Mô hình đường cầu gãy
Như ta đã biết trong thị trường độc quyền tập đoàn, một số ít doanh nghiệp phân chia
phần lớn lượng cung của thị trường. Hay nói cách khác, mỗi doanh nghiệp độc quyền
tập đoàn có một thị phần nhất định và tồn tại sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên
thị trường.
Để cạnh tranh, một doanh nghiệp độc quyền tập đoàn thường sử dụng các chính sách
Marketing và thay đổi giá bán sản phẩm. Tuy nhiên do sự phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau
nên việc một doanh nghiệp có những hành vi như vậy sẽ gặp phải sự phản ứng của các
đối thủ và do đó trong thị trường độc quyền thường có sự cứng nhắc trong quyết định
về giá bán, sản lượng v.v. của các doanh nghiệp khi thị trường đã ổn định. Một trong
những mô hình thường được sử dụng để giải thích tính chất này của thị trường độc
quyền tập đoàn là mô hình đường cầu gãy. Nội dung cơ bản của mô hình này có thể
hiểu như sau:
Nếu doanh nghiệp tăng giá bán sản phẩm thì các đối thủ khác sẽ không phản ứng
gì. Do đó khách hàng sẽ rất nhạy cảm việc tăng giá bán của doanh nghiệp. Miền
đường cầu tương ứng với phần tăng giá của doanh nghiệp là co giãn (|EDP|>1).
Nếu doanh nghiệp giảm giá bán sản phẩm thì các đối thủ khác cũng sẽ giảm giá họ
do nguy cơ mất thị phần. Tình huống này còn được gọi là “chiến tranh giá”. Khi
thị trường rơi vào “chiến tranh giá” thì lợi ích của tất cả các doanh nghiệp đều bị
phương hại. Trong tình huống này khách hàng sẽ kém nhạy cảm với sự giảm giá
bán của doanh nghiệp. Miền đường cầu tương ứng với phần giảm giá của doanh
nghiệp là không co giãn (|EDP|<1). Khi thị trường rơi vào tình huống này lợi ích
của tất cả các doanh nghiệp đều bị phương hại.
Như vậy cả 2 xu hướng trên đều cho thấy việc thay đổi giá của doanh nghiệp đều làm
giảm doanh thu của doanh nghiệp như biểu diễn trên hình 6.19. Với mức giá ban đầu
P2, việc doanh nghiệp tăng giá lên P1 hay giảm xuống P3 đều làm giảm doanh thu.
Đường cầu về sản phẩm của mỗi doanh nghiệp tập đoàn sẽ gãy tại vị trí giá ban đầu
(điểm A).
Đường cầu gãy này là sự kết hợp của 2 miền đường cầu với 2 mức độ co giãn theo giá
khác nhau phụ thuộc vào hành vi của đối thủ cạnh tranh. Đường d1 tương ứng với
miền co giãn của đường cầu khi doanh nghiệp tăng giá. Đường d2 ngược lại tương ứng
với miền không co giãn của đường cầu khi doanh nghiệp giảm giá. Như vậy đường
doanh thu cận biên (MR) của doanh nghiệp phụ thuộc vào đường cầu gãy khúc này sẽ
bị gián đoạn như minh họa trên hình 6.20. Quyết định đưa ra của doanh nghiệp độc
quyền tập đoàn (P*, Q*) vẫn hoàn toàn tuân theo nguyên tắc tối ưu (MR=MC). Sự
cứng nhắc về giá trên thị trường này còn thể hiện qua việc ngay cả khi có sự thay đổi
về chi phí (ví dụ chi phí cận biên dao động trong khoảng từ MC1 đến MC2), doanh
nghiệp vẫn bán sản phẩm tại mức giá P*. Mức giá này chỉ thay đổi khi chi phí thay
đổi ra ngoài biên độ đó.
26 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 600 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Kinh tế học vi mô - Bài 6: Cấu trúc thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ọc đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia
thảo luận trên diễn đàn.
Đọc tài liệu:
1. PGS. TS Vũ Kim Dũng – PGS.TS Phạm Văn Minh (2011), Giáo trình Kinh tế học
vi mô , NXB Lao động xã hội.
