Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - Bài 3: Ước lượng và dự báo chi phí
Một hàm chi phí có thể được chọn là: VC = + Q
Mối quan hệ giữa chi phí và sản lượng dạng tuyến tính này dễ sử dụng, song nó chỉ có
thể áp dụng nếu chi phí cận biên không thay đổi. Trong các phân tích thống kê về chi
phí, có thể thêm các biến khác vào hàm chi phí để phản ánh những khác biệt về chi phí
đầu vào, các qui trình sản xuất, hỗn hợp sản phẩm giữa các hãng. Cứ mỗi đơn vị sản
lượng tăng thêm, chi phí biến đổi lại tăng thêm một lượng là . Do đó chi phí cận biên
không đổi và bằng (lưu ý rằng cũng là một thành phần của chi phí sản xuất biến
đổi nhưng nó thay đổi theo các yếu tố sản xuất chứ không phải theo sản lượng).
Nếu chúng ta muốn đưa vào các đường chi phí bình quân có dạng chữ U và cho phép chi
phí cận biên được thay đổi thì phải sử dụng hàm chi phí phức tạp hơn. Một trong những
dạng hàm chi phí phổ biến, được mô tả trên hình 3.3, là chi phí bậc hai, thể hiện mối quan
hệ giữa chi phí sản xuất biến đổi với sản lượng và sản lượng bình phương:
VC = + Q + Q 2
Hàm bậc hai tỏ ra hữu ích trong việc biểu diễn hàm chi phí cả trong ngắn hạn khi đường
chi phí bình quân có dạng chữ U và đường chi phí biên là đường thẳng.
Từ đây suy ra đường chi phí cận biên là đường thẳng có dạng: MC = + 2 Q
Thật vậy vì chi phí cận biên ngắn hạn được biểu diễn bằng hàm:
VC/ Q = + (Q 2 ) Q
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 268 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo trình Kinh tế học vĩ mô - Bài 3: Ước lượng và dự báo chi phí, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài 3: Ước lượng và dự báo chi phí
34 TX KHMI02_Bai 3_v1.0014107222
BÀI 3 ƯỚC LƯỢNG VÀ DỰ BÁO CHI PHÍ
Hướng dẫn học
Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau:
Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia
thảo luận trên diễn đàn.
Đọc tài liệu:
1. PGS.TS. Phạm Văn Minh (2011), Giáo trính Kinh tế học vi mô 2, NXB Lao động
xã hội.
2. PGS.TS. Vũ Kim Dũng – PGS.TS. Phạm Văn Minh (2011), Hướng dẫn thực
hành Kinh tế học vi mô 2, NXB Lao động xã hội.
3. PGS.TS. Vũ Kim Dũng – PGS.TS. Nguyễn Văn Công (2012), Giáo trình kinh tế
học tập 1, NXB Đại học Kinh tế quốc dân.
Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc qua email.
Tham khảo các thông tin từ trang Web môn học.
Nội dung
Các khái niệm tính kinh tế và tính phi kinh tế của quy mô đã được trình bày khi phân tích
hình dạng của đường chi phí bình quân dài hạn (LAC). Phần này chúng ta sẽ tập trung vào
các phương pháp ước lượng tính kinh tế của quy mô vì đây là vấn đề rất quan trọng đối
với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Mục tiêu
Giúp cho người học hiểu được bản chất đường chi phí dài hạn của doanh nghiệp và
ngành quan trọng như thế nào.
Có những công cụ nào thường được sử dụng để ước lượng hình dạng đường chi phí
dài hạn (ước lượng tính kinh tế của quy mô).
Bài 3: Ước lượng và dự báo chi phí
TX KHMI02_Bai 3_v1.0014107222 35
Tình huống dẫn nhập
Năm 1955, người tiêu dùng Mỹ mua 369 tỉ KWh điện, năm 1970 họ mua 1083 tỷ. Vì sao năm
1970, số công ty điện lực ít hơn, nên rõ ràng sản lượng điện trung bình của mỗi công ty đã tăng
lên đáng kể. Liệu sự gia tăng này là do tính kinh tế của quy mô hay do những nguyên nhân khác?
Nếu đó là kết quả của tính kinh tế của quy mô thì đối với chính phủ, việc “phá vỡ” thế độc quyền
của các công ty điện lực sẽ không hiệu quả về mặt kinh tế. Một nghiên cứu thú vị về tính kinh tế
của quy mô dựa trên số liệu những năm 1955 và 1970 về các nhà máy điện do chủ đầu tư sở hữu
có doanh thu hơn 1 triệu đô la. Chi phí sản xuất điện được ước tính bằng cách sử dụng một hàm
chi phí phức tạp hơn đôi chút so với các hàm bậc 2 và bậc 3.
Bảng sau đây trình bày những ước tính thu được về chỉ số kinh tế theo quy mô (SCI). Các kết
quả này dựa trên nguyên tắc phân loại tất cả các cơ sở điện lực thành 5 loại quy mô. Trên danh
sách là sản lượng trung vị (median) (đo bằng KWh) của mỗi loại.
Sản lượng (triệu KWh) 43 338 1.109 2.226 5.819
Giá trị của SCI, 1955 0,41 0,26 0,16 0,10 0,04
1. Hãy xác định nguyên nhân dẫn đến chỉ số SCI càng ngày càng giảm dần.
2. Các nhà kinh tế sử dụng phương pháp gì để tìm ra các điểm trên đường chi
phí trung bình dài hạn của ngành điện?
Bài 3: Ước lượng và dự báo chi phí
36 TX KHMI02_Bai 3_v1.0014107222
3.1. Nguồn gốc kinh tế của quy mô
Nguồn gốc đầu tiên là do mối quan hệ sản xuất kỹ thuật. Haldi và Whitcomb (1967)
chỉ ra rằng mối quan hệ sản xuất kỹ thuật dẫn đến mối quan hệ giữa TC và Q dưới
dạng: TC = a.Qb
Trong đó b là hệ số quy mô ước tính khoảng 0,60 nghĩa là 100% tăng trong sản lượng
có thể chỉ chịu 60% tăng trong chi phí (còn gọi là qui tắc 2/3).
Nguồn gốc thứ hai của tính kinh tế của quy mô là sự tồn tại của khả năng không chia
nhỏ được các đầu vào. Nếu một số thiết bị hoặc một số hoạt động có một quy mô tối
thiểu và không thể chia thành các đơn vị nhỏ hơn thì hoạt động ở mức thấp hơn công
suất sẽ gặp phải chi phí cao.
Nguồn gốc thứ ba của tính kinh tế của quy mô là chuyên môn hoá và phân công
lao động.
Nguồn gốc thứ tư là Ảnh hưởng rút kinh nghiệm (Learning Effect) nghĩa là chi phí
giảm khi hoạt động được lặp đi lặp lại nhiều lần theo thời gian, người lao động và
doanh nghiệp đã "học được" cách làm việc tốt hơn. Điều này có thể hiểu được thông
qua qui tắc sau: từ sản phẩm thứ x đến sản phẩm thứ 2x thì chi phí bình quân giảm từ
100% xuống 80% (hay nói cách khác chi phí để sản xuất sản phẩm thứ 2x chỉ còn
bằng 80% chi phí của sản phẩm thứ x).
3.2. Nguồn gốc tính phi kinh tế của quy mô
Các yếu tố kỹ thuật: Có thể sau một mức sản lượng nào đó sẽ không có tính kinh tế
của quy mô nữa, lúc đó đường chi phí bình quân dài hạn sẽ nằm ngang đạt qui mô tối
thiểu có hiệu quả MES.
Các yếu tố quản lý: Khi doanh nghiệp sản xuất mức sản lượng cao hơn nó sẽ trở thành
một tổ chức lớn hơn và sự “không kiểm soát nổi” chắc chắn sẽ xảy ra, vì vậy chi phí
bình quân sẽ tăng lên.
3.3. Ước lượng tính kinh tế của quy mô
Tính kinh tế của qui mô và tính phi kinh tế của qui mô có thể được đo bằng 2 chỉ
tiêu sau:
Co dãn của chi phí theo sản lượng EC được tính bằng % thay đổi chi phí chia
cho % thay đổi sản lượng:
EC = (%C)/(%Q) = (C/Q)/(Q/C) = Chi phí cận biên/Chi phí bình quân
Chỉ số kinh tế theo qui mô = 1 – Co dãn của chi phí theo sản lượng:
SCI = 1 – EC
Nếu EC 0 Tính kinh tế qui mô (Chi phí cận biên < Chi phí bình
quân tức là ứng với phần đi xuống của chi phí bình quân).
Nếu EC > 1 hay SCI Chi phí
bình quân tức là ứng với phần tăng lên của chi phí bình quân).
Nếu EC = 1 hay SCI = 0 Không có cả tính kinh tế của qui mô và tính phi kinh tế
của qui mô (Chi phí cận biên = Chi phí bình quân tức là ứng với điểm đáy của chi
phí bình quân).
Bài 3: Ước lượng và dự báo chi phí
TX KHMI02_Bai 3_v1.0014107222 37
Vì vậy ước lượng tính kinh tế của quy mô thực chất là xác định dạng của đường chi phí
bình quân dài hạn.
Bảng 3.1. Kết quả ước lượng co giãn của sản lượng theo các yếu tố sản xuất của
các ngành công nghiệp tại Mỹ.
Ngành công nghiệp
Co giãn của
sản lượng
theo vốn (a)
Co giãn của
sản lượng
theo lao động
sản xuất (b)
Co giãn của
sản lượng
theo lao
động phi sản
xuất (c)
Tính kinh
tế của quy
mô
(a + b + c)
Đồ gia dụng
Hóa chất
In ấn
Lương thực, đồ uống
Cao su và nhựa
Công cụ
Đồ gỗ
Trang sức
Da
Đá
Kim loại
Điện tử
Thiết bị vận tải
Máy móc
Dệt may
Giấy
Kim loại thô
Dầu mỏ
0.205
0.200
0.459
0.555
0.481
0.205
0.392
0.128
0.076
0.632
0.151
0.368
0.234
0.404
0.121
0.420
0.371
0.308
0.802
0.553
0.045
0.439
1.033
0.819
0.504
0.437
0.441
0.032
0.512
0.429
0.749
0.228
0.549
0.367
0.077
0.546
0.102
0.336
0.574
0.076
–0.458
0.020
0.145
0.477
0.523
0.366
0.364
0.229
0.041
0.389
0.334
0.197
0.509
0.093
1.110
1.089
1.078
1.070
1.056
1.044
1.041
1.041
1.040
1.030
1.027
1.026
1.024
1.021
1.004
0.984
0.957
0.947
Bảng trên cho biết có giãn của sản lượng theo vốn (a), lao động sản xuất (b) và lao
động phi sản xuất (c) trong 18 ngành công nghiệp ở Mỹ.
Giá trị của a = 0,205 đối với ngành đồ gia dụng có nghĩa là nếu tăng 1% vốn trong
ngành đồ gia dụng (các yếu tố khác không đổi) thì sản lượng đồ gia dụng sẽ tăng
0,205%. Giá trị của b = 0,802 có nghĩa là tăng 1% lao động sản xuất (các yếu tố khác
không đổi) sẽ làm tăng 0,802% sản lượng đồ gia dụng). Giá trị của c = 0,102 có nghĩa
là tăng 1% lao động phi sản xuất (các yếu tố khác không đổi) thì sản lượng đồ gia
dụng sẽ tăng 0,102%. Nếu tăng cả 3 yếu tổ đầu vào lên 1% thì sản lượng đồ gia dụng
sẽ tăng a + b + c = 0,205 + 0,802 + 0,102 = 1,110 phần trăm. Điều này có nghĩa là có
một chút tính kinh tế của quy mô đối với ngành đồ gia dụng.
Các giá trị a, b, c được tính ở bảng trên được ước lượng bằng phương pháp phân tích hồi
quy cho từng ngành công nghiệp trong năm 1957, sử dụng hàm Cobb – Douglas với 3 đầu
vào và ước lượng bằng hàm logarith. Tất cả các hệ số, ngoại trừ hệ số c trong ngành nhựa
và cao su, đều có giá trị dương. Tuy nhiên, chỉ có năm ngành đầu tiên trong bảng có tính
kinh tế của quy mô, với mức sản lượng đầu ra tăng nhanh hơn đầu vào từ 5% đến 11%.
Các ngành còn lại đều có hiệu suất gần như không đổi theo quy mô.
(Nguồn: J. Moroney, Hàm Cobb Douglas và tính kinh tế của quy mô trong các ngành
công nghiệp ở Mỹ, Thời báo kinh tế phương tây, tháng 12 năm 1967, trang 39–51)
Có ba phương pháp ước lượng tính kinh tế của qui mô chủ yếu sau: Ước lượng
Bài 3: Ước lượng và dự báo chi phí
38 TX KHMI02_Bai 3_v1.0014107222
thống kê; Phương pháp kỹ thuật hay công nghệ và Kỹ thuật điều tra các doanh
nghiệp sống sót:
Ước lượng thống kê sử dụng những quan sát về
chi phí để sản xuất ra một sản phẩm trong các
doanh nghiệp hoạt động ở các mức sản lượng khác
nhau và dùng các phương pháp thống kê để xác
định hàm hồi qui phù hợp với số liệu đã thu nhập
được về chi phí. Phương pháp này dễ thực hiện nhờ
hệ thống số liệu thống kê của doanh nghiệp. Tuy
nhiên nó có rất nhiều nhược điểm. Trước hết các số
liệu sẵn có về chi phí là số liệu kế toán phản ánh chi
phí kế toán chứ không phải chi phí cơ hội. Thứ hai, quy tắc phân bổ có thể ảnh
hưởng đến cách thức đo chi phí và việc sử dụng các thời kỳ hạch toán khác nhau
và các phương pháp tính khấu hao khác nhau cũng ảnh hưởng đến cách đo chi phí.
Phương pháp kỹ thuật
Bản chất của phương pháp này là các kỹ sư sản xuất thiết kế các tập hợp nhà máy,
máy móc thiết bị giả thiết cho các mức sản lượng khác nhau, ước lượng các chi phí
cho mỗi mức sản lượng với cùng một công nghệ và giá đầu vào. Ưu điểm của
phương pháp này là sự chính xác của số liệu kỹ thuật. Tuy nhiên nó cũng có rất
nhiều nhược điểm. Thứ nhất vẫn còn sự khác biệt giữa số liệu hạch toán với các
khái niệm kinh tế. Thứ hai, các ước lượng có thể là chính xác nhất về các mặt kỹ
thuật nhưng chưa phản ánh đầy đủ các chí phí sản xuất nhất là các chi phí phân
phối, điều hành và quản lý.
(a) (b) (c)
Hình 3.1. Các dạng khác nhau của đường chi phí bình quân dài hạn
Phương pháp điều tra các doanh nghiệp sống sót
Phương pháp thứ ba để ước lượng tính kinh tế của quy mô là phương pháp
điều tra các doanh nghiệp sống sót do Stigler (1958) đưa ra. Phương pháp này
giả định rằng các lực lượng thị trường hoạt động hiệu quả nên loại doanh
nghiệp nào có quy mô hiệu quả nhất sẽ có thị phần ngày càng tăng còn các
doanh nghiệp thuộc loại có quy mô không hiệu quả sẽ có thị phần ngày càng
giảm. Các doanh nghiệp trong ngành được chia ra thành các loại quy mô khác
nhau để quan sát tỷ trọng thị trường của mỗi loại rồi ước lượng dạng của
đường chi phí bình quân dài hạn. Phương pháp này có nhược điểm là nó đưa ra
quá nhiều giả định và vì vậy ít được sử dụng trong thực tế.
LAC
Q
C
A
LAC
Q
C
MES
Q
C
Bài 3: Ước lượng và dự báo chi phí
TX KHMI02_Bai 3_v1.0014107222 39
Tình huống: Các hàm chi phí của ngành điện lực ở Mỹ
Năm 1955, người tiêu dùng Mỹ mua 369 tỉ KWh điện, năm 1970 họ mua 1083 tỷ. Vì
sao năm 1970, số công ty điện lực ít hơn, nên rõ ràng sản lượng điện trung bình của
mỗi công ty đã tăng lên đáng kể. Liệu sự gia tăng này là do tính kinh tế của quy mô
hay do những nguyên nhân khác? Nếu đó là kết quả của tính kinh tế của quy mô thì
đối với chính phủ, việc “phá vỡ” thế độc quyền của các công ty điện lực sẽ không hiệu
quả về mặt kinh tế.
Một nghiên cứu thú vị về tính kinh tế của quy mô dựa trên số liệu những năm 1955 và
1970 về các nhà máy điện do chủ đầu tư sở hữu có doanh thu hơn 1 triệu đô la. Chi
phí sản xuất điện được ước tính bằng cách sử dụng một hàm chi phí phức tạp hơn đôi
chút so với các hàm bậc 2 và bậc 3. Bảng sau đây trình bày những ước tính thu được
về chỉ số kinh tế theo quy mô (SCI). Các kết quả này dựa trên nguyên tắc phân loại tất
cả các cơ sở điện lực thành 5 loại quy mô. Trên danh sách là sản lượng trung vị
(median) (đo bằng KWh) của mỗi loại.
Bảng 3.2. Tính kinh tế của quy mô trong ngành điện lực
Sản lượng (triệu KWh) 43 338 1.109 2.226 5.819
Giá trị của SCI, 1955 0,41 0,26 0,16 0,10 0,04
Những giá trị dương của SCI cho chúng ta biết rằng tất cả các quy mô của các công ty
vào năm 1955 ít nhiều đều có tính kinh tế của quy mô. Tuy nhiên, độ lớn của tính kinh
tế của quy mô giảm dần khi quy mô của công ty tăng lên. Đường chi phí trung bình
tương ứng với nghiên cứu của năm 1955 được vẽ ở hình dưới đây và được ký hiệu là
1955. Mức chi phí trung bình tối thiểu xảy ra tại điểm A, tại mức sản lượng xấp xỉ 20
tỉ KW. Vì năm 1955 không có công ty nào đạt tới quy mô này nên không có công ty
nào tận dụng hết tính kinh tế của quy mô trong sản xuất. Tuy nhiên, lưu ý rằng đường
chi phí trở nên tương đối thoải kể từ mức sản lượng 9 tỉ KW và cao hơn, một mức sản
lượng mà tại đó mà 7 trong số 124 công ty đang hoạt động.
Hình 3.2. Chi phí sản xuất trung bình trong ngành điện lực
6,5
6,0
5,5
5,0
6 12 18 24 30 36
1955
1970
A
Sản lượng (tỷ kWh)
Ch
i p
hí
tru
ng
bì
nh
($/
10
00
kW
h)
Bài 3: Ước lượng và dự báo chi phí
40 TX KHMI02_Bai 3_v1.0014107222
Chi phí trung bình của ngành điện lực năm 1955 đạt mức tối thiểu tại sản lượng xấp xỉ
20 triệu kWh. Đến năm 1970, chi phí trung bình của sản xuất giảm mạnh và đạt mức
tối thiểu tại sản lượng hơn 32 tỷ kWh.
Khi ước tính cũng những hàm chi phí đó với các số liệu của năm 1970, kết quả thu
được là đường chi phí ký hiệu 1970 ở hình 3.2. Đồ thị cho thấy rõ ràng rằng chi phí
sản xuất trung bình giảm trong giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1970. (Số liệu tính
bằng giá trị thực tế năm 1970). Nhưng lúc này đoạn thoải của đường chi phí bắt đầu từ
khoảng 15KWh tỷ. Đến năm 1970, đã có 24 trong số 80 công ty sản xuất trong
khoảng quy mô đó. Như vậy, có nhiều công ty hơn đang hoạt động trên đoạn thoải của
đường chi phí trung bình, trong đó tính kinh tế của quy mô không phải là điều quan
trọng. Quan trọng hơn, trên đường chi phí năm 1970, hầu hết các công ty đều sản xuất
trên đoạn thoải hơn so với điểm hoạt động của họ vào năm 1955. (Năm công ty hoạt
động tại điểm có tinh phi kinh tế theo quy mô: Conlidated Edison [SCI= – 0,003],
Detroit Edison [ SCI= – 0,004], Duke Power [SCI= – 0,012 ], Commonwealth Edison
[SCI= –0,014] và Southern [SCI= – 0,028]). Như vậy, vào năm 1970, tính kinh tế của
quy mô chưa được khai thác hết nhỏ hơn nhiều so với con số này vào năm 1955.
Phân tích hàm chi phí này cho thấy rõ một điều là không thể giải thích việc giảm chi
phí sản xuất điện bằng khả năng tận dụng tính kinh tế của quy mô của các công ty lớn.
Ngược lại, tiến bộ công nghệ không liên quan đến quy mô hoạt động của công ty và
nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc giảm chi phí trong ngành điện chính là do chi
phí thực của các đầu vào nhiên liệu như than và dầu mỏ giảm xuống. Xu hướng hạ
thấp chi phí trung bình do việc chuyển dịch dọc theo đướng chi phí trung bình sang
bên phải có tác động rất nhỏ so với tác động của tiến bộ công nghệ.
Nguồn: Ví dụ 7.6 (trang 260), Kinh tế học vi mô – Pindyck.
3.4. Ước lượng chi phí bằng thực nghiệm
Giả sử chúng ta muốn xác định những đặc điểm của chi phí sản xuất ngắn hạn trong
ngành công nghiệp ô tô. Chúng ta có thể thu được các số liệu về sản lượng ô tô Q mà
mỗi công ty ô tô sản xuất và liên hệ thông tin này với chi phí sản xuất biến đổi VC.
Việc sử dụng chi phí biến đổi chứ không phải tổng chi phí không làm mất tính tổng
quát và giúp tránh được vấn đề phải cố gắng chia chi phí cố định của một công ty sản
xuất đa sản phẩm cho từng sản phẩm riêng biệt đang xét. Nếu khi sản lượng tăng lên
có cần thêm một thiết bị bổ sung nào đó, thì chi phí hàng năm để thuê thiết bị đó cần
được tính như là chi phí sản xuất biến đổi. Tuy nhiên, nếu thiết bị đó có thể sử dụng
tại tất cả các mức sản lượng thì chi phí cho nó là cố định và không được tính làm chi
phí sản xuất biến đổi.
Có thể đạt được một ước lượng thực nghiệm về đường tổng chi phí bằng cách sử dụng
số liệu về các hãng đơn lẻ trong một ngành. Đường tổng chi phí của sản xuất ô tô thu
được bằng cách sử dụng phương pháp thống kê (thường là phân tích hồi qui: phương
pháp bình phương nhỏ nhất) để xác định một đường phù hợp nhất với những điểm cho
biết mối liên hệ giữa sản lượng của mỗi hãng với tổng chi phí sản xuất.
Một doanh nghiệp đang mở rộng hoặc thu hẹp hoạt động cần phải dự báo xem chí phí
sẽ thay đổi như thế nào khi sản lượng thay đổi. Có thể ước tính được chi phí tương lai
từ các hàm chi phí, là phương trình biểu diễn mối quan hệ giữa chi phí sản xuất với
mức sản lượng và các biến khác mà hãng có thể kiểm soát.
Bài 3: Ước lượng và dự báo chi phí
TX KHMI02_Bai 3_v1.0014107222 41
Hình 3.3. Đường tổng chi phí của ngành công nghiệp ô tô
(Nguồn: Kinh tế học Vi mô, R. Pindyck và D. L. Rubinfeld, năm 1999, NXB Thống
Kê, trang 257 – 258).
Một hàm chi phí có thể được chọn là: VC = + Q
Mối quan hệ giữa chi phí và sản lượng dạng tuyến tính này dễ sử dụng, song nó chỉ có
thể áp dụng nếu chi phí cận biên không thay đổi. Trong các phân tích thống kê về chi
phí, có thể thêm các biến khác vào hàm chi phí để phản ánh những khác biệt về chi phí
đầu vào, các qui trình sản xuất, hỗn hợp sản phẩm giữa các hãng. Cứ mỗi đơn vị sản
lượng tăng thêm, chi phí biến đổi lại tăng thêm một lượng là . Do đó chi phí cận biên
không đổi và bằng (lưu ý rằng cũng là một thành phần của chi phí sản xuất biến
đổi nhưng nó thay đổi theo các yếu tố sản xuất chứ không phải theo sản lượng).
Nếu chúng ta muốn đưa vào các đường chi phí bình quân có dạng chữ U và cho phép chi
phí cận biên được thay đổi thì phải sử dụng hàm chi phí phức tạp hơn. Một trong những
dạng hàm chi phí phổ biến, được mô tả trên hình 3.3, là chi phí bậc hai, thể hiện mối quan
hệ giữa chi phí sản xuất biến đổi với sản lượng và sản lượng bình phương:
VC = + Q + 2Q
Hàm bậc hai tỏ ra hữu ích trong việc biểu diễn hàm chi phí cả trong ngắn hạn khi đường
chi phí bình quân có dạng chữ U và đường chi phí biên là đường thẳng.
Từ đây suy ra đường chi phí cận biên là đường thẳng có dạng: MC = + 2 Q
Thật vậy vì chi phí cận biên ngắn hạn được biểu diễn bằng hàm:
VC/Q = + ( 2Q )Q
Nhưng ( 2Q )/Q = 2Q (Hãy tính toán hoặc dùng ví dụ bằng số để kiểm tra lại điều
này). Vì vậy, dễ dàng ta có MC = + 2 Q. Chi phí cận biên tăng cùng với sản lượng
nếu là số dương, và giảm cùng với sản lượng nếu là số âm. Chi phí bình quân,
được biểu diễn bằng hàm AC = /Q + + Q, có dạng chữ U khi dương.
Volvo *
* Chrysler
* Ford
Honda *
Nissan *
General Motors *
O
Số lượng xe hơi
Bài 3: Ước lượng và dự báo chi phí
42 TX KHMI02_Bai 3_v1.0014107222
Hình 3.4. Hàm chi phí bậc hai
Nếu đường chi phí cận biên không phải là đường thẳng thì có thể sử dụng hàm chi phí
bậc ba: VC = + Q + 2Q + 3Q
Hình 3.5. Hàm chi phí bậc ba
Hình 3.5 biểu diễn hàm chi phí bậc ba này. Nó chỉ ra rằng cả đường chi phí bình quân
lẫn đường chi phí cận biên có dạng chữ U. Nói chung trên thực tế, ước lượng các hàm
chi phí là một công việc rất khó khăn. Một là, các số liệu về sản lượng của doanh
nghiệp thường được tổng hợp từ nhiều loại sản phẩm khác nhau. Hai là, các số liệu về
chi phí được thu thập trực tiếp từ thông tin kế toán, không phản ánh được các chi phí
cơ hội. Ngoài ra việc ước lượng còn gặp những trở ngại khác như: sự khác biệt về chi
phí đầu vào; phân bổ chi phí cho từng sản phẩm cụ thể trong hỗn hợp đa sản phẩm
giữa các doanh nghiệp
AC=
Q
+ + Q
Chi
phí
($/đơn
vị
sản
phẩm)
Sản lượng (theo đơn vị thời gian)
MC = + 2 Q
Chi
phí
($/đơn
vị
sản
phẩm)
Sản lượng (theo đơn vị thời gian)
MC = + 2 Q+3 2Q
AVC=
Q
+ + Q+ 2Q
Bài 3: Ước lượng và dự báo chi phí
TX KHMI02_Bai 3_v1.0014107222 43
Tóm lược cuối bài
Hiệu suất không đổi theo qui mô có nghĩa là tăng lần các đầu vào sẽ làm tăng lần sản
lượng. Hiệu suất tăng theo qui mô xảy ra khi sản lượng tăng hơn gấp lần khi các đầu vào
tăng lần, còn hiệu suất giảm theo qui mô xảy ra khi sản lượng tăng lên chưa đến lần khi
các đầu vào tăng lần.
Nguồn gốc tính kinh tế của quy mô đầu tiên là phát sinh từ mối quan hệ sản xuất kỹ thuật.
Nguồn gốc thứ hai của tính kinh tế của quy mô là sự tồn tại của khả năng không chia được
của các đầu vào. Nguồn gốc thứ ba của tính kinh tế của quy mô là chuyên môn hoá và phân
công lao động. Thứ tư, ảnh hưởng rút kinh nghiệm (Learning Effect).
Ước lượng tính kinh tế của quy mô thực chất là xác định dạng của đường chi phí bình quân
dài hạn bằng các phương pháp như: Ước lượng thống kê, Phương pháp kỹ thuật hay công
nghệ và Kỹ thuật điều tra các doanh nghiệp sống sót.
Bài 3: Ước lượng và dự báo chi phí
44 TX KHMI02_Bai 3_v1.0014107222
Câu hỏi ôn tập
1. Hàm sản xuất là gì? Phân tích việc ứng dụng hàm sản xuất Coob-Douglas trong các trường
hợp khác nhau: hiệu suất tăng, giảm và không đổi theo qui mô.
2. Phân tích nội dung và quan hệ giữa năng suất bình quân và năng suất cận biên của một đầu
vào biến đổi.
3. Phân tích nội dung qui luật năng suất cận biên giảm dần.
4. Trình bày các chi phí sản xuất trong ngắn hạn, mối quan hệ và xu hướng vận động của các
chi phí đó.
5. Phân biệt chi phí tài nguyên hay chi phí hiện vật, chi phí tính toán và chi phí kinh tế. Cho ví
dụ minh hoạ.
6. So sánh đường đồng chi phí và đường đồng sản lượng với các đường ngân sách và đường
bàng quan trong lý thuyết tiêu dùng.
7. Phân tích nội dung và ý nghĩa của việc tối thiểu hóa chi phí
8. Bản chất và ý nghĩa của các loại chi phí ngắn hạn và dài hạn. Các phương pháp biểu diễn
hàm chi phí.
9. Phân tích khái niệm, nguồn gốc, ý nghĩa kinh tế và các nhân tố tác động đến lợi nhuận của
hãng, phân biệt lợi nhuận kinh tế và lợi nhuận tính toán. Cho ví dụ minh hoạ.
10. Phân tích nội dung nguyên tắc tối đa hoá lợi nhuận của hãng.
11. Sự thay đổi giá của một trong các đầu vào của hãng làm cho đường mở rộng hay đường phát
triển của hãng đó thay đổi như thế nào?
12. Nguồn gốc tính kinh tế và tính phi kinh tế của qui mô; các phương pháp ước lượng tính kinh
tế của qui mô.
13. Hãy sử dụng hàm sản xuất Cobb – Douglas với 2 đầu vào: Q= a.K.L trong đó a > 0, 0 < ,
< 1 để minh hoạ qui luật năng suất cận biên (hiệu suất) giảm dần.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_kinh_te_hoc_vi_mo_bai_3_uoc_luong_va_du_bao_chi_p.pdf