Tóm lược cuối bài
Nhiều sự lựa chọn của các cá nhân được thực hiện trong điều kiện rủi ro. Rủi ro là một tình
huống trong đó một quyết định có nhiều kết quả, người ra quyết định biết giá trị của tất cả
các kết quả và xác suất xảy ra chúng.
Giá trị kỳ vọng của một biến số ngẫu nhiên, rời rạc là bình quân gia quyền của các giá trị có
thể của tất cả các kết quả, mỗi giá trị của mỗi kết quả được gán cho trọng số bằng xác suất
xảy ra kết quả đó.
Xác suất khách quan được giải thích theo tần suất xuất hiện của một sự kiện xác định. Xác
suất chủ quan là sự nhận thức về kết quả xảy ra. Nó phụ thuộc vào kỳ vọng, sở thích, kinh
nghiệm và sự đánh giá về tương lai của người ra quyết định.
Phương sai của một phân bố xác suất biểu thị giá trị trung bình của hiệu số bình phương của
giá trị của một biến số ngẫu nhiên và giá trị kỳ vọng hay giá trị trung bình của nó.
Nếu giá trị kỳ vọng được sử dụng làm tiêu thức để ra quyết định thì người ra quyết định hợp
lý luôn chọn hoạt động có giá trị kỳ vọng cao nhất.
Có thể đưa thái độ đối với rủi ro của người ra quyết định vào mô hình bằng cách thay tiêu
thức giá trị kỳ vọng bằng tiêu thức ích lợi kỳ vọng. Người ra quyết định sẽ chọn hoạt động có
ích lợi kỳ vọng cao nhất.
Đa số mọi người đều ghét rủi ro, vì thế khi ra quyết định họ có thể sử dụng tiêu thức mức độ
rủi ro và sẽ chọn hoạt động có mức độ rủi ro thấp nhất. Thông thường các hoạt động có giá
trị kỳ vọng cao thì gắn với rủi ro cao. Trong trường hợp đó sử dụng tiêu thức hệ số biến thiên
sẽ là hợp lý.
Khi xét đường bàng quan giữa rủi ro và thu nhập, có thể sử dụng tiêu thức tương đương chắc
chắn để ra quyết định, hoạt động có tương đương chắc chắn cao nhất sẽ được chọn. Các
quyết định quản lý có rủi ro thường được thực hiện theo từng giai đoạn. Các quyết định và
các sự kiện sau phụ thuộc vào kết quả của các quyết định trước. Cây ra quyết định biểu thị
trình tự của các quyết định quản lý có thể đưa ra và kết quả kỳ vọng trong mỗi hoàn cảnh.
16 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 268 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - Bài 2: Lựa chọn trong điều kiện rủi ro, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài 2: Lựa chọn trong điều kiện rủi ro
18 TX KHMI02_Bai 2_v1.0014107222
BÀI 2 LỰA CHỌN TRONG ĐIỀU KIỆN RỦI RO
Hướng dẫn học
Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau:
Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia
thảo luận trên diễn đàn.
Đọc tài liệu:
1. PGS.TS. Phạm Văn Minh (2011), Giáo trính Kinh tế học vi mô 2, NXB Lao động
xã hội.
2. PGS.TS. Vũ Kim Dũng – PGS.TS. Phạm Văn Minh (2011), Hướng dẫn thực
hành Kinh tế học vi mô 2, NXB Lao động xã hội.
3. PGS.TS. Vũ Kim Dũng – PGS.TS. Nguyễn Văn Công (2012), Giáo trình kinh tế
học tập 1, NXB Đại học Kinh tế quốc dân.
Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc
qua email.
Tham khảo các thông tin từ trang Web môn học.
Nội dung
Trong thực tế rất nhiều các quyết định của các cá nhân được thực hiện trong điều kiện rủi
ro hay không chắc chắn. Một số người đi vay để thanh toán cho những khoản mua sắm
lớn như mua nhà, mua ô tô hay đi học đại học ở nước ngoài, họ đều lập kế hoạch trả nợ
bằng các khoản thu nhập tương lai của mình. Nhưng thu nhập tương lai của đa số mọi
người lại là không chắc chắn. Bởi vậy khi ra những quyết định lớn về tiêu dùng hay đầu
tư cần phải tính đến tình huống này để từ đó có các biện pháp đối phó với rủi ro hay
không chắc chắn.
Trong bài này, trước hết ta giới thiệu các trạng thái khác nhau của thông tin, tiếp đó ta sẽ
tập trung nghiên cứu hai trạng thái của thông tin là rủi ro và không chắc chắn. Về thông
tin rủi ro ta sẽ tìm cách mô tả thông tin rủi ro, xem xét các thái độ đối với rủi ro, các
phương pháp ra quyết định trong điều kiện rủi ro, các cách làm giảm bớt rủi ro, và vận
dụng phân tích rủi ro vào việc lựa chọn danh mục đầu tư. Cuối cùng ta sẽ nghiên cứu các
phương pháp ra quyết định trong điều kiện không chắc chắn.
Mục tiêu
Giúp người học hiểu rõ bản chất về rủi ro và các quyết định đối phó với rủi ro.
Các phương pháp làm giảm thiểu rủi ro và vai trò của thông tin.
Bài 2: Lựa chọn trong điều kiện rủi ro
TX KHMI02_Bai 2_v1.0014107222 19
Tình huống dẫn nhập
Trong thực tế rất nhiều các quyết định của các cá nhân được thực hiện trong điều kiện rủi ro hay
không chắc chắn. Một số người đi vay để thanh toán cho những khoản mua sắm lớn như mua
nhà, mua ô tô hay đi học đại học ở nước ngoài, họ đều lập kế hoạch trả nợ bằng các khoản thu
nhập tương lai của mình. Nhưng thu nhập tương lai của đa số mọi người lại là không chắc chắn.
Bởi vậy khi ra những quyết định lớn về tiêu dùng hay đầu tư cần phải tính đến tình huống này để
từ đó có các biện pháp đối phó với rủi ro hay không chắc chắn.
Vậy chúng ta sẽ ra quyết định như thế nào để giảm thiểu rủi ro?
Bài 2: Lựa chọn trong điều kiện rủi ro
20 TX KHMI02_Bai 2_v1.0014107222
2.1. Mô tả rủi ro
Thông tin có thể ở một trong ba trạng thái sau: chắc chắn, rủi ro, không chắc chắn.
Chắc chắn là tình huống trong đó một quyết định
có một kết quả, người ra quyết định biết kết quả đó
một cách chắc chắn. Với dạng thông tin này, việc ra
quyết định rất dễ dàng. Tuy nhiên trong thực tế
dạng thông tin này không phổ biến. Hai dạng sau
của thông tin – rủi ro và không chắc chắn là những
dạng thông tin thường gặp. Ta sẽ xem lần lượt xem
xét hai dạng thông tin này dưới đây.
Rủi ro là tình huống trong đó một quyết định có nhiều kết quả, người ra quyết
định biết tất cả các kết quả đồng thời biết xác suất xảy ra chúng. Ví dụ khi tung
đồng xu bạn biết đồng xu có thể rơi ngửa hoặc rơi sấp, nhưng không biết chắc
chắn nó sẽ rơi ngửa hay rơi sấp. Tuy nhiên bạn biết là nếu tung đồng xu nhiều lần
thì sẽ có 50% số lần nó rơi ngửa và 50% số lần nó rơi sấp.
Xác suất là một khái niệm rất khó công thức hóa vì việc lý giải nó phụ thuộc vào
bản chất của những sự kiện không chắc chắn và vào những gì mà người có liên
quan tin tưởng.
o Xác suất khách quan là tần suất xuất hiện của một sự kiện nhất định. Xác suất
khách quan bao gồm xác suất “biết trước” (tiên nghiệm) và xác suất “biết sau”
(hậu nghiệm). Xác suất biết trước là xác suất có thể tính được bằng kiến thức
có trước. Ví dụ, nếu một đồng xu có hai mặt và đồng xu đó là đồng xu cân thì
xác suất rơi sấp và rơi ngửa là như nhau và bằng 0,5. Xác suất biết sau là xác
suất chỉ có thể biết được sau khi đã xảy ra. Ví dụ, trong 30 ngày của tháng tư
chỉ có 10 ngày mưa trong 10 năm qua thì xác suất biết sau của một ngày mưa
trong tháng tư là 0,33. Tuy nhiên nhiều quyết định kinh tế là độc nhất nên không
có xác suất khách quan. Trong trường hợp đó phải sử dụng xác suất chủ quan.
o Xác suất chủ quan là nhận thức về kết quả xảy ra. Nó phụ thuộc vào kỳ vọng,
sở thích, kinh nghiệm và sự đánh giá về tương lai của người ra quyết định. Có
thể ước lượng được xác suất chủ quan bằng cách đề nghị người ra quyết định
so sánh một tình huống thực cần phải xem xét với một tình huống giả thiết mà
xác suất khách quan đã biết. Nhưng chắc chắn là các cá nhân khác nhau trong
cùng một tổ chức có thể gán những xác suất khác nhau cho cùng một kết quả
hoặc cùng một cá nhân có thể đưa ra những xác suất khác nhau khi được hỏi
vào những thời gian khác nhau.
Giá trị kỳ vọng (EV) là khái niệm được sử dụng làm thước đo xu hướng trung
tâm. Giá trị kỳ vọng của một biến số ngẫu nhiên, rời rạc là bình quân gia quyền
của các giá trị có thể của tất cả các kết quả, mỗi giá trị của mỗi kết quả được gán
cho trọng số bằng xác suất xảy ra kết quả đó: EV = piVi
Trong đó: pi là xác suất của kết quả thứ i
Vi là giá trị của kết quả thứ i
pi = 1
Bài 2: Lựa chọn trong điều kiện rủi ro
TX KHMI02_Bai 2_v1.0014107222 21
Ví dụ, siêu thị ABC biết rằng doanh thu hàng ngày thay đổi theo thời tiết. Có ba
khả năng xảy ra: nắng với xác suất là 0,3, mưa với xác suất là 0,3 và có mây với
xác suất là 0,4. Doanh thu phụ thuộc vào thời tiết và được cho ở bảng 2.1.
Bảng 2.1. Doanh thu hàng ngày của siêu thị ABC
Điều kiện thời tiết Xác suất Doanh thu (triệu đồng)
Nắng
Mưa
Có mây
0,3
0,3
0,4
500
200
1000
Trong trường hợp này EV được tính như sau:
EV = 0,3.500 + 0,3.200 + 0,4. 1000 = 610 (triệu đồng)
Đây là phân bố xác suất rời rạc. Trường hợp phân bố xác suất liên tục thì doanh thu
của siêu thị ABC có thể có rất nhiều giá trị khác nhau. Nếu phân bố xác suất của
doanh thu là phân bố chuẩn thì EV là giá trị trung bình của phân bố đó.
Phương sai
Phương sai được sử dụng làm thước đo mức độ phân tán. Phương sai cho thấy các
giá trị riêng rẽ phân tán xung quanh giá trị trung bình như thế nào. Phương sai của
một phân bố xác suất biểu thị giá trị trung bình của hiệu số bình phương của giá trị
của một biến số ngẫu nhiên và giá trị kỳ vọng hay giá trị trung bình của nó.
Phương sai của biến số X là:
var(X) = 2 = E(X – EV)2 =
X
pEVX 2)(
Độ lệch chuẩn là căn bậc hai của phương sai:
2
X
(X EV) p
Độ lệch chuẩn thường được sử dụng làm thước đo mức độ rủi ro.
2.2. Ra quyết định trong điều kiện rủi ro
Có thể sử dụng các tiêu thức khác nhau để ra quyết định trong điều kiện rủi ro.
2.2.1. Sử dụng tiêu thức giá trị kỳ vọng
Nếu giá trị kỳ vọng được sử dụng làm tiêu thức ra quyết định thì người ra quyết định
hợp lý sẽ luôn chọn hoạt động có giá trị kỳ vọng cao nhất.
Ví dụ một cá nhân đang cân nhắc hai phương án đầu tư A và B. Lợi nhuận của các
phương án đầu tư này là khác nhau và được cho ở bảng 2.2 với các xác suất tương
ứng của chúng.
Bảng 2.2. Kết quả dự kiến của hai phương án đầu tư
Phương án đầu tư Xác suất Lợi nhuận (triệu đồng)
A
0,4
0,6
400
200
B
0,3
0,7
500
100
Bài 2: Lựa chọn trong điều kiện rủi ro
22 TX KHMI02_Bai 2_v1.0014107222
Giá trị kỳ vọng của phương án A là: EVA = 0,4.400 + 0,6. 200 = 280
Giá trị kỳ vọng của phương án B là: EVB = 0,3.500 + 0,7. 100 = 220
Phương án A đem lại lợi nhuận kỳ vọng cao hơn nên sẽ được chọn.
Ưu điểm của việc sử dụng tiêu thức này là nó giúp ta chọn được hoạt động có giá trị
kỳ vọng cao nhất. Nhưng trong nhiều trường hợp việc sử dụng tiêu thức này có thể
dẫn đến những kết luận vô nghĩa. Ví dụ, một người có ngôi nhà trị giá 1 tỷ đồng và
xác suất bị cháy trong một năm là một phần mười nghìn (p = 0,0001). Như vậy giá
trị kỳ vọng của thiệt hại là 100 nghìn đồng. Nếu chủ nhân ngôi nhà này áp dụng tiêu
thức giá trị kỳ vọng để ra quyết định thì chỉ sẵn sàng mua bảo hiểm với mức phí 100
nghìn đồng. Trong thực tế nhiều người trong hoàn cảnh như thế sẽ sẵn sàng trả nhiều
hơn 100 nghìn đồng mua bảo hiểm để tin chắc rằng nếu nhà của họ bị cháy thì sẽ
được bồi thường.
Ví dụ thứ hai là trò chơi tung đồng xu. Nếu một cá nhân đồng ý với luật chơi là
nếu đồng xu rơi ngửa anh ta sẽ được 1 nghìn đồng và nếu đồng xu rơi sấp thì anh
ta sẽ mất 1 nghìn đồng. Như vậy giá trị kỳ vọng của trò chơi này là:
EV = 0,5.1 = 0,5.( –1) = 0
Nếu sử dụng tiêu thức giá trị kỳ vọng thì cá nhân này sẽ thờ ơ với trò chơi. Tuy
nhiên trong thực tế lại có rất nhiều người chơi. Dường như họ quan tâm đến phần
thưởng nhiều hơn.
Ví dụ thứ ba là nghịch lý “St Petersberg”. Giả sử tung đồng xu và khoản tiền
thưởng phụ thuộc vào lần đầu tiên nó rơi ngửa. Nếu lần tung đầu tiên nó đã rơi
ngửa thì phần thưởng sẽ là 2 nghìn đồng, nếu lần tung thứ hai nó mới rơi ngửa thì
phần thưởng sẽ là 22 = 4 nghìn đồng Nếu lần thứ n nó mới rơi ngửa là phần
thưởng sẽ là 2n nghìn đồng. Một người hợp lý sẽ trả bao nhiêu để chơi trò chơi
này? Giá trị kỳ vọng của trò chơi này là:
EV = 0,5.2 + (0,5)2.(2)2 + + (0,5)n.(2)n = 1 + 1 + + 1 =
Như vậy giá trị kỳ vọng là vô cùng. Nếu người ra quyết định sử dụng tiêu thức giá
trị kỳ vọng để ra quyết định thì họ sẽ chấp nhận đánh đổi mọi thứ để chơi. Nhưng
thực tế mọi người không chấp nhận trò chơi phải trả lượng tiền lớn như thế. Họ
quan tâm đến khoản mất nhiều hơn. Theo ngôn ngữ của phân tích kinh tế, “ích lợi”
của một nghìn đồng bị mất lớn hơn “ích lợi” của một nghìn đồng được.
Phân tích trên đây cho thấy hạn chế của việc sử dụng tiêu thức giá trị kỳ vọng để ra
quyết định. Đó là không tính đến thái độ của người ra quyết định đối với rủi ro. Để
khắc phục hạn chế này có thể sử dụng một tiêu thức khác tính đến thái độ đối với rủi
ro của người ra quyết định. Hình 2.1 minh họa mối quan hệ giữa ích lợi và thu nhập
của một cá nhân. Mỗi phần biểu thị một thái độ đối với rủi ro của một cá nhân nào đó.
Người ghét rủi ro là người thích hoạt động có kết quả chắc chắn hơn hoạt động rủi ro có
giá trị kỳ vọng của kết quả bằng thế. Phần (a) trong hình 2.1 biểu thị mối quan hệ giữa ích
lợi và thu nhập của người ghét rủi ro. Tổng ích lợi của người này tăng khi thu nhập tăng
nhưng với tốc độ giảm dần, nghĩa là ích lợi cận biên của thu nhập giảm dần, vì thu nhập
tăng rủi ro cũng tăng.
Bài 2: Lựa chọn trong điều kiện rủi ro
TX KHMI02_Bai 2_v1.0014107222 23
Hình 2.1. Các hàm ích lợi của những người có thái độ khác nhau đối với rủi ro.
Người bàng quan (hay người trung lập) với rủi ro là người thích hoạt động chắc chắn
như hoạt động rủi ro có giá trị kỳ vọng bằng kết quả của hoạt động chắc chắn. Phần
(b) trong hình 2.1 biểu thị mối quan hệ giữa ích lợi và thu nhập của người bàng quan
với rủi ro. Tổng ích lợi của người này tăng tỷ lệ thuận với thu nhập, nghĩa là ích lợi cận
biên của thu nhập là hằng số.
Người thích rủi ro (thích mạo hiểm) là người thích giá trị kỳ vọng hơn giá trị chắc
chắn mặc dù chúng bằng nhau. Phần (c) trong hình 2.1 biểu thị mối quan hệ giữa ích
lợi và thu nhập của người thích rủi ro. Tổng ích lợi của người này tăng khi thu nhập
tăng nhưng với tốc độ tăng dần, nghĩa là ích lợi cận biên của thu nhập tăng dần.
2.2.2. Sử dụng tiêu thức lợi ích kỳ vọng
Thay tiêu thức giá trị kỳ vọng bằng tiêu thức ích lợi kỳ vọng (EU), người ra quyết
định sẽ chọn hoạt động đem lại ích lợi kỳ vọng cao nhất.
EU = piUi
Trong đó: pi là xác suất của kết quả thứ i
Ui là ích lợi của kết quả thứ i
pi = 1
Ưu điểm của việc sử dụng tiêu thức ích lợi kỳ vọng là khi mô hình hóa việc ra quyết
định có thể tính đến thái độ đối với rủi ro của người ra quyết định. Tuy nhiên việc sử
dụng tiêu thức này theo cách chuẩn tắc sẽ gặp khó khăn vì phải ước lượng mối quan
hệ giữa ích lợi và thu nhập đối với một người ra quyết định cụ thể.
Để khắc phục nhược điểm này có thể sử dụng một phương pháp gọi là “so sánh trò
chơi chuẩn”. Nội dung của phương pháp này gồm các bước sau: Thứ nhất, gán các giá
trị ích lợi cho các giá trị bằng tiền theo quy tắc giá trị bằng tiền cao phải được gán giá
trị ích lợi cao. Bước thứ hai là xác định giá trị ích lợi của các lượng tiền khác nhau. Ví
dụ, ích lợi của 1 triệu đồng là 1, ích lợi của 0 đồng là 0. Sau đó tìm giá trị ích lợi của
các lượng tiền giữa 0 và 1 triệu đồng cho một người ra quyết định cụ thể. Giả định
rằng cần xác định ích lợi của 500 nghìn đồng trong trường hợp người ra quyết định
phải chọn một trong hai phương án:
a. Nhận 500 nghìn đồng chắc chắn.
b. Nhận một vé xổ số đem lại phần thưởng 1 triệu đồng với xác suất p và không được
Thu nhập
Ích lợi
(a)
Thu nhập
Ích lợi
(b)
Thu nhập
Ích lợi
(c)
Bài 2: Lựa chọn trong điều kiện rủi ro
24 TX KHMI02_Bai 2_v1.0014107222
gì với xác suất (1 – p).
Với những giá trị thấp của p thì người này sẽ thích 500 nghìn chắc chắn hơn, nhưng ở
những giá trị cao của p thì người ra quyết định sẽ thích chơi xổ số hơn. Nếu biết thái độ
đối với rủi ro của người này thì ta có thể giải quyết được vấn đề một cách dễ dàng. Ví
dụ, nếu người này thờ ơ giữa hai phương án: nhận 500 nghìn chắc chắn và nhận vé xổ
số để được 1 triệu đồng với xác suất 0,6 thì có thể suy ra ích lợi của 500 nghìn đồng
chắc chắn và “1 triệu đồng hoặc 0 đồng” là như nhau. Do đó:
U(500) = 0,6.U(1000) + 0,4.U(0)
Vì ta đã gán những giá trị ích lợi cho 1 triệu đồng và 0 nghìn đồng nên ta có:
U(500) = 0,6.1 + 0,4.0 = 0,6
Nhược điểm của phương pháp ước lượng ích lợi này là nó dựa vào khả năng trả lời
các câu hỏi giả thiết giống như trả lời các câu hỏi thực của người ra quyết định.
Một người ghét rủi ro đến mức nào phụ thuộc vào bản chất của rủi ro và mức thu
nhập. Những người ghét rủi ro thường chọn những hoạt động có mức độ dao động của
các kết quả nhỏ hơn. Độ dao động càng lớn thì người ghét rủi ro sẵn sàng trả càng
nhiều để tránh rủi ro. Nói cách khác, họ sẵn sàng chấp nhận rủi ro nếu được đền bù
khoản thu nhập lớn hơn.
2.2.3. Sử dụng tiêu thức mức độ rủi ro
Đa số mọi người đều ghét rủi ro. Vì thế khi ra quyết định họ có thể sử dụng tiêu thức
mức độ rủi ro, và sẽ chọn hoạt động có mức độ rủi ro thấp nhất. Mức độ rủi ro được đo
bằng độ lệch chuẩn. Với hai phương án đầu tư đã cho ở bảng 2.2 ta có thể xác định được
phương sai và độ lệch chuẩn như sau:
Phương sai của phương án A là:
348006,0.)280500(4,0.)280400( 222
Và:
55,18634800
Phương sai của phương án B là:
336007,0.)220100(3,0.)220500( 222
Và:
30,18333600
Như vậy phương án B sẽ được chọn vì có mức độ rủi ro thấp hơn.
2.2.4. Sử dụng tiêu thức hệ số biến thiên
Nếu sử dụng tiêu thức giá trị kỳ vọng ta có thể chọn được hoạt động đem lại giá trị kỳ
vọng cao nhất mà không quan tâm đến mức độ rủi ro của hoạt động đó. Có thể sử dụng
tiêu thức hệ số biến thiên (CV) để xem xét mức độ rủi ro của mỗi đồng kết quả.
EV
CV
Hệ số biến thiên của phương án A là:
Bài 2: Lựa chọn trong điều kiện rủi ro
TX KHMI02_Bai 2_v1.0014107222 25
67,0280
55,186 CV
Hệ số biến thiên của phương án B là:
83,0220
30,183 CV
Theo tiêu thức này phương án A sẽ được chọn vì có hệ số biến thiên thấp hơn.
2.2.5. Sử dụng tiêu thức tương đương chắc chắn
Tương đương chắc chắn của một hoạt động có rủi ro là lượng tiền sẵn có chắc chắn
làm cho người ra quyết định thỏa mãn như khi thực hiện hành động rủi ro. Đó chính là
điểm cắt với trục tung của đường bàng quan liên quan đến hoạt động rủi ro đang xét.
Trong hình 2.2, OA là tương đương chắc chắn của hoạt động rủi ro và được biểu thị
trên đường U1. Khi sử dụng tiêu thức tương đương chắc chắn, người ra quyết định
chọn hoạt động có tương đương chắc chắn cao nhất.
2.2.6. Cây ra quyết định
Các quyết định quản lý trong điều kiện rủi ro thường được thực hiện theo từng giai
đoạn. Các quyết định và các sự kiện sau phụ thuộc vào kết quả của các quyết định
trước. Cây ra quyết định biểu thị trình tự mà các quyết định quản lý được đưa ra và kết
quả kỳ vọng trong mỗi hoàn cảnh. Hãy tưởng tượng một cây mà thân được chia thành
hai hoặc ba nhánh chính, ở mức cao hơn, mỗi nhánh chính lại chia thành hai hoặc ba
nhánh nhỏ hơn. Các nhánh chính ở lớp thứ nhất biểu thị các quyết định khác nhau có
thể được đưa ra để giải quyết vấn đề. Khi không có sự chắc chắn thì có thể có nhiều
hơn một kịch bản, mỗi nhánh được phân chia thành nhiều nhánh hơn biểu thị mỗi kịch
bản có thể. Đối với các quyết định có lợi nhuận ở kỳ thứ hai và các kỳ sau, mỗi một
trong các nhánh này có thể phân chia thành các nhánh biểu thị các kịch bản có thể vào
kỳ thứ hai, bằng một tập hợp nhánh mới ta biểu thị kỳ thứ ba Các nhánh cuối cùng
của cây biểu thị các kết quả của kỳ cuối cùng của quá trình ra quyết định đang được
xem xét.
Ví dụ, một công ty sản xuất hàng thể thao đang muốn gia nhập thị trường mới. Các
nhà quản lý công ty đang lựa chọn quy mô nhà máy để xây dựng. Công ty dự đoán
nền kinh tế sẽ thay đổi theo hướng tăng trưởng, giữ nguyên tốc độ cũ, hoặc suy thoái
với các xác suất tương ứng là 30%, 40%, và 30%. Giá trị hiện tại của luồng tiền của
mỗi quy mô mà công ty dự đoán được cho ở bảng 2.3 dưới đây.
O
A
EV U3
U2
Hình 2.2. Tương đương chắc chắn
U1
Bài 2: Lựa chọn trong điều kiện rủi ro
26 TX KHMI02_Bai 2_v1.0014107222
Bảng 2.3. Giá trị hiện tại của luồng tiền mà mỗi quy mô nhà máy dự kiến mang lại
Điều kiện kinh tế Quy mô lớn Quy mô nhỏ
Giá trị hiện tại của
luồng tiền
(tỷ đồng)
Tăng trưởng
Giữ nguyên tốc độ cũ
Suy thoái
10
6
2
4
3
2
Ta có thể xây dựng cây ra quyết định như hình 2.3 dưới đây để lý giải sự lựa chọn quy
mô nhà máy cho công ty này. Giả định người quản lý công ty là người bàng quan với
rủi ro.
Từ nhánh trên của cây ra quyết định có thể tính được NPV của nhà máy quy mô lớn là
6 tỷ đồng.
Từ nhánh dưới của cây ra quyết định có thể tính được NPV của nhà máy quy mô lớn
là 2,7 tỷ đồng.
Công ty nên xây dựng nhà máy quy mô lớn vì có NPV lớn hơn.
2.3. Giảm rủi ro
Mọi người nói chung ghét rủi ro. Họ có thể sử dụng các phương pháp khác nhau để
giảm rủi ro. Dưới đây ta sẽ lần lượt xem xét từng phương pháp:
2.3.1. Đa dạng hóa
Giả sử một cá nhân làm đại lý bán hàng cho một hãng sản xuất đồ gia dụng. Họ có thể
dành toàn bộ nguồn lực của mình để bán quạt điện, máy điều hòa không khí hoặc bán
chăn, đệm; hoặc chia tất cả các nguồn lực để vừa bán quạt điện, máy điều hóa không
khí vừa bán chăn, đệm. Rõ ràng là các nhóm mặt hàng này đem lại kết quả trái ngược
nhau trong cùng một điều kiện thời tiết. Cá nhân này không biết thời tiết năm tới sẽ
nóng hay lạnh. Vì thế họ phải tìm cách để giảm đến mức tối thiểu rủi ro trong bán
hàng bằng cách đa dạng hóa. Nghĩa là phân chia nguồn lực của mình để bán hai nhóm
Quy mô
nhà máy
Nhỏ
Lớn
Điều kiện
kinh tế
Tăng trưởng
Giữ nguyên tốc độ cũ
Suy thoái
Điều kiện
kinh tế
0,3.2 = 0,6
0,4.6 = 2,4
0,3.10 = 3
Tăng trưởng
Giữ nguyên tốc độ cũ
Suy thoái
0,3.2 = 0,6
0,4.3 = 1,2
0,3.3 = 0,9
6
2,7
Hình 2.3. Cây quyết định.
Bài 2: Lựa chọn trong điều kiện rủi ro
TX KHMI02_Bai 2_v1.0014107222 27
hàng hóa chứ không bán chỉ một nhóm hàng hóa.
Giả sử năm tới khả năng trời lạnh và trời nóng có xác suất như nhau là 0,5. Bảng 2.4
biểu thị thu nhập mà cá nhân này có thể thu được từ việc bán quạt điện, máy điều hòa
không khí và chăn, đệm.
Bảng 2.4. Thu nhập từ việc bán các nhóm hàng hóa
Trời nóng Trời lạnh
Thu nhập từ bán quạt điện, máy điều hòa
không khí
Thu nhập từ bán chăn, đệm
200 triệu đồng
100 triệu đồng
100 triệu đồng
200 triệu đồng
Nếu cá nhân này chỉ bán quạt điện, máy điều hòa không khí hoặc chăn, đệm thì sẽ có
thu nhập kỳ vọng là 150 triệu đồng. Nếu họ đa dạng hóa bằng cách chia đều các
nguồn lực cho hai nhóm hàng hóa này thì sẽ thu được thu nhập chắc chắn là 150 triệu
đồng, bất kể thời tiết thế nào. Nếu trời nóng họ sẽ có thu nhập 100 triệu đồng từ bán
quạt điện, máy điều hóa không khí và 50 triệu đồng từ bán chăn, đệm. Nếu trời lạnh
họ sẽ có thu nhập 100 triệu đồng từ bán chăn, đệm và 50 triệu đồng từ bán quạt điện,
máy điều hóa không khí. Như vậy đa dạng hóa đã loại bỏ hoàn toàn rủi ro. Tuy nhiên
trong thực tế việc phân chia các nguồn lực cho các hoạt động có kết quả không liên
quan chặt chẽ thì chỉ loại trừ được một phần chứ không phải loại từ hoàn toàn rủi ro.
2.3.2. Bảo hiểm
Những người ghét rủi ro thường sẵn sàng từ bỏ bớt thu nhập để tránh rủi ro. Nếu tổng
phí bảo hiểm bằng thiệt hại kỳ vọng thì những người ghét rủi ro sẽ sẵn sàng mua đủ số
bảo hiểm để được đền bù mọi thiệt hại tài chính mà họ có thể phải chịu.
Giá của rủi ro (hay phần đền bù rủi ro) là số tiền mà một người ghét rủi ro sẵn
sàng trả để tránh rủi ro. Giả sử thái độ đối với rủi ro của một cá nhân được biểu thị
ở hình 2.4. Người này bàng quan giữa việc nhận một công việc mang lại thu nhập
chắc chắn I3 và một công việc mang lại thu nhập kỳ vọng I2.
2 3
4
1
I3 I2 I4 I1
U1
U4
U3 = EU
Ích lợi
Thu nhập
Hình 2.4. Giá hay phần đền bù rủi ro.
Giá của rủi ro
Bài 2: Lựa chọn trong điều kiện rủi ro
28 TX KHMI02_Bai 2_v1.0014107222
EV = p1I1 + p2I4 = I2
Trong hình 2.4, giá của rủi ro trong trường hợp này là đoạn CD, vì mức thu nhập
rủi ro I2 đem lại cho cá nhân này mức thỏa mãn đúng bằng mức thu nhập chắc chắn
I3 đem lại.
Có thể sử dụng hàm ích lợi cận biên giảm dần để giải thích bản chất của sự lựa
chọn mà một cá nhân thực hiện trong tình huống rủi ro. Giả sử cuối thời kỳ cá
nhân này có thể nhận được thu nhập I0 hoặc I1 với xác suất 50 – 50. Như vậy giá trị
kỳ vọng của thu nhập của cá nhân này là I2 = ½I0 + ½I1. Nhưng mức thu nhập
không mang tính chất quyết định, cái mang tính chất quyết định là ích lợi. Ích lợi
kỳ vọng của tình huống này là EU = ½U(I0) + ½U(I1). Cá nhân này đang phải lựa
chọn một trong hai phương án thu nhập: nhận I0 hoặc I1 với xác suất 50 – 50, và I2
chắc chắn. I2 nằm giữa hai mức I0 và I1. Thu nhập của hai phương án là như nhau
nhưng ích lợi thì khác nhau. Ích lợi kỳ vọng của phương án chắc chắn lớn hơn ích
lợi của phương án rủi ro, U(I2) > ½U(I0) + ½U(I1), như biểu thị trong hình 2.5.
Thặng dư tiêu dùng đạt được khi chọn phương án chắc chắn là I2 – I3.
Giả sử một cá nhân có thể mua bảo hiểm để tránh rủi ro. Vào đầu kỳ cá nhân này
trả một khoản phí bảo hiểm cho nhà bảo hiểm, nhà bảo hiểm đó sẽ đền bù toàn bộ
thiệt hại xảy ra trong thời kỳ đó. Trả phí sẽ đạt được một tình huống chắc chắn.
Đầu kỳ giảm thu nhập đi một khoản bằng phí bảo hiểm, cuối kỳ sẽ được đảm bảo
mức thu nhập (đã giảm) đầu kỳ. Ích lợi của phương án này là ích lợi của (I1 – phí
bảo hiểm) chắc chắn. Phải chọn giữa sự chắc chắn và không chắc chắn, cá nhân
này sẽ chọn phương án đem lại ích lợi cao hơn.
Trong hình 2.5 chừng nào phí bảo hiểm còn nhỏ hơn (I1 – I3) thì cá nhân này sẽ
thích mua bảo hiểm hơn. I3 là mức thu nhập chắc chắn, nếu có, đem lại ích lợi như
mức thu nhập I0 hoặc I1 với xác suất 50 – 50.
EU = ½U(I0) + ½U(I1)
U2
I3 I2 I1 I0
U0
U1
Ích lợi
Thu nhập
Hình 2.5. Bảo hiểm làm tăng mức thỏa mãn.
Bài 2: Lựa chọn trong điều kiện rủi ro
TX KHMI02_Bai 2_v1.0014107222 29
Bỏ qua chi phí quản lý, lượng tối đa cá nhân này sẽ trả để mua bảo hiểm lớn hơn
lượng tối thiểu mà nhà bảo hiểm sẽ chấp nhận để cung cấp bảo hiểm. Phí mua bảo
hiểm đảm bảo nhà bảo hiểm hòa vốn. Như vậy nếu bỏ qua chi phí quản lý, nhà bảo
hiểm sẽ cung cấp cho khách hàng cái gọi là “bảo hiểm công bằng”. Bảo hiểm
công bằng là bảo hiểm mà tổng phí bảo hiểm bằng giá trị kỳ vọng của tổn thất.
Tuy nhiên các công ty thường phải thu tổng phí bảo hiểm cao hơn tổn thất kỳ
vọng vì họ phải trang trải các chi phí quản lý hành chính của mình nữa. Điều đó
giải thích tại sao có nhiều người tìm cách tự bảo hiểm chứ không mua bảo hiểm
từ các công ty bảo hiểm.
Ví dụ, một cá nhân có hàm ích lợi là U(W) = –0,10W2 + 8W. Người này có của cải
ban đầu là 20 nghìn đô la, trong đó có một xe máy trị giá 10 nghìn đô la và có thể
mất với xác suất 20%. Nếu người này không mua bảo hiểm thì của cải kỳ vọng của
họ là: EW = 0,8.20 + 0,2.10 = 18 (nghìn đôla).
Nếu không mua bảo hiểm và may mắn không mất xe máy thì ích lợi của người này sẽ
là ích lợi của 20 nghìn đô la là 120 đơn vị ích lợi. Nếu người này không may mắn và
bị mất xe máy thì ích lợi là ích lợi của 10 nghìn đô la là 111,6 đơn vị ích lợi.
Ích lợi kỳ vọng là: EU = 0,8.120 + 0,2.111,6 = 118,36 (đơn vị ích lợi).
Mức này là tung độ của đoạn thẳng nối U(10) và U(20). Nếu mua bảo hiểm với
mức phí công bằng là 2 nghìn đô la thì ích lợi của họ sẽ là ích lợi của 18 nghìn đô
la, bằng 111,6 đơn vị ích lợi. Như vậy mua bảo hiểm với mức phí công bằng làm
tăng mức thỏa mãn, người này sẽ mua bảo hiểm nếu công ty bảo hiểm đặt phí là 2
nghìn đô la. Tuy nhiên để bù đắp chi phí hoạt động và có lãi công ty bảo hiểm sẽ
phải đặt phí cao hơn. Vậy mức phí cao nhất là bao nhiêu sẽ làm cho cá nhân này
mua bảo hiểm?
U(I2) = ½U(I0) + ½U(I1)
I2 I1 I0
U0
U1
Ích lợi
Thu nhập
Hình 2.6.a. Những người không mua bảo hiểm
Bài 2: Lựa chọn trong điều kiện rủi ro
30 TX KHMI02_Bai 2_v1.0014107222
Trong hình 2.5, mức thu nhập I3 thấp hơn I2, nhưng là mức thu nhập chắc chắn nên
cũng mang lại ích lợi như mức I2 rủi ro. Bởi vậy nếu phải trả phí bảo hiểm bằng I1 – I3
thì mức thỏa mãn của người ghét rủi ro không giảm so với khi không mua bảo
hiểm, và đó là mức phí bảo hiểm cao nhất mà cá nhân này sẵn sàng trả. Với ví dụ
trên có thể tính được mức của cải tương đương chắc chắn của cá nhân này là xấp
xỉ 17,5 nghìn đô la, do đó mức phí bảo hiểm tối đa mà cá nhân này sẵn sàng trả để
mua bảo hiểm xe máy là 2,5 nghìn đô la.
Trong thực tế còn có những người bàng quan giữa mua bảo hiểm và không mua
bảo hiểm ở mức phí bảo hiểm tối thiểu mà các nhà bảo hiểm sẽ cung cấp, vì họ có
thái độ bàng quan (trung lập) với rủi ro, như biểu thị ở hình 2.6a. Có cả những cá
nhân không mua bảo hiểm vì họ là những người thích rủi ro. Hình 2.6b minh họa
tình huống này. Ích lợi cận biên của thu nhập tăng dần. Cá nhân này từ chối mua
bảo hiểm ở bất kỳ mức phí khả thi nào có thể. Phương án rủi ro sẽ được lựa chọn
chứ không phải phương án an toàn. Cá nhân này “đánh bạc”.
Rủi ro đạo đạo đức và sự lựa chọn ngược
Các vấn đề phát sinh trong kinh tế bảo hiểm không phải vì thiếu thông tin mà vì
thông tin không cân xứng. Ví dụ, nhà bảo hiểm không có thông tin giống như
người được bảo hiểm. Giả sử những cá nhân này có thể ảnh hưởng đến xác suất
xảy ra kết quả không mong muốn. Khi họ đã bảo hiểm, họ không quan tâm thích
đáng đến việc đảm bảo cho kết quả không mong muốn, nhưng đã được bảo hiểm,
không xảy ra. Vấn đề này gọi là rủi ro đạo đức, nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến
việc hình thành thị trường bảo hiểm tự do.
Vấn đề thứ hai trong thị trường bảo hiểm là sự lựa chọn ngược, phát sinh khi chính
sách bảo hiểm dẫn đến những người có rủi ro cao có cầu về nó. Giả sử hai nhóm
người ở hai khu dân cư khác nhau: khu an ninh tốt và khu có nhiều tội phạm.
Nhóm sống ở khu có nhiều tội phạm có xác suất mất trộm cao hơn. Nhà bảo hiểm
muốn tách ra làm hai nhóm và bán với các mức phí bảo hiểm khác nhau nhưng
không làm được. Nhà bảo hiểm bán với mức phí thích hợp cho những người sống
ở khu vực an ninh tốt hơn, rủi ro mất trộm thấp hơn, hay cho người trung bình ở
U(I3) = ½U(I0) + ½U(I1)
U2
I3I2 I1 I0
U0
U1
Ích lợi
Thu nhập
Hình 2.6.b. Những người không mua bảo hiểm
Bài 2: Lựa chọn trong điều kiện rủi ro
TX KHMI02_Bai 2_v1.0014107222 31
khu vực có xác suất mất trộm cao hơn. Trong trường hợp nào thì mức phí đó cũng
là rẻ đối với những người sống ở khu vực có rủi ro mất trộm cao hơn. Vì thế những
người sống ở khu vực có nhiều tội phạm sẽ mua bảo hiểm nhiều hơn. Do đó nhà bảo
hiểm thua lỗ.
2.3.3. Thu thập thêm thông tin
Thông tin rất có giá trị. Người ra quyết định có thêm được thông tin sẽ làm giảm bớt
rủi ro. Thu thập thêm thông tin là cách giảm rủi ro. Nhưng để làm được điều đó phải
mất chi phí. Để xem có nên thu thập thêm thông tin không, cần phải so sánh chi phí
phải bỏ ra để có được thông tin và giá trị của thông tin. Nếu có được thông tin hoàn
hảo về tình hình tương lai thì giá trị kỳ vọng của thông tin là chênh lệch giữa giá trị kỳ
vọng của hoạt động tương lai với thông tin hoàn hảo và giá trị kỳ vọng của hoạt động
tương lai với thông tin hiện có.
Trong thực tế các tình huống có thông tin hoàn hảo về tình hình tương lai là rất hiếm
và việc mua thông tin bổ sung không đảm bảo một cách chắc chắn tuyệt đối về tình
hình tương lai. Nhưng việc tính giá trị kỳ vọng của thông tin vẫn là một công cụ hữu
ích vì nó đặt ra giới hạn trên cho cho giá của thông tin bổ sung. Nếu chi phí mua thông
tin nhỏ hơn giá trị kỳ vọng của thông tin thì nên mua, ngược lại thì không.
Bài 2: Lựa chọn trong điều kiện rủi ro
32 TX KHMI02_Bai 2_v1.0014107222
Tóm lược cuối bài
Nhiều sự lựa chọn của các cá nhân được thực hiện trong điều kiện rủi ro. Rủi ro là một tình
huống trong đó một quyết định có nhiều kết quả, người ra quyết định biết giá trị của tất cả
các kết quả và xác suất xảy ra chúng.
Giá trị kỳ vọng của một biến số ngẫu nhiên, rời rạc là bình quân gia quyền của các giá trị có
thể của tất cả các kết quả, mỗi giá trị của mỗi kết quả được gán cho trọng số bằng xác suất
xảy ra kết quả đó.
Xác suất khách quan được giải thích theo tần suất xuất hiện của một sự kiện xác định. Xác
suất chủ quan là sự nhận thức về kết quả xảy ra. Nó phụ thuộc vào kỳ vọng, sở thích, kinh
nghiệm và sự đánh giá về tương lai của người ra quyết định.
Phương sai của một phân bố xác suất biểu thị giá trị trung bình của hiệu số bình phương của
giá trị của một biến số ngẫu nhiên và giá trị kỳ vọng hay giá trị trung bình của nó.
Nếu giá trị kỳ vọng được sử dụng làm tiêu thức để ra quyết định thì người ra quyết định hợp
lý luôn chọn hoạt động có giá trị kỳ vọng cao nhất.
Có thể đưa thái độ đối với rủi ro của người ra quyết định vào mô hình bằng cách thay tiêu
thức giá trị kỳ vọng bằng tiêu thức ích lợi kỳ vọng. Người ra quyết định sẽ chọn hoạt động có
ích lợi kỳ vọng cao nhất.
Đa số mọi người đều ghét rủi ro, vì thế khi ra quyết định họ có thể sử dụng tiêu thức mức độ
rủi ro và sẽ chọn hoạt động có mức độ rủi ro thấp nhất. Thông thường các hoạt động có giá
trị kỳ vọng cao thì gắn với rủi ro cao. Trong trường hợp đó sử dụng tiêu thức hệ số biến thiên
sẽ là hợp lý.
Khi xét đường bàng quan giữa rủi ro và thu nhập, có thể sử dụng tiêu thức tương đương chắc
chắn để ra quyết định, hoạt động có tương đương chắc chắn cao nhất sẽ được chọn. Các
quyết định quản lý có rủi ro thường được thực hiện theo từng giai đoạn. Các quyết định và
các sự kiện sau phụ thuộc vào kết quả của các quyết định trước. Cây ra quyết định biểu thị
trình tự của các quyết định quản lý có thể đưa ra và kết quả kỳ vọng trong mỗi hoàn cảnh.
Bài 2: Lựa chọn trong điều kiện rủi ro
TX KHMI02_Bai 2_v1.0014107222 33
Câu hỏi ôn tập
1. Định nghĩa thế nào là rủi ro? Phân biệt rủi ro và không chắc chắn.
2. Thế nào là xác suất. Có mấy loại xác suất? Khái niệm này có ý nghĩa thế nào trong lựa chọn
trong điều kiện có rủi ro?
3. Giá trị kỳ vọng là gì? Nêu những nhược điểm nếu giá trị kỳ vọng được dùng làm tiêu thức ra
quyết định. Cho ví dụ minh họa.
4. Nêu các tiêu thức để căn cứ ra quyết định trong điều kiện có rủi ro. Ưu nhược điểm của từng
tiêu thức.
5. Ích lợi kỳ vọng là gì? Nó có mối quan hệ thế nào đến thái độ đối với rủi ro .
6. Đền bù rủi ro là gì? Minh họa trên đồ thị.
7. Giá của rủi ro là gì? Minh họa trên đồ thị.
8. Việc đa dạng hóa danh mục đầu tư để tránh rủi ro được hiểu như thế nào? Tại sao một số nhà
đầu tư đặt phần lớn danh mục đầu tư của mình vào các tài sản rủi ro, trong khi những người
khác lại đầu tư phần lớn vào các phương án không rủi ro?
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_kinh_te_hoc_vi_mo_bai_2_lua_chon_trong_dieu_kien.pdf