2. PGS. TS Vũ Kim Dũng – TS Đinh Thiện Đức, Bài tập kinh tế học vi mô, (2011),
NXB Lao động xã hội.
Cần hiểu rõ các loại hình doanh nghiệp trong các cấu trúc thị trường khác nhau, phân
biệt và lấy ví dụ thực tế về định giá; duy trì sản xuất trong tình trạng thua lỗ; quyết
định ngừng sản xuất; các chiến lược trong thực tế mà các doanh nghiệp sử dụng để
cạnh tranh với đối thủ trên thị trường Việt Nam và thế giới.
Làm bài tập, đặc biệt là cách tính giá và sản lượng trong các quyết định kinh doanh của
doanh nghiệp.
Học viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc qua email.
Trang Web môn học.
Nội dung
Các mô hình thị trường cổ điển và đặc điểm của các thị trường đó.
Quyết định sản xuất tối ưu của các doanh nghiệp trong những mô hình thị trường khác nhau.
Tác động của hành vi doanh nghiệp trong các cấu trúc thị trường tới giá và sản lượng cân bằng.
Hiệu quả kinh tế và phúc lợi xã hội trong các mô hình thị trường khác nhau.
Cạnh tranh phi giá, khác biệt hóa sản phẩm và hành vi phụ thuộc chiến lược.
Mục tiêu
Phân biệt được trong thực tế các loại thị trường, các loại doanh nghiệp hoạt động trên
từng loại thị trường đó ở Việt Nam và thế giới.
Phân tích được các quyết định về giá và sản lượng sản xuất, ngừng sản xuất của các
loại hình doanh nghiệp khác nhau.
Vận dụng được một số lý thuyết nhằm định giá bán sản phẩm trong trường hợp doanh
nghiệp có sức mạnh thị trường.
Đánh giá được tác động của từng mô hình thị trường đến lợi ích của người mua, bán
và xã hội.
Bài 6: Cấu trúc thị trường
132 ECO101_Bai6_v1.0012112220
Tình huống dẫn nhập
Ngày 1/6/2009, General Motor – anh cả của nền công nghiệp ô tô nước Mỹ - đã đệ đơn xin phá
sản lên chính quyền liên bang Mỹ. CEO của GM Fritz Henderson cho rằng nguyên nhân chính
cho thất bại của GM chính là sự cạnh tranh trên thị trường toàn cầu với ngày càng nhiều đối thủ
có thể sản xuất với chi phí thấp hơn.
Chi phí vận hành của GM bao gồm cả các chi phí cố định và chi phí biến đổi, ngoài ra họ còn
phải chịu thêm nhiều chi phí “tồn đọng” như quỹ lương hưu cho các công nhân về hưu hay tiền
lãi trả cho các chủ nợ. Trong năm 2008, GM bán được 8 triệu chiếc xe, thu về 144 tỉ đô la nhưng
với chi phí vận hành là 176 tỉ đô la, GM bị lỗ 32 tỉ. Trung bình mỗi chiếc xe bán ra tập đoàn này
phải chịu khoản lỗ là 4000 đô la. Không còn cách nào để cắt lỗ, GM đành quyết định rút lui khỏi
thị trường.
Để tiếp tục sự hoạt động của GM, chính phủ Mỹ và Canada đã cung cấp một số khoản vay. Đồng
thời GM “mới” thực hiện các kế hoạch cắt giảm chi phí trong quá trình “tái cấu trúc” doanh
nghiệp để từng bước khắc phục thua lỗ và tiến đến sinh lời.
Nguồn: Bade và Parkin, 2009.
1. Theo bạn nguyên nhân nào dẫn đến sự thất bại của GM cũ?
2. Khi nhận được các khoản vay hỗ trợ của Chính phủ Mỹ và Canada để thực
hiện tái cấu trúc doanh nghiệp, chi phí và quyết định sản xuất của GM mới
sẽ thay đổi như thế nào? Tại sao GM mới có thể từng bước khắc phục thua
lỗ và tiến đến có lợi nhuận?
