Tóm lược cuối bài
Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm những người trưởng thành sẵn sàng và có khả năng làm việc,
nhưng không có việc làm.
Thất nghiệp thường được chia thành hai nhóm: thất nghiệp tự nhiên và thất nghiệp chu kỳ.
Thất nghiệp tự nhiên biểu thị mức thất nghiệp bình thường mà nền kinh tế phải chịu, còn thất
nghiệp chu kỳ biểu thị những dao động ngắn hạn của thất nghiệp xung quanh mức tự nhiên.
Một nguyên nhân của thất nghiệp là thời gian cần thiết để công nhân tìm được việc làm thích
hợp với sở thích và kỹ năng của họ. Trợ cấp thất nghiệp là chính sách của Chính phủ có tác
dụng ổn định thu nhập cho công nhân, lại làm tăng thất nghiệp tạm thời.
Nguyên nhân thứ hai gây ra thất nghiệp là do có sự không ăn khớp giữa cung và cầu lao động
trên các thị trường lao động cụ thể. Các chương trình đào tạo lại của Chính phủ sẽ giúp công
nhân dễ dàng chuyển đổi từ các ngành bị suy giảm sang các ngành đang mở rộng.
Nguyên nhân thứ ba lý giải vì sao nền kinh tế của chúng ta luôn có một số thất nghiệp là do
lương bị đẩy lên quá cao dưới tác động của luật tiền lương tối thiểu, sức mạnh của công đoàn,
và lý thuyết tiền lương hiệu quả nêu ra.
Thất nghiệp có cả tác động tiêu cực lẫn tích cực đến nền kinh tế. Đối với cá nhân, thất nghiệp
gây ra sự mất mát thu nhập và tổn thương về mặt tâm lý. Đối với xã hội, thất nghiệp chu kỳ
làm cho sản lượng giảm xuống dưới mức tự nhiên, nguồn thu ngân sách giảm. Lợi ích cơ
bản của thất nghiệp là tạo điều kiện để xếp đúng người vào đúng việc và làm tăng năng suất
lao động.
Cung cấp thông tin về việc làm đầy đủ hơn, hạ thấp mức trợ cấp thất nghiệp và khoảng thời
gian trợ cấp, hỗ trợ đào tạo nghề, giảm bớt sức mạnh công đoàn là một số chính sách có thể
giúp hạ bớt tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế.
16 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 304 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Giáo trình Kinh tế học vi mô - Bài 5: Thất nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài 5: Thất nghiệp
NEU_ECO102_Bai5_v1.0013101216 59
BÀI 5 THẤT NGHIỆP
Hướng dẫn học
Để học tốt bài này, học viên cần tham khảo các phương pháp học sau:
Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia
thảo luận trên diễn đàn.
Đọc tài liệu:
1. Giáo trình Kinh tế học - Tập II – NXB Kinh tế Quốc dân, 2012
Chủ biên. PGS.TS. Vũ Kim Dung và PGS.TS. Nguyễn Văn Công.
2. Bộ môn Kinh tế vĩ mô (Đại học Kinh tế Quốc dân), Giáo trình Nguyên lý kinh tế
học vĩ mô, Nhà Xuất Bản Lao động, 2012.
3. Bộ môn Kinh tế vĩ mô (Đại học Kinh tế Quốc dân), Bài tập Nguyên lý kinh tế vĩ
mô, Nhà Xuất Bản Lao động, 2012.
Học viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc qua email.
Trang Web môn học.
Nội dung
Khái niệm người thất nghiệp.
Cách đo lường tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế.
Phân loại nguyên nhân thất nghiệp.
Chi phí mà thất nghiệp gây ra cho nền kinh tế.
Tác động của các chính sách để giúp giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp.
Mục tiêu
Để học tốt bài này, các bạn trước tiên cần nắm rõ khái niệm như người thất nghiệp là
gì, tỷ lệ thất nghiệp tính như thế nào.
Sau đó, bạn cần hiểu rõ các nguyên nhân dẫn tới tình trạng thất nghiệp dựa theo cách
thức phân loại mà tài liệu giảng dạy đã nêu ra.
Và cuối cùng, dựa trên những nguyên nhân dẫn tới thất nghiệp, bạn cần rút ra được
chính phủ có thể làm gì để giúp giảm bớt những dạng thất nghiệp kể trên.
Bài 5: Thất nghiệp
60 NEU_ECO102_Bai5_v1.0013101216
Tình huống dẫn nhập
Gần 1 triệu người thất nghiệp ở Việt Nam bởi nền kinh tế không tạo đủ việc làm cho cả lao động
mới gia nhập thị trường và bộ phận lao động thất nghiệp cũ- Điều tra Lao động Việc làm 2012
cho thấy.
Tại sao tôi không thể tìm được việc làm? Chính phủ cần làm gì để hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp?
1. Để giải quyết các câu hỏi trên, cần làm rõ: Khái niệm thất nghiệp, các chỉ
tiêu phản ánh trạng thái thị trường lao động, các dạng thất nghiệp và
nguyên nhân của nó, các chính sách của chính phủ đối với thị trường
lao động.
2. Tất cả những vấn đề này được nghiên cứu trong bài học này.
Bài 5: Thất nghiệp
NEU_ECO102_Bai5_v1.0013101216 61
5.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐO LƯỜNG THẤT NGHIỆP
Ở Việt Nam, số liệu về thất nghiệp được thu thập từ Điều tra Lao động và Việc làm do
Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội thực hiện (trước năm 2007) và Tổng cục Thống
kê thực hiện (từ năm 2007 đến nay). Đây là cuộc điều tra chọn mẫu được thực hiện
theo phương thức phỏng vấn trực tiếp. Dựa vào trả lời cho các câu hỏi điều tra, mỗi
người trưởng thành (từ đủ 15 tuổi trở lên) trong các hộ gia đình điều tra được xếp vào
một trong hai nhóm, đó là nhóm dân số thuộc lực lượng lao động (hay còn gọi là dân
số hoạt động kinh tế, gồm có người có việc làm và người thất nghiệp) và nhóm dân số
ngoài lực lượng lao động (hay còn gọi là nhóm dân số không hoạt động kinh tế).
Người có việc làm: Theo Tổng cục Thống kê, người có việc làm là những người
trong 7 ngày trước khi tiến hành điều tra đã làm việc ít nhất 1 giờ để tạo thu nhập
hoặc làm cho gia đình mà không đòi hỏi tiền công. Gồm có: người làm công ăn
lương, người làm kinh doanh hoặc lao động trong ruộng vườn, trang trại của họ.
Những người lao động tình nguyện, làm giúp (thanh niên tình nguyện, làm giúp
người khác), làm từ thiện, nhân đạo thì không được tính là người có việc làm.
Người thất nghiệp: Theo Tổng cục Thống kê, người thất nghiệp bao gồm những
người từ 15 tuổi trở lên mà trong tuần điều tra không làm việc nhưng sẵn sàng làm
việc và đang tìm việc làm. Tính trong tuần tham chiếu (7 ngày trước ngày phỏng
vấn/điều tra), nhóm người thất nghiệp bao gồm cả những người hiện không làm
việc nhưng đang chuẩn bị khai trương các hoạt động kinh doanh của mình hoặc
nhận một công việc mới sau thời kỳ tham chiếu; hoặc những người luôn sẵn sàng
làm việc nhưng đã không tìm kiếm việc làm do ốm đau tạm thời, bận việc riêng (lo
hiếu, hỷ), do thời tiết xấu, đang chờ thời vụ
Người không thuộc lực lượng lao động: Gồm những người không thuộc hai nhóm
trên. Chẳng hạn sinh viên đang theo học hệ tập trung dài hạn, người nội trợ, người
đã nghỉ hưu hoặc không có khả năng lao động
Trên cơ sở phân nhóm như trên, một chỉ tiêu thống kê quan trọng đối với thị trường
lao động được tính toán.
Lực lượng lao động (LLLĐ): Gồm những người sẵn sàng và có khả năng lao động.
Lực lượng lao động gồm có những người đang có việc làm và những người thất nghiệp.
Lực lượng lao động = Số người có việc làm + Số người thất nghiệp
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động: Tỷ lệ phần trăm của lực lượng lao động so với
quy mô dân số trưởng thành:
Lực lượng lao động Tỷ lệ tham gia lực
lượng lao động = Dân số trưởng thành 100 (%)
Chỉ tiêu thống kê này cho chúng ta biết phần dân số hoạt động kinh tế trong dân số
trưởng thành.
Tỷ lệ thất nghiệp: Tỷ lệ phần trăm của lực lượng lao động bị thất nghiệp:
Số người thất nghiệp Tỷ lệ thất nghiệp =
Số người trong lực lượng lao động 100 (%)
Bài 5: Thất nghiệp
62 NEU_ECO102_Bai5_v1.0013101216
5.2. PHÂN LOẠI THẤT NGHIỆP
Kinh tế vĩ mô thường chia thất nghiệp thành hai nhóm: thất nghiệp dài hạn và những
biến động của thất nghiệp trong ngắn hạn.
Khái niệm thất nghiệp tự nhiên được dùng để chỉ mức thất nghiệp tồn tại ngay cả
trong dài hạn.
Thất nghiệp chu kỳ biểu thị sự khác biệt giữa thất nghiệp thực tế so với mức thất
nghiệp tự nhiên do những biến động của nền kinh tế trong ngắn hạn.
5.2.1. Thất nghiệp tự nhiên
Thất nghiệp tự nhiên được dùng để chỉ mức thất nghiệp mà bình thường nền kinh tế
trải qua. Thuật ngữ tự nhiên không hàm ý rằng tỷ lệ thất nghiệp này là đáng mong
muốn, không thay đổi theo thời gian hoặc không bị ảnh hưởng bởi chính sách kinh tế.
Nó đơn giản là mức thất nghiệp được duy trì ngay cả trong dài hạn. Các dạng thất
nghiệp được tính vào thất nghiệp tự nhiên gồm có thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp cơ
cấu và thất nghiệp theo lý thuyết Cổ điển.
5.2.1.1. Thất nghiệp tạm thời
Trong hầu hết các thị trường, giá cả điều chỉnh để cân bằng cung cầu. Trong thị
trường lao động lý tưởng, tiền lương sẽ điều chỉnh để triệt tiêu tình trạng thất nghiệp.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy là ngay cả khi nền kinh tế vận hành tốt thì thất nghiệp vẫn
tồn tại.
Thất nghiệp tạm thời bắt nguồn từ sự dịch chuyển bình thường của thị trường lao
động. Một nền kinh tế vận hành tốt là nền kinh tế có sự ăn khớp giữa lao động và việc
làm. Trong một nền kinh tế phức tạp, chúng ta không thể hy vọng những sự ăn khớp
như vậy xuất hiện tức thì vì trên thực tế người lao động có những sở thích và năng lực
khác nhau, trong khi việc làm cũng có những thuộc tính khác nhau. Hơn nữa, các
luồng thông tin về người muốn tìm việc và chỗ làm việc còn trống không phải lúc nào
cũng trùng pha, ăn khớp cũng như sự cơ động về mặt địa lý của người lao động cũng
không thể diễn ra ngay lập tức. Như vậy, chúng ta cần
phải dự tính và phải coi một mức thất nhiệp nhất định
là cần thiết và đáng mong muốn trong các xã hội hiện
đại. Người lao động thường không nhận ngay công
việc đầu tiên được yêu cầu và doanh nghiệp không
thuê người lao động đầu tiên nộp đơn xin việc. Trái lại,
họ cần bỏ ra thời gian và sức lực cần thiết để tạo ra sự
ăn khớp tốt nhất giữa người lao động và doanh nghiệp.
Ví dụ, sau khi tốt nghiệp đại học, bạn cần phải có khoảng thời gian cần thiết để đi tìm
việc làm. Trong thời gian đó bạn được tính là thất nghiệp. Loại thất nghiệp này được
gọi là thất nghiệp tạm thời.
Một nguồn quan trọng của thất nghiệp tạm thời là thanh niên mới gia nhập lực lượng
lao động. Nguồn khác là những người đang trong quá trình chuyển việc. Một số có thể
bỏ việc do không thoả mãn với công việc hiện tại hay điều kiện làm việc hiện tại;
trong khi một số khác có thể bị sa thải. Bất kể lý do là gì thì họ vẫn cần phải tìm một
Bài 5: Thất nghiệp
NEU_ECO102_Bai5_v1.0013101216 63
công việc mới, nhưng điều này cần có thời gian và cần phải chấp nhận thất nghiệp
trong một thời gian nhất định.
5.2.1.2. Thất nghiệp cơ cấu
Thất nghiệp cơ cấu phát sinh từ sự không ăn khớp giữa cung và cầu trên các thị trường
lao động cụ thể. Mặc dù số người đang tìm việc làm đúng bằng số việc làm còn trống,
nhưng người tìm việc và việc tìm người lại không khớp nhau về kỹ năng, ngành nghề
hoặc địa điểm. Ví dụ, một công nhân bậc 7 có thể làm việc hơn 25 năm trong ngành
dệt nhưng có thể trở thành người thất nghiệp ở tuổi 50 khi ngành dệt đang bị thu hẹp
do đối mặt với sự cạnh tranh từ phía nước ngoài. Người công nhân này có thể phải đào
tạo thêm một kỹ năng mới mà nền kinh tế lúc đó đang có nhu cầu. Tuy nhiên, các
doanh nghiệp có thể không muốn tuyển và đào tạo những công nhân lớn tuổi nên
người công nhân này sẽ trở thành nạn nhân của tình trạng thất nghiệp cơ cấu.
Sự thay đổi đi kèm với tăng trưởng kinh tế làm thay
đổi cơ cấu của cầu lao động. Cầu lao động tăng lên ở
các khu vực đang mở rộng và có triển vọng, trong khi
lại giảm ở các khu vực đang bị thu hẹp hoặc ít triển
vọng hơn. Cầu lao động tăng đối với những người lao
động có những kỹ năng nhất định (như lập trình viên
hay kỹ sư điện tử) và cầu lao động giảm đối với các
ngành, nghề khác (như công nhân cơ khí). Sự thay
đổi theo hướng mở rộng khu vực dịch vụ và tái cơ cấu trong tất cả các ngành trước sự
đổi mới về công nghệ có lợi cho những công nhân có trình độ học vấn cao hơn. Để
thích ứng những thay đổi đó, cấu trúc của lực lượng lao động cần thay đổi. Một số
công nhân đang có việc làm cần được đào tạo lại và một số người mới gia nhập lực
lượng lao động cần nắm bắt được các kỹ năng lao động phù hợp với yêu cầu mới của
thị trường. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi thường tương đối khó khăn, đặc biệt đối
với công nhân có tay nghề cao mà kỹ năng của họ đã trở nên lạc hậu so với yêu cầu
mới về phát triển kinh tế. Thất nghiệp cơ cấu xuất hiện khi những điều chỉnh như vậy
diễn ra chậm chạp và thất nghiệp tăng lên ở các khu vực, các ngành nghề mà cầu về
các yếu tố sản xuất giảm nhanh hơn nguồn cung ứng.
5.2.1.3. Thất nghiệp theo lý thuyết Cổ điển
Một nguyên nhân khác góp phần giải thích tại sao chúng ta quan sát thấy có một số
thất nghiệp ngay cả trong dài hạn là sự cứng nhắc của tiền lương thực tế. Mô hình Cổ
điển giả định rằng tiền lương thực tế điều chỉnh để cân bằng thị trường lao động, đảm
bảo trạng thái đầy đủ việc làm. Điều này phù hợp với cách tiếp cận cân bằng thị
trường, đó là giá cả sẽ điều chỉnh để đảm bảo cân bằng giữa cung và cầu. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy là thất nghiệp luôn tồn tại.
Các nhà kinh tế Cổ điển cho rằng các lực lượng khác nhau trên thị trường lao động,
gồm có luật pháp, thể chế và truyền thống, có thể ngăn cản tiền lương thực tế điều
chỉnh đủ mức để duy trì trạng thái đầy đủ việc làm. Nếu tiền lương thực tế không thể
giảm xuống mức đầy đủ việc làm thì thất nghiệp sẽ xuất hiện. Loại thất nghiệp này
thường được gọi là thất nghiệp theo lý thuyết Cổ điển. Ba nguyên nhân chủ yếu có thể
Bài 5: Thất nghiệp
64 NEU_ECO102_Bai5_v1.0013101216
làm cho tiền lương thực tế cao hơn mức cân bằng thị trường trong các nền kinh tế hiện
đại, đó là: luật tiền lương tối thiểu; hoạt động công đoàn; và tiền lương hiệu quả. Cả
ba lý thuyết này đều giải thích lý do tiền lương thực tế có thể duy trì ở mức “quá cao”
khiến một số người lao động có thể bị thất nghiệp.
Luật tiền lương tối thiểu:
Các đạo luật về tiền lương tối thiểu quy định mức lương thấp nhất mà người thuê lao
động phải trả cho người lao động. Giả sử rằng do luật tiền lương tối thiểu quy định
khiến tiền lương buộc phải duy trì ở mức cao hơn tiền lương cân bằng thì lượng cung
lao động tăng lên LS và lượng cầu lao động giảm xuống LD. Mức dư cung về lao động
(LS - LD) chính là số người thất nghiệp tăng thêm. Như vậy, tiền lương tối thiểu làm
tăng thu nhập của những người lao động có việc làm, nhưng lại làm giảm thu nhập của
một số người lao động không tìm được việc làm do quy định này.
Để hiểu biết đầy đủ về tác động của tiền lương tối thiểu đến thị trường lao động thì
vấn đề quan trọng cần ghi nhớ là nền kinh tế không chỉ bao gồm một thị trường lao
động đơn lẻ mà gồm nhiều thị trường lao động cho các loại lao động khác nhau. Ảnh
hưởng của tiền lương tối thiểu phụ thuộc vào kỹ năng và kinh nghiệm của người lao
động, nhưng nhìn chung thì những lao động có kỹ năng và kinh nghiệm ít bị ảnh
hưởng bởi quy định này vì mức lương cân bằng của họ cao hơn nhiều mức tiền lương
tối thiểu. Đối với những lao động có kỹ năng và kinh nghiệm, mức tiền lương tối thiểu
không mang tính ràng buộc.
Tiền lương tối thiểu có tác động mạnh nhất tới thị trường lao động thanh niên. Tiền
lương tối thiểu cho đối tượng lao động này có xu hướng thấp vì họ nằm trong số
những người lao động ít kỹ năng và kinh nghiệm nhất trong lực lượng lao động. Kết
quả là, tiền lương tối thiểu thường có tính ràng buộc nhiều hơn đối với lao động thanh
niên so với các đối tượng khác của lực lượng lao động.
Công đoàn và thương lượng tập thể:
Ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ, công đoàn là một hiệp hội của những người lao động
nhằm thương lượng tập thể với người thuê lao động (hay người sử dụng lao động)
WE
Số lao độngL0
Cầu lao động
Tiền lương
Dư cung lao động =
Thất nghiệp
Tiền lương tối
thiểu
LD LS
Cung lao động
Bài 5: Thất nghiệp
NEU_ECO102_Bai5_v1.0013101216 65
về tiền lương và các điều kiện làm việc. Công đoàn là một dạng các-ten vì nó được tạo
ra bởi một nhóm người và thành một lực lượng có sức mạnh thị trường. Nếu công đoàn
và doanh nghiệp thất bại trong việc đi tới đồng thuận, công đoàn có thể đình công - đó
là việc rút dịch vụ lao động khỏi doanh nghiệp. Ở phương Tây, mối đe doạ đình công
đến hoạt động sản xuất nên người lao động là đoàn viên công đoàn thường nhận được
tiền lương cao hơn so với những lao động không tham gia công đoàn khoảng 10% đến
20%.
Do yêu cầu của công đoàn, tiền lương có thể tăng lên trên mức lương cân bằng. Điều
này khiến lượng cung lao động tăng và lượng cầu lao động giảm và gây ra thất nghiệp.
Cũng giống như Luật tiền lương tối thiểu, những ai có việc làm được lợi, nhưng
những ai thất nghiệp bị tổn thất. Các nhà kinh tế đôi khi mô tả tình huống này như là
một sự xung đột giữa những người trong cuộc và người ngoài cuộc. Các công nhân
tham gia công đoàn là những người trong cuộc; còn những người thất nghiệp là những
người ngoài cuộc. Nếu những người trong cuộc đủ mạnh thì những người ngoài cuộc
có thể vẫn không được doanh nghiệp thuê ngay cả với tiền lương thấp hơn.
Câu hỏi đặt ra là công đoàn có lợi hay gây tổn hại cho nền kinh tế? Nhìn chung, các
nhà kinh tế không nhất trí về vai trò của công đoàn đối với nền kinh tế. Chúng ta hãy
xem xét cả hai phương diện của cuộc tranh luận.
Những người phê phán công đoàn lập luận rằng công đoàn chỉ là một dạng các-ten. Khi
công đoàn làm tăng tiền lương lên cao hơn mức cân bằng trên thị trường cạnh tranh nên
nó làm giảm lượng cầu về lao động khiến một số người lao động bị thất nghiệp và làm
giảm tiền lương ở bộ phận còn lại của nền kinh tế. Theo lập luận của những người phê
phán, sự phân bổ lao động nảy sinh từ đó vừa không hiệu quả, vừa không công bằng.
Nó không hiệu quả bởi tiền lương của các đoàn viên công đoàn cao làm giảm việc làm ở
các doanh nghiệp có công đoàn xuống thấp hơn ở mức cạnh tranh hiệu quả. Nó không
công bằng bởi một số công nhân được lợi, còn những người khác lại bị tổn thất.
Những người bênh vực công đoàn khẳng định rằng công đoàn là đối trọng cần thiết để
chống lại sức mạnh thị trường của doanh nghiệp thuê công nhân. Trường hợp cực
đoan của sức mạnh thị trường là “thành phố công ty” – đó là nơi một công ty duy nhất
thuê hầu hết lao động trong một vùng lãnh thổ. Trong “thành phố công ty”, nếu công
nhân không chấp nhận tiền lương và các điều kiện lao động do doanh nghiệp đưa ra,
họ chỉ còn cách chuyển đi nơi khác hoặc không làm việc. Do đó, nếu không có công
đoàn, doanh nghiệp có thể sẽ sử dụng sức mạnh thị trường để trả lương thấp hơn và
cung cấp điều kiện lao động tồi hơn so với trường hợp có công đoàn. Như vậy, trong
trường hợp này công đoàn có thể cần thiết để đối trọng với sức mạnh thị trường của
doanh nghiệp nhằm bảo vệ công nhân trước sự đối xử bất công của chủ doanh nghiệp.
Ngoài ra, những người ủng hộ công đoàn còn lập luận rằng tổ chức công đoàn sẽ
mang lại hiệu quả bởi vì các doanh nghiệp không cần phải thương lượng với từng
công nhân về tiền lương và các khoản phúc lợi khác. Nghĩa là, công đoàn góp phần
cắt giảm chi phí giao dịch.
Như vậy, không có sự nhất trí giữa các nhà kinh tế về việc công đoàn là có lợi hay gây
tổn hại cho nền kinh tế. Giống như nhiều thể chế khác, ảnh hưởng của công đoàn có lẽ
có lợi trong một số tình huống và bất lợi trong các tình huống khác.
Bài 5: Thất nghiệp
66 NEU_ECO102_Bai5_v1.0013101216
Lý thuyết tiền lương hiệu quả:
Nguyên nhân tiếp theo lý giải vì sao nền kinh tế luôn có thất nghiệp do lý thuyết tiền
lương hiệu quả đưa ra. Theo lý thuyết này, doanh nghiệp sẽ hoạt động có hiệu quả hơn
nếu trả tiền lương cao hơn mức cân bằng thị trường vì doanh nghiệp có thể có lợi nếu
giữ tiền lương ở mức cao ngay cả khi có tình trạng dư cung về lao động.
Trên một số phương diện, thất nghiệp nảy sinh từ tiền
lương hiệu quả tương tự như thất nghiệp nảy sinh từ
luật tiền lương tối thiểu và công đoàn. Trong cả ba
trường hợp, thất nghiệp là kết quả của việc tiền lương
cao hơn mức cho phép cân bằng thị trường lao động.
Tuy nhiên, các lý thuyết này cũng có những khác biệt
quan trọng. Luật tiền lương tối thiểu và công đoàn
ngăn cản các doanh nghiệp hạ thấp tiền lương khi có
tình trạng dư cung về lao động. Lý thuyết tiền lương hiệu quả lại cho rằng các biện
pháp đó có thể không cần thiết vì doanh nghiệp có thể tự nguyện trả tiền lương cao
hơn mức cân bằng.
Vì sao doanh nghiệp lại sẵn sàng trả tiền lương hơn mức cân bằng. Trên một phương
diện nào đó, quyết định này dường như không hợp lý vì tiền lương là một bộ phận lớn
trong chi phí của đa số các doanh nghiệp. Thông thường, chúng ta dự kiến rằng doanh
nghiệp có động cơ tối đa hóa lợi nhuận sẽ muốn giữ cho chi phí và do đó tiền lương
càng thấp càng tốt. Triết lý của lý thuyết tiền lương hiệu quả là doanh nghiệp có thể
được lợi khi trả lương cao vì tiền lương cao có thể làm tăng hiệu quả làm việc của
công nhân trong doanh nghiệp.
Có nhiều dạng lý thuyết tiền lương hiệu quả. Mỗi một dạng đưa ra một cách giải thích
khác nhau về nguyên nhân làm cho doanh nghiệp muốn trả lương cao. Bây giờ chúng
ta hãy xem xét bốn dạng chính.
Sức khoẻ công nhân
Dạng đầu tiên và đơn giản nhất của lý thuyết tiền lương hiệu quả nhấn mạnh đến
mối liên kết giữa tiền lương và sức khoẻ của công nhân. Công nhân được trả lương
cao hơn sẽ có được chế độ dinh dưỡng tốt hơn nên sẽ khoẻ mạnh hơn và có năng
suất lao động cao hơn. Một doanh nghiệp có thể nhận thấy có lợi hơn khi trả lương
cao và có công nhân mạnh khoẻ, năng suất hơn so với trả lương thấp hơn và có
công nhân yếu hơn, năng suất kém hơn.
Dạng lý thuyết tiền lương hiệu quả này không phù hợp với thực tế ở những nước
giàu. Ở những nước này, tiền lương cân bằng khá cao và trên mức cần thiết để đảm
bảo bữa ăn đủ dinh dưỡng. Các doanh nghiệp không cho rằng việc trả tiền lương
cân bằng sẽ làm tổn hại đến sức khoẻ của công nhân.
Lý thuyết tiền lương hiệu quả thích hợp hơn với các doanh nghiệp ở các nước kém
phát triển, nơi chế độ dinh dưỡng không đầy đủ là vấn đề thường thấy hơn. Ví dụ,
thất nghiệp cao ở các đô thị của nhiều nước Châu Phi nghèo. Ở những nước này,
các doanh nghiệp thực sự lo ngại rằng biện pháp cắt giảm tiền lương thực ra sẽ có
ảnh hưởng bất lợi tới sức khoẻ và năng suất của công nhân. Nói cách khác, quan
Bài 5: Thất nghiệp
NEU_ECO102_Bai5_v1.0013101216 67
tâm đến dinh dưỡng có thể là một lý do để hiểu vì sao các doanh nghiệp không cắt
giảm tiền lương mặc dù có dư thừa lao động.
Sự luân chuyển công nhân
Dạng thứ hai của lý thuyết tiền lương hiệu
quả nhấn mạnh đến mối liên kết giữa tiền
lương và sự luân chuyển công nhân. Công
nhân thôi việc vì nhiều lý do như có việc làm
ở doanh nghiệp khác, chuyển tới vùng khác
của đất nước, rời khỏi lực lượng lao động...
Tần suất bỏ việc của họ phụ thuộc vào tất cả
các kích thích mà họ đối mặt, trong đó có lợi
ích của hành động bỏ việc và lợi ích của việc
ở lại. Doanh nghiệp trả tiền lương cho công nhân của mình càng cao thì công nhân
càng ít bỏ việc. Trả lương cao là một hình thức giảm bớt sự luân chuyển công nhân.
Tại sao doanh nghiệp quan tâm đến sự luân chuyển công nhân? Lý do là doanh
nghiệp phải chịu chi phí gắn liền với việc tuyển dụng và đào tạo công nhân mới.
Hơn nữa, ngay cả sau khi được đào tạo, công nhân mới cũng không phải là người
có năng suất cao như những công nhân có kinh nghiệm. Do đó, doanh nghiệp có
sự luân chuyển công nhân cao hơn sẽ có chi phí sản suất cao hơn. Các doanh
nghiệp có thể nhận thấy có lợi hơn khi trả lương cao hơn mức cân bằng để giảm
bớt sự luân chuyển công nhân.
Nỗ lực của công nhân
Dạng thứ ba của lý thuyết tiền lương hiệu quả nhấn mạnh đến mối liên kết giữa tiền
lương và nỗ lực của công nhân. Trong nhiều trường hợp, công nhân có quyền tự do
nhất định trong việc quyết định làm việc chăm chỉ đến mức nào. Do vậy, các doanh
nghiệp phải giám sát nỗ lực làm việc của công nhân, và những công nhân thiếu trách
nhiệm bị phát hiện sẽ bị phạt tiền và thậm chí bị sa thải. Nhưng không phải tất cả
công nhân lơ là đều bị phát hiện ngay lập tức vì việc giám sát công nhân lại tốn kém
và không hoàn hảo. Doanh nghiệp có thể phản ứng bằng cách trả tiền lương cao hơn
mức cân bằng. Tiền lương cao hơn tạo cho công nhân cố giữ được việc làm và do đó
kích thích họ nỗ lực hết sức mình.
Dạng đặc biệt của lý thuyết tiền lương hiệu quả này giống như quan điểm “đội quân
thất nghiệp hậu bị” của C. Mác. Mác cho rằng giới chủ được lợi từ thất nghiệp vì sự
đe doạ của thất nghiệp góp phần nâng cao kỷ luật đối với công nhân đang làm việc.
Theo dạng này của lý thuyết tiền lương hiệu quả, thất nghiệp đóng vai trò tương tự.
Tiền lương ở mức cân bằng thì công nhân ít có lý do để làm việc chăm chỉ vì nếu bị
sa thải, họ sẽ nhanh chóng tìm được việc làm mới với cùng mức lương. Do đó,
doanh nghiệp có thể quyết định tăng lương lên cao hơn mức cân bằng và gây ra thất
nghiệp, nhưng tạo ra động cơ cho công nhân phải làm việc tích cực.
Chất lượng công nhân
Dạng thứ tư của lý thuyết tiền lương hiệu quả nhấn mạnh đến mối liên hệ giữa tiền
lương và chất lượng công nhân. Bằng cách trả lương cao, doanh nghiệp thu hút
Bài 5: Thất nghiệp
68 NEU_ECO102_Bai5_v1.0013101216
được nhiều công nhân có trình độ cao đến xin việc và vì thế mà có thể lựa chọn
được những lao động ưu tú nhất.
5.2.2. Thất nghiệp chu kỳ
Thất nghiệp chu kỳ được dùng để chỉ những biến động của thất nghiệp từ năm này
đến năm khác xung quanh mức thất nghiệp tự nhiên và nó gắn liền với những biến
động kinh tế trong ngắn hạn. Các nền kinh tế thường
xuyên biến động, thể hiện bằng tăng trưởng cao trong
một số thời kỳ và tăng trưởng thấp trong các thời kỳ
khác và thậm chí có thể suy thoái. Khi nền kinh tế mở
rộng, thất nghiệp chu kỳ biến mất; ngược lại, khi nền
kinh tế thu hẹp, thất nghiệp chu kỳ rất cao.
Thất nghiệp chu kỳ xuất hiện khi tổng cầu không đủ để
cân đối với toàn bộ sản lượng tiềm năng của nền kinh tế hay sản lượng thực tế thấp
hơn sản lượng tiềm năng và điều này gây ra suy thoái. Thất nghiệp chu kỳ có thể đo
lường bằng số người có thể có việc làm khi sản lượng ở mức tiềm năng trừ đi số người
hiện đang làm việc trong nền kinh tế. Khi thất nghiệp chu kỳ bằng 0, toàn bộ thất
nghiệp hiện tại đều là thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp cơ cấu hay thất nghiệp theo lý
thuyết Cổ điển, và khi đó tỷ lệ thất nghiệp chính là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
Trong dài hạn, nền kinh tế có thể tự quay trở lại trạng thái toàn dụng thông qua sự
điều chỉnh của tiền lương và giá cả nên thất nghiệp chu kỳ sẽ tự mất đi. Tuy nhiên,
trong ngắn hạn, thất nghiệp chu kỳ là một phần trong tổng số thất nghiệp mà Chính
phủ có thể góp phần giảm bớt bằng cách sử dụng chính sách tài khóa và tiền tệ để tăng
tổng cầu, chứ không phải bằng cách chờ cho tiền lương và giá cả giảm.
5.3. CHI PHÍ CỦA THẤT NGHIỆP
Thất nghiệp gây ra những chi phí đáng kể đối với xã hội, nhưng điều quan trọng cần
hiểu các chi phí này một cách chính xác để giúp các nhà hoạch định chính sách có
những cách điều chỉnh thích hợp.
Một đặc điểm quan trọng của thất nghiệp là nó phân bổ không đồng đều đến toàn xã hội.
Do đó, chi phí của nó cũng phân bổ không đều. Thất nghiệp thường ảnh hưởng mạnh nhất
đến thanh niên và những nhóm dân cư nghèo trong xã hội.
Đối với cá nhân, thất nghiệp là một gánh nặng. Khi bị mất việc, thu nhập của công nhân
giảm, ảnh hưởng xấu đến mức sống, đồng thời họ cũng dễ bị tổn thương về tâm lý. Nếu
thất nghiệp kéo dài, các kỹ năng lao động của công nhân cũng bị mai một. Mối quan hệ
gia đình có thể trở nên căng thẳng khi người trụ cột trong gia đình bị thất nghiệp.
Rất khó đo lường các chi phí này một cách chính xác. Các nhà kinh tế đã tìm cách đo
lường một chi phí khác của thất nghiệp, sản lượng mất mát do mức sử dụng lao động
trong nền kinh tế giảm. Điều quan trọng ở đây là cần phân biệt giữa thất nghiệp tự
nhiên và thất nghiệp chu kỳ.
THẤT NGHIỆP VÀ THIẾU VIỆC LÀM Ở VIỆT NAM
Hình dưới đây biểu diễn tình hình thất nghiệp và tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở
Việt Nam giai đoạn 2000-2008. Kết quả cho thấy tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao
Bài 5: Thất nghiệp
NEU_ECO102_Bai5_v1.0013101216 69
động trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thị đã liên tục giảm theo thời gian. Cùng
lúc đó, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn liên tục tăng lên. Đó là
một trong những nguyên nhân quan trọng đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam trong thời gian qua.
Hình: Tỷ lệ thất nghiệp thành thị và tỷ lệ sử dụng thời gian lao động nông thôn, 2000 - 2008
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2010)
Chưa qua đào tạo,
85.4%
CĐ, Đại học, 1.4%
THCN, 2.0%CNKT có bằng,
0.7%
CNKT không
bằng, 9.7%
CNKT có CC,
0.9%
Hình: Cơ cấu lao động thiếu việc làm năm 2007
Nguồn: Điều tra lao động và việc làm năm 2007
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2009
Tỷ lệ việc làm chung 13,7 11,8 9,2 8,1 4,9 4,9 5,6
Khu vực
Thành thị 8,6 7,7 5,7 4,4 1,8 2,1 3,2
Nông thôn 15,2 13,1 10,3 9,3 5,9 5,8 6,3
Giới
Nam 12,3 10,6 8,2 7,9 4,8 4,8 6,6
Nữ 15,2 13,1 10,2 8,4 5,0 5,0 6,0
Bảng: Tỷ lệ lao động thiếu việc làm ở Việt Nam, 2002 – 2009
Nguồn: Điều tra lao động và việc làm (Bộ LĐTBXH cho số liệu 2002 - 2006;
Tổng cục Thống kê cho số liệu 2007 và 2009).
Bài 5: Thất nghiệp
70 NEU_ECO102_Bai5_v1.0013101216
Hình: Thất nghiệp theo nguyên nhân và độ tuổi
Nguồn: Ngân hàng Thế giới (2007)
Có bốn nhận định với thực trạng thiếu việc làm ở Việt Nam trong giai đoạn vừa qua:
(i) việc làm không đủ thời gian của bộ phận lao động chưa qua đào tạo ở nước ta trong
thời gian vừa qua là đáng quan ngại; (ii) việc nâng cao tỷ lệ việc làm đủ thời gian cho
bộ phận lao động nữ trình độ thấp được cải thiện nhanh hơn so với lao động nam cùng
trình độ; (iii) dù khu vực nông thôn chịu tác động tiêu cực của việc người dân bị mất
việc làm do chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp phục vụ công nghiệp hóa,
nhưng việc làm đủ thời gian ở khu vực nông thôn đang được cải thiện nhanh chóng,
và (iv) thất nghiệp thanh niên là một vấn đề kinh tế và xã hội đáng báo động.
Đối với thất nghiệp tự nhiên
Thất nghiệp tự nhiên là mức thất nghiệp mà bình thường nền kinh tế phải chịu. Thực
ra thuật ngữ tự nhiên không hàm ý rằng mức thấp nghiệp này là đáng mong muốn.
Như phân tích ở trên cho thấy thất nghiệp tự nhiên lại phản ánh rất nhiều các hiện
tượng và lực lượng khác nhau: thất nghiệp tạm thời, phát sinh khi công nhân cần thời
gian để tìm việc; thất nghiệp cơ cấu phát sinh do có sự không ăn khớp giữa cơ cấu của
cầu và cung lao động; và thất nghiệp theo lý thuyết cổ điển xảy ra khi tiền lương được
chủ động duy trì cao hơn mức cân bằng thị trường.
Rõ ràng không phải mọi bộ phận của thất nghiệp tự nhiên đều phản ánh sự lãng phí
nguồn lực. Trong một chừng mực nào đó thất nghiệp tạm thời có thể là một điều tốt,
người ta không chấp nhận công việc đầu tiên mà họ được yêu cầu. Quá trình tìm việc
sẽ giúp người lao động có thể kiếm được việc làm tốt hơn, phù hợp hơn với nguyện
vọng và năng lực của họ. Điều này còn có một lợi ích xã hội: làm cho lao động và việc
làm khớp nhau hơn và do đó các nguồn lực sẽ được sử dụng một cách có hiệu quả
hơn, góp phần làm tăng tổng sản lượng của nền kinh tế trong dài hạn.
Thất nghiệp cũng có nghĩa là công nhân có nhiều thời gian nghỉ ngơi hơn. Bằng cách
từ bỏ làm việc, một số người sẽ nhận thấy rằng nghỉ ngơi thêm mang lại cho họ nhiều
giá trị hơn so với khoản thu nhập mà lẽ ra họ có thể nhận nếu làm việc.
Tuy nhiên chỉ một phần của thất nghiệp tự nhiên thuộc loại này. Một số công nhân bị
mất việc trong thời gian dài, mà không có cơ hội thực sự tìm được việc làm. Điều
quan trọng cần hiểu là phải chăng những trở ngại để có việc là do sự khiếm khuyết của
thị trường và liệu các khiếm khuyết này có thể được khắc phục bằng các chính sách.
Bài 5: Thất nghiệp
NEU_ECO102_Bai5_v1.0013101216 71
Đối với thất nghiệp chu kỳ
Vấn đề hoàn toàn khác khi chúng ta đề cập đến thất nghiệp chu kỳ, tức là mức thất
nghiệp cao hơn mức tự nhiên. Trong trường hợp này, sản lượng có thể tăng lên bằng
cách sử dụng đầy đủ hơn các nguồn lực hiện có. Qui luật Ô-kun – kết quả rút ra từ các
phân tích thực nghiệm về mối quan hệ giữa thất nghiệp và sản lượng đối với nền kinh
tế Mỹ – đã chỉ ra rằng khi thất nghiệp thực tế cao hơn 1% so với thất nghiệp tự nhiên,
sản lượng thực tế thấp hơn sản lượng tiềm năng 2,5%. Khi sản lượng ở dưới mức tự
nhiên, những tổn thất của thất nghiệp là rõ ràng. Những cá nhân thất nghiệp bị mất
tiền lương và nhận trợ cấp thất nghiệp, Chính phủ mất thu nhập từ thuế và phải trả
thêm trợ cấp và các doanh nghiệp bị giảm lợi nhuận.
Tuy nhiên thất nghiệp chu kỳ cũng có những tác động tích cực. Điều này cho phép
giảm phần nào những chi phí ở trên. Một người mất việc sẽ được nghỉ ngơi và thời
gian nhàn rỗi cũng có một giá trị nào đó, ngay cả khi phần lớn thời gian nhàn rỗi này
là không tự nguyện và do đó lợi ích từ thất nghiệp chu kỳ có giá trị rất nhỏ so với thu
nhập bị mất và tăng sức ép tâm lý do thất nghiệp gây ra.
Xã hội với tư cách là một tổng thể chịu nhiều tổn thất hơn so với các cá nhân thất
nghiệp về mặt thu nhập. Bởi vì một công nhân có việc sẽ nộp thuế cho Chính phủ, trong
khi một công nhân thất nghiệp có thể được nhận trợ cấp. Chi phí về sản lượng đối với
xã hội của một công nhân thất nghiệp chu kỳ bao gồm 3 thành phần: thu nhập mất mát
của các công nhân thất nghiệp sau khi trừ đi trợ cấp thất nghiệp; giá trị của trợ cấp thất
nghiệp do Chính phủ trả; và sự mất mát nguồn thu do thu nhập từ thuế giảm.
5.4. CHÍNH SÁCH ĐỂ GIÚP GIẢM BỚT THẤT NGHIỆP
Nếu thông tin về việc làm mới và số lao động đang có nhu cầu làm việc được truyền
đi nhanh chóng thì lao động và doanh nghiệp sẽ dễ gặp
nhau hơn. Ví dụ, Internet có thể tạo thuận lợi cho quá
trình tìm việc và làm giảm thất nghiệp tạm thời. Ngoài
ra, chính sách công có thể đóng một vai trò nhất định.
Ví dụ, nếu chính sách có thể làm giảm bớt thời gian
mà công nhân thất nghiệp cần thiết để tìm được việc
làm mới, thì nó có thể làm giảm tỷ lệ thất nghiệp tự
nhiên của nền kinh tế.
Chính sách của Chính phủ có thể tác động đến thất nghiệp tạm thời theo nhiều cách
khác nhau. Việc thành lập các văn phòng giới thiệu việc làm có chức năng cung cấp
thông tin về những việc làm còn trống và người lao động có nhu cầu tìm việc sẽ tạo
thuận lợi cho người lao động dễ tìm được việc làm hơn.
Một chương trình của Chính phủ có xu hướng làm tăng quy mô thất nghiệp tạm thời là
trợ cấp thất nghiệp. Trợ cấp thất nghiệp cho phép người lao động mất việc nhận
được một khoản thu nhập từ Chính phủ khi họ không có việc làm. Đây là một chính
sách được thiết kế nhằm giúp người lao động đối phó với thất nghiệp vì nó góp phần
làm giảm tổn thất và tính dễ tổn thương cho người thất nghiệp và gia đình của họ. Tuy
nhiên, chính sách này lại làm tăng thất nghiệp tạm thời trong nền kinh tế. Trợ cấp thất
nghiệp cho phép công nhân mất việc nhận được một khoản thu nhập từ Chính phủ
Bài 5: Thất nghiệp
72 NEU_ECO102_Bai5_v1.0013101216
trong khi họ không có việc làm. Điều này làm giảm sức ép đối với các công nhân bị
mất việc tìm kiếm việc làm mới và rất có thể họ không chấp nhận các công việc không
hấp dẫn, nhất là khi mức trợ cấp thất nghiệp lại cao. Do vậy, để giảm bớt thất nghiệp
tạm thời, chính phủ có thể duy trì mức trợ cấp thất nghiệp hợp lý, cũng như rút ngắn
thời gian được hưởng trợ cấp thất nghiệp để gây áp lực buộc người thất nghiệp phải
nhanh chóng tìm việc.
Các chương trình hỗ trợ đào tạo nghề sẽ giúp giảm bớt được thất nghiệp cơ cấu thông
qua việc giúp người lao động trang bị những kỹ năng mới, và nhờ vậy có thể tìm được
công việc mới dễ dàng hơn.
Hạn chế bớt sức mạnh của công đoàn sẽ giúp tiền lương không bị đẩy lên quá cao và
gây ra tình trạng thất nghiệp.
Bài 5: Thất nghiệp
NEU_ECO102_Bai5_v1.0013101216 73
Tóm lược cuối bài
Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm những người trưởng thành sẵn sàng và có khả năng làm việc,
nhưng không có việc làm.
Thất nghiệp thường được chia thành hai nhóm: thất nghiệp tự nhiên và thất nghiệp chu kỳ.
Thất nghiệp tự nhiên biểu thị mức thất nghiệp bình thường mà nền kinh tế phải chịu, còn thất
nghiệp chu kỳ biểu thị những dao động ngắn hạn của thất nghiệp xung quanh mức tự nhiên.
Một nguyên nhân của thất nghiệp là thời gian cần thiết để công nhân tìm được việc làm thích
hợp với sở thích và kỹ năng của họ. Trợ cấp thất nghiệp là chính sách của Chính phủ có tác
dụng ổn định thu nhập cho công nhân, lại làm tăng thất nghiệp tạm thời.
Nguyên nhân thứ hai gây ra thất nghiệp là do có sự không ăn khớp giữa cung và cầu lao động
trên các thị trường lao động cụ thể. Các chương trình đào tạo lại của Chính phủ sẽ giúp công
nhân dễ dàng chuyển đổi từ các ngành bị suy giảm sang các ngành đang mở rộng.
Nguyên nhân thứ ba lý giải vì sao nền kinh tế của chúng ta luôn có một số thất nghiệp là do
lương bị đẩy lên quá cao dưới tác động của luật tiền lương tối thiểu, sức mạnh của công đoàn,
và lý thuyết tiền lương hiệu quả nêu ra.
Thất nghiệp có cả tác động tiêu cực lẫn tích cực đến nền kinh tế. Đối với cá nhân, thất nghiệp
gây ra sự mất mát thu nhập và tổn thương về mặt tâm lý. Đối với xã hội, thất nghiệp chu kỳ
làm cho sản lượng giảm xuống dưới mức tự nhiên, nguồn thu ngân sách giảm... Lợi ích cơ
bản của thất nghiệp là tạo điều kiện để xếp đúng người vào đúng việc và làm tăng năng suất
lao động.
Cung cấp thông tin về việc làm đầy đủ hơn, hạ thấp mức trợ cấp thất nghiệp và khoảng thời
gian trợ cấp, hỗ trợ đào tạo nghề, giảm bớt sức mạnh công đoàn là một số chính sách có thể
giúp hạ bớt tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế.
Bài 5: Thất nghiệp
74 NEU_ECO102_Bai5_v1.0013101216
Câu hỏi ôn tập
1. Các nhà thống kê lao động chia dân số trưởng thành thành ba nhóm nào? Họ tính lực lượng
lao động, tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ tham gia lực lượng lao động như thế nào?
2. Vì sao thất nghiệp tạm thời là không thể tránh khỏi? Chính phủ có thể làm gì để cắt giảm thất
nghiệp tạm thời?
3. Thất nghiệp cơ cấu là gì? Biện pháp nào mà Chính phủ có thể sử dụng để cắt giảm thất
nghiệp cơ cấu?
4. Có phải luật tiền lương tối thiểu là cách lý giải thích tốt hơn về thất nghiệp theo lý thuyết Cổ
điển trong giới thanh niên hoặc sinh viên mới tốt nghiệp không? Tại sao?
5. Hãy giải thích bốn cách mà doanh nghiệp có thể tăng lợi nhuận bằng cách trả lương cho công
nhân cao hơn mức cân bằng thị trường.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_kinh_te_hoc_vi_mo_bai_5_that_nghiep.pdf