng có những rủi ro tăng lên của các ung thư khác
nhau gây ra bởi các chất ô nhiễm môi trường. Tổng tỉ lệ một số ung thư tăng, đặc biệt ở
các nước công nghiệp phát triển (ở phần dưới sẽ đưa ra đánh giá rủi ro ung thư). Dựa trên
các mô hình động vật, các mẫu biểu tượng phơi nhiễm hoá chất trong sự nghiên cứu về
295
nguyên nhân bệnh của nhiều ung thư, nhờ đó sự liên kết đối với bằng chứng ung thư
người dường như đáng tin cậy. Tuy nhiên, sự liên kết các phơi nhiễm chất ô nhiễm đã
biết với quần thể người chịu ảnh hưởng là khó khăn,đặc biệt khi các ảnh hưởng không
được nhận biết liên tục nhiều năm và tác nhân gây bệnh theo thời gian không còn hoặc
không xác định được.
Giống như động vật hoang dã, một số ảnh hưởng sức khoẻ con người có thể là
thuận nghịch. Trong một số trường hợp, điều đó có thể là vấn đề về liều. Liều cao có thể
dẫn đến các ảnh hưởng trực tiếp bất thuận nghịch, như dị tật. Tuy nhiên các liều thấp có
thể biểu lộ ẩn hoặc biến đổi chức năng chậm trong sự nhạy cảm không rõ cho đến sau sự
phơi nhiễm đã qua đi và cá thể đã được thử thách. Đặc biệt người có đời sống dài, ngay
cả các liều rất thấp cũng có thể gây ra sự rủi ro sức khoẻ người, làm cho các cá nhân còn
trẻ chịu các quá trình sinh bệnh mãn tính. Các động vật hoang dã không bị ảnh hưởng
theo con đường tương tự do đời sống của chúng nói chung ngắn.
Bất kể loài, quá trình đánh giá rủi ro đòi hỏi bốn giai đoạn: nhận biết nguy hai,
đánh giá liều – đáp ứng, đánh giá phơi nhiễm và đặc trưng rủi ro. Thường các quá trình
này là rất khó trong các quần thể người nên các sự nội suy được sử dụng, bao gồm sự nội
suy định tính giữa các loài từ động vật thí nghiệm cho người và nội suy định lượng từ
liều cao đến liều thấp. Những sự bất định trong hai sự nội suy này đôi khi tạo ra độ tin
cậy thấp trong sự đánh giá rủi ro đối với người. Khi các dữ liệu người có chất lượng thấp
hoặc không có sẵn, các khả năng cảm thụ của động vật hoang dã có thể phục vụ vai trò
hữu ích trong sự đánh giá rủi ro người.
Đánh giá rủi ro gây ung thư
Đối với sự đánh giá rủi ro ung thư có một điều phải thừa nhận là không có ngưỡng
gây ảnh hưởng có hại của hầu hết các hoá chất riêng. Người ta giả thiết rằng có một số ít
các biến cố phân tử có thể gợi lên những sự biến đổi trong tế bào đơn dẫn đến sự tăng
sinh tế bào không kiểm soát và thực tế dẫn đến trạng thái lâm sàng của bệnh. Cơ chế này
liên quan đến “không ngưỡng” vì không có mức phơi nhiễm hoá chất để không gây ra
một khả năng có thể nhất định, tuy nhỏ, của sự sinh đáp ứng ung thư. Vì vậy, trong đánh
giá rủi ro ung thư, ngưỡng ảnh hưởng không được đánh giá.
Sự đánh giá rủi ro ung thư gồm hai phần: (1) ấn định phân loại chất và mức độ
bằng chứng; (2) tính toán yếu tố hệ số góc.
Ấn định phân loại chất và mức độ bằng chứng.
Mục đích ở đây là để xác định sự có khả năng tác nhân là chất gây ung thư. Bằng
chứng được đặc trưng riêng cho các nghiên cứu đối với người và các nghiên cứu đối với
296
động vật ở các mức độ: đủ, giới hạn, chưa đủ, không dữ liệu, hoặc bằng chứng không ảnh
hưởng. Dựa trên đặc trưng này và trên phạm vi mà hoá chất được chỉ ra là chất gây ung thư
trong động vật, trong người hoặc trong cả hai mà được xếp theo vị trí thứ tự. Có một số
cách phân loại đánh giá sự gây ung thư ở người (Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ, Cộng
đồng Châu Âu). Bảng 7.2 giới thiệu cách phân loại của cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ.
Bảng 7.2. Sự phân loại đánh giá gây ung thư ở người.
Nhóm Bằng chứng Ví dụ*
1. Tác nhân là gây ung thư Đủ (người) Asen, aflatoxin, benzen,
estrogen, vinylclorua
2A. Tác nhân có khả năng
gây ung thư
Giới hạn (người)
Đủ (động vật)
Benz[a] antraxen, đietylnaph-
tylamin, PCB, stiren oxit
2B. Tác nhân có thể gây ung
thư
Giới hạn (người) hoặc
Không đủ (người)
Đủ (động vật)
TCDD, stiren, uretan
3. Tác nhân không có khả
năng phân loại là gây ung thư
5-Azaxitiđin, điazepam
4. Tác nhân có khả năng
không gây ung thư
Chưa đủ (người)
Chưa đủ (động vật)
Caprolactam
* Các thí dụ đưa ra ở đây là tương đối, một số có thể thay đổi vị trí phân loại theo
mức độ bằng chứng thay đổi.
Định lượng đối với ảnh hưởng gây ung thư
Sự định lượng rủi ro dựa trên sự đánh giá hoá chất được biết hoặc có khả năng là
chất gây ung thư người, giá trị tính độc được xác định định lượng từ quan hệ liều – đáp
ứng (yếu tố hệ số góc). Yếu tố hệ số góc được tính cho các hoá chất loại 1, 2A, 2B.
Sự hình thành yếu tố hệ số góc buộc phải áp dụng mô hình đối với bộ các dữ liệu
có sẵn và sử dụng mô hình để nội suy từ các liều cao đến các mức phơi nhiễm thấp mong
đợi đối với sự tiếp xúc người. Có một số các mô hình nội suy liều thấp có thể được chia
thành các mô hình phân bố và các mô hình cơ học (đa giai đoạn tuyến tính). Mô hình đa
giai đoạn tuyến tính được sử dụng trong hầu hết các trường hợp. Về cơ bản, sau khi các
dữ liệu khớp vào mô hình lựa chọn, giới hạn độ tin cậy trên 95% của hệ số góc đường
biểu diễn liều – đáp ứng tạo ra được tính. Nó biểu thị sác xuất của đáp ứng trên đơn vị
hấp thụ suốt thời gian sống, hoặc có 5% trường hợp sác xuất của đáp ứng có thể lớn hơn
so với giá trị được đánh giá trên cơ sở các dữ liệu thực nghiệm và mô hình sử dụng. Các
giá trị tính độc đối với các ảnh hưởng ung thư có thể được biểu thị theo một số cách. Yếu
tố hệ số góc được biểu thị là
*q1 :
297
Yếu tố hệ số góc = Rủi ro trên đơn vị liều
= Rủi ro trên mg/kg.ngày
Yếu tố hệ số góc vì vậy có thể được sử dụng để tính sự đánh giá giới hạn trên của
rủi ro (R)
Rủi ro =
*q1 [rủi ro (mg/kg/ngày)
–1
] phơi nhiễm (mg/kg/ngày)
ở đây: rủi ro là sác xuất không thứ nguyên (nghĩa là 1.10–5) của cá thể phát triển ung thư,
phơi nhiễm là sự hấp thu hàng ngày mãn tính thực trung bình trên 70 năm: mg/kg/ngày.
Như vậy, rủi ro (R) có thể xác định được nếu ta có thể xác định được yếu tố hệ số góc và
sự phơi nhiễm ở địa điểm thải hoặc địa điểm nghề nghiệp.
Vì sự hấp thu tương đối thấp (so với sự hấp thu trên động vật thí nghiệm) hầu như
giống với hấp thu từ môi trường, nên có thể giả thiết rằng quan hệ liều – đáp ứng sẽ là
tuyến tính trên phần thấp của đường biểu diễn liều – đáp ứng mô hình đa giai đoạn.
Phương trình tuyến tính này chỉ có hiệu lực ở những mức rủi ro thấp (nghĩa là rủi ro được
đánh giá là 0,01). Đối với rủi ro trên 0,01 phải sử dụng phương trình:
Rủi ro = 1 – mũ (– phơi nhiễm yếu tố hệ số góc)
Cơ quan bảo vệ môi trường Mỹ đặt mục tiêu rủi ro ung thư thời gian sống giới hạn
trong khoảng 10–6 đến 10–4 đối với phơi nhiễm hoá chất
298
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. David A. Wright and Pamela Welboun, “Environmental toxicology”, Cambridge
University Pres, 2002.
2. Emest Hodgson, “A textbook of modern toxicology”, third edition, published by John
Wiley & Sons, Inc., Houben New Jersey, 2004.
3. Loomis, Ted A., “Essentials of toxicology”, 3rd edition, 1978. Copyright 1978 by
Lea & Febiger, Printed in the USA.
4. Schowarzenbank R. P., Gschwend P. M. and Inboden D. M., “Environmental organic
Chemistry” 2nd ed., John Wiley & Sons, Inc., New York, 2002.
5. H. W. Gerarde, “Toxicology and biochemitry of aromatic hydrocarbons”, printed in
the Netherlands by Zuid-Nether-Landsche Drukkerij, 1960.
6. Kriege R., “Handbook of Pesticide Toxicology”, San Diego, Academic Pres, 2001.
7. N. T. Kärki, “Mechanisms of toxicology and metabolism”, Pergamon press, 1976.
8. Colin Baird, “Enviromental Chemistry”, Secomd edition, W. H. Freeman and
compapy, New York, 1999.
9. Curtis D. Klaaseen, “Toxicology”, sixth edition, McRaw-Hill, New York, 2001.
10. Lê Huy Bá, “Độc học môi trường”. NXB KHKT, Thành phố Hồ Chí Minh, 2001.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_doc_hoc_moi_truong_nguyen_duc_hue_7036.pdf