Bài 6: Cấu trúc thị trường
ECO101_Bai6_v1.0012112220 133
6.1. Phân loại các cấu trúc thị trường
6.1.1. Thị trường
Thị trường là sự biểu thị ngắn gọn quá trình mà nhờ đó các quyết định của các hộ gia
đình về việc tiêu dùng các hàng hoá khác nhau, các quyết định của các doanh nghiệp
về việc sản xuất cái gì và như thế nào, các quyết định của công nhân về làm việc bao
lâu và cho ai được điều hoà bởi sự điều chỉnh giá.
Thị trường là một tập hợp các dàn xếp mà thông qua đó người bán và người mua tiếp
xúc với nhau để trao đổi hàng hoá, dịch vụ.
Thị trường là một khuôn khổ vô hình trong đó người này tiếp xúc với người kia để trao
đổi một thứ gì đó khan hiếm và trong đó họ cùng xác định giá và số lượng trao đổi.
Qua những khái niệm trên đây ta thấy trong một số trường hợp người mua và người
bán có thể tiếp xúc trực tiếp tại các địa điểm cố định như các thị trường hàng tiêu
dùng: quần áo, rau quả... Trong nhiều trường hợp khác các công việc giao dịch diễn ra
qua điện thoại, vô tuyến hoặc các phương tiện từ xa khác nhau như trong thị trường
chứng khoán. Nhưng điều chung nhất đối với các thành viên tham gia thị trường là họ
đều tìm cách tối đa hoá lợi ích của mình. Người bán (người sản xuất) muốn tối đa hoá
lợi nhuận, người mua (người tiêu dùng) muốn tối đa hóa sự thoả mãn (lợi ích) thu
được từ sản phẩm họ mua.
Về mặt nguyên lý, sự tác động qua lại giữa người bán và người mua xác định giá của
từng loại hàng hoá, dịch vụ cụ thể, đồng thời xác định cả số lượng, chất lượng, chủng
loại sản phẩm cần sản xuất và qua đó sẽ xác định việc phân bổ và sử dụng tài nguyên
khan hiếm của xã hội. Đây chính là nguyên tắc hoạt động của cơ chế thị trường. Tuy
nhiên hoạt động thực tế của thị trường rất phức tạp, phụ thuộc vào số lượng, quy mô,
sức mạnh thị trường của những người bán và những người mua.
6.1.2. Phân loại thị trường
Khi xem xét hành vi của thị trường, các nhà kinh tế chia thị trường thành các cấu trúc:
thị trường cạnh tranh hoàn hảo, thị trường độc quyền, thị trường cạnh tranh không
hoàn hảo bao gồm cạnh tranh độc quyền và độc quyền tập đoàn.
Khi phân loại, các nhà kinh tế sử dụng các tiêu thức cơ bản sau:
Số lượng người bán và người mua Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo và cạnh
tranh độc quyền có rất nhiều người bán và người mua. Mỗi người trong số họ chỉ
bán (hoặc mua) một phần rất nhỏ trong lượng cung thị trường. Trong thị trường
độc quyền bán thì một ngành chỉ có một người bán (người sản xuất) duy nhất.
Trong thị trường độc quyền mua chỉ có một người mua duy nhất. Trong thị trường
độc quyền bán tập đoàn có vài người bán, còn trong thị trường độc quyền mua tập
đoàn chỉ có một số người mua.
Tính đồng nhất của sản phẩm Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, sản phẩm
đồng nhất, trong thị trường cạnh tranh độc quyền sản phẩm khác nhau. Trong thị
trường độc quyền tập đoàn, sản phẩm có thể giống nhau có thể khác nhau một ít.
Trong thị trường độc quyền sản phẩm là độc nhất.
Bài 6: Cấu trúc thị trường
134 ECO101_Bai6_v1.0012112220
Mức độ thông tin kinh tế của người bán và người mua. Trong thị trường cạnh tranh
hoàn hảo, người bán và người mua đều không có ảnh hưởng gì đến giá thị trường
của sản phẩm, hay không có sức mạnh thị trường. Do thông tin kinh tế trong
trường hợp này là hoàn hảo. Trong thị trường độc quyền bán (mua) người bán
(mua) có ảnh hưởng rất lớn đến giá thị trường của sản phẩm. Do họ có lượng
thông tin vượt trội so với người mua (bán).
Các rào cản gia nhập thị trường Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo các rào cản
gia nhập thị trường là rất thấp. Ngược lại, trong thị trường độc quyền bán (mua),
tập đoàn có những trở ngại đáng kể đối với việc gia nhập thị trường. Chẳng hạn,
trong các ngành sản xuất ô tô, luyện kim... việc xây dựng nhà máy mới là rất tốn
kém. Đó chính là trở ngại lớn đối với việc gia nhập thị trường. Khi một thị trường
có rào cản gia nhập lớn, các doanh nghiệp hiện tại trong ngành sẽ có sực mạnh
trong định giá bán sản phẩm và ngược lại.
6.2. Thị trường cạnh tranh hoàn hảo
6.2.1. Đặc điểm của thị trường cạnh tranh hoàn hảo
Có nhiều người mua và người bán độc lập với nhau. Thị trường cạnh tranh hoàn
hảo đòi hỏi có nhiều người mua và người bán mà mỗi người trong số họ hành động
độc lập với tất cả những người khác.
Sản phẩm đồng nhất: Tất cả các đơn vị hàng hoá trao đổi được coi là giống nhau.
Dễ thấy trong các thị trường thực tế có đặc trưng này. Chẳng hạn thị trường than
đá thuộc cùng một cấp chất lượng, hoặc thị trường xăng, mỗi đơn vị là bản sao y
hệt của một đơn vị bất kỳ khác. Bởi vậy người mua không bao giờ phải quan tâm
đến việc họ mua các đơn vị đó của ai.
Thông tin hoàn hảo Tất cả người mua và người bán đều có hiểu biết đầy đủ về các
thông tin liên quan đến việc trao đổi.
Tự do gia nhập và rút khỏi thị trường Không có gì cản trở việc gia nhập và rút
khỏi thị trường.
6.2.2. Đặc điểm của doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo
Doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo có thể bán tất cả sản lượng của mình ở mức giá thị
trường đang thịnh hành, nếu doanh nghiệp đặt giá cao hơn thì doanh nghiệp sẽ không
bán được vì người tiêu dùng sẽ mua sản phẩm của doanh nghiệp khác. Theo nghĩa đó,
doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo không có sức mạnh thị trường, tức là không có khả
năng kiểm soát giá thị trường đối với sản phẩm mình bán. Sản lượng của doanh
nghiệp là vô cùng nhỏ so với sản lượng của thị trường, vì thế doanh nghiệp không có
ảnh hưởng đáng kể đến tổng sản lượng hoặc giá trên thị trường.
Mỗi doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo có thể bán mọi đơn vị sản lượng của mình tại
mức giá thị trường. Đây là đặc trưng nổi bật của việc không có sức mạnh thị trường
của các doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo. Các doanh nghiệp cạnh tranh không thể
gây ảnh hưởng độc lập đến giá thị trường. Do đó đường cầu mà mỗi doanh nghiệp
canh tranh hoàn hảo gặp phải là đường nằm ngang tại vị trí giá cân bằng thị trường.
Hay nói một cách khác, mỗi doanh nghiệp canh tranh hoàn hảo là một người chấp
nhận giá bán trên thị trường (price-taker).
Bài 6: Cấu trúc thị trường
ECO101_Bai6_v1.0012112220 135
Chúng ta cần phân biệt một cách rõ ràng giữa đường cầu thị trường và đường cầu về
sản phẩm của mỗi doanh nghiệp. Đường cầu thị trường luôn là một đường có độ dốc
âm như trong hình 6.1b. Ngược lại đường cầu về sản phẩm của mỗi doanh nghiệp
cạnh tranh hoàn hảo là đường nằm ngang như tronh hình 6.1a, nó hàm ý rằng hệ số co
giãn của cầu theo giá đối với sản phẩm của mỗi doanh nghiệp là vô cùng – cầu hoàn
toàn co giãn. Giả sử một ngân hàng thương mại cổ phẩn nào đó trên thị trường Việt
Nam tăng lượng bán ngoại tệ của mình từ 300 lên 500 nghìn USD mỗi ngày. Điều
này sẽ không ảnh hưởng gì đến thị trường USD với mức giá 21.000 VND/1USD và
lượng 800 triệu USD. Quyết định của thị trường được xác định bởi sự tương tác của
tất cả các doanh nghiệp và những người mua trên thị trường chứ không phải bởi quyết
định của một doanh nghiệp.
d
300 ngàn
21000
P P
q
21000
Q
D
500 ngàn 800 triệu
(a) (b)
Hình 6.1 Đường cầu của doanh nghiệp CTHH và đường cầu thị trường
6.2.3. Sản lượng của doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo
Giả định tối đa hoá lợi nhuận thường được sử dụng trong kinh tế vi mô vì nó mô tả
hành vi của doanh nghiệp một cách chính xác ở một mức độ hợp lý và tránh được
những phức tạp không cần thiết khi phân tích.
TR
q
P
q* q2q1
O
B
A
TC
Hình 6.2. Tối đa hoá lợi nhuận trong ngắn hạn
Bài 6: Cấu trúc thị trường
136 ECO101_Bai6_v1.0012112220
Vì lợi nhuận là chênh lệch giữa doanh thu và chi phí nên để tìm ra sản lượng tối đa hoá
lợi nhuận ta phải phân tích doanh thu và chi phí của nó. Tổng doanh thu là TR = P × q.
Tổng chi phí cũng phụ thuộc vào sản lượng. Do đó lợi nhuận của doanh nghiệp là:
(q) = TR(q) - TC (q)
Để tối đa hoá lợi nhuận doanh nghiệp sẽ chọn sản lượng sao cho chênh lệch giữa tổng
doanh thu và tổng sản lượng lớn nhất.
Hình 6.2 cho thấy đường tổng doanh thu là đường thẳng, vì với một mức giá xác định,
tổng doanh thu tỷ lệ thuận với sản lượng. Độ dốc của đường tổng doanh thu là doanh
thu cận biên. Độ dốc này cho thấy tổng doanh thu tăng thêm bao nhiêu khi sản lượng
tăng thêm một đơn vị.
Vì doanh nghiệp có chi phí cố định và chi phí biến đổi tuân theo quy luật năng suất
cận biên giảm dần nên tổng chi phí không phải là đường thẳng. Độ dốc của nó là chi
phí cận biên (phần gia tăng của tổng chi phí khi sản lượng tăng thêm 1 đơn vị). TC(q)
dương (TC(q) > 0) ngay tại mức sản lượng bằng không vì có chi phí cố định trong
ngắn hạn. Tại các mức sản lượng thấp, lợi nhuận âm ( < 0) vì doanh thu không đủ
để bù đắp chi phí. Doanh thu cận biên lớn hơn chi phí cận biên nói lên rằng tăng sản
lượng sẽ làm tăng lợi nhuận, khi sản lượng tăng lợi nhuận có thể dương (với q > q0)
và tăng cho đến tận khi sản lượng đạt tới q*. Tại đó doanh thu cận biên bằng chi phí
cận biên, q* là sản lượng tối đa hoá lợi nhuận. Khoảng cách giữa đường TR và TC,
(đoạn AB) ở điểm này là lớn nhất nói cách khác, (q) đạt giá trị cực đại. Sau mức sản
lượng q*, doanh thu cận biên nhỏ hơn chi phí cận biên, lợi nhuận giảm, điều này phản
ánh tổng chi phí tăng nhanh hơn tổng doanh thu.
Ta cũng có thể chứng minh quy tắc này bằng đại số như sau:
= TR- TC
đạt cực đại tại điểm mà một đơn vị sản lượng gia tăng là cho không thay đổi,
nghĩa là: 0
q
TR TC
Q Q Q
Mà TR MC(q)
q
vì doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo gặp đường cầu nằm ngang nên đường cầu mà
doanh nghiệp gặp cũng chính là đường doanh thu bình quân và doanh thu cận biên. Vì
MR = P nên quy tắc tối đa hoá lợi nhuận đối với doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo là:
MC(q) = P
6.2.4. Lựa chọn sản lượng trong ngắn hạn
Hình 6.3 minh họa đường cầu và đường tổng chi phí bình quân (ATC), chi phí biến
đổi bình quân (AVC) và chi phí cận biên (MC) của một doanh nghiệp cạnh tranh hoàn
hảo. Doanh nghiệp này tối đa hoá lợi nhuận tại q* vì ở đó MC = P. Nếu doanh nghiệp
Bài 6: Cấu trúc thị trường
ECO101_Bai6_v1.0012112220 137
sản xuất mức sản lượng q1, ở đó MC < P thì doanh nghiệp có thể tăng lợi nhuận bằng
cách tăng sản lượng. Ngược lại ở mức sản lượng cao hơn, chẳng hạn q2, ở đó MC > P,
như vậy giảm sản lượng sẽ làm tăng lợi nhuận vì tiết kiệm được phần chi phí vượt quá
phần tăng trong tổng doanh thu.
Hình này còn cho ta thấy lợi nhuận ngắn hạn của doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo.
Khoảng cách AB là hiệu số giữa giá và tổng chi phí bình quân ở mức sản lượng q*, đó
là lợi nhuận bình quân (lợi nhuận tính trung bình cho một đơn vị sản phẩm). Vì thế
diện tích hình chữ nhật ABCPm là tổng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Pm
P
q*
ATC
P = MR = AR
MC
q
C
A
B
Hình 6.3. Lựa chọn sản lượng của doanh nghiệp CTHH
Trong ngắn hạn không phải lúc nào doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo cũng thu được
lợi nhuận. Hình 6.4 cho thấy một tình huống trong đó chi phí cố định quá cao làm cho
tổng chi phí bình quân cao hơn nhưng chi phí biến đổi bình quân và chi phí cận biên
vẫn giữ nguyên. Tại mức sản lượng tối ưu q*, giá thấp hơn tổng chi phí bình quân,
như vậy đoạn AB là khoản lỗ bình quân. Hình chữ nhật PmEFG biểu thị tổng thua lỗ.
Trường hợp này doanh nghiệp có hai sự lựa chọn trong ngắn hạn: tiếp tục sản xuất
hoặc đóng cửa. Doanh nghiệp có thể tiếp tục sản xuất và chịu lỗ trong ngắn hạn vì
doanh nghiệp kỳ vọng sẽ thu được lợi nhuận trở lại trong tương lai, khi giá của sản
phẩm tăng hoặc chi phí sản xuất giảm. Trong hai phương án trên doanh nghiệp sẽ
chọn phương án nào có lợi hơn.
AVC
q
E
F
H
Pm
G
I
MC ATC
P
0
Hình 6.4. Doanh nghiệp CTHH chịu thua lỗ trong ngắn hạn
Bài 6: Cấu trúc thị trường
138 ECO101_Bai6_v1.0012112220
Trong hình 6.4 ta thấy nếu doanh nghiệp sản xuất ở mức sản lượng tối ưu doanh
nghiệp sẽ bị lỗ một khoảng bằng diện tích hình chữ nhật EFGPm, nếu doanh nghiệp
đóng cửa sản xuất doanh nghiệp sẽ mất toàn bộ chi phí cố định là diện tích hình chữ
nhật EHIPm. Như vậy nếu doanh nghiệp duy trì hoạt động sản xuất của mình sẽ chịu
một phần thua lỗ ít hơn so với trường hợp đóng cửa.
Tuy nhiên, khi mức giá trên thị trường giảm xuống dưới mức chi phí biến đổi bình
quân tối thiểu thì doanh nghiệp nên ngừng sản xuất vì khi đó phần thua lỗ nếu doanh
nghiệp tiếp tục hoạt động sẽ lớn hơn so với chi phí cố định. Điểm mà giá thị trường
đối với sản phẩm của doanh nghiệp bằng chi phí biến đổi bình quân tối thiểu được gọi
là điểm đóng cửa sản xuất của doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo.
Như vậy chúng ta có thể nói rằng chi phí cố định không liên quan đến quyết định sản
lượng của doanh nghiệp trong ngắn hạn nhưng lại là yếu tố quyết định đối với việc
xem xét xem có nên rút khỏi ngành trong dài hạn hay không.
6.2.5. Đường cung ngắn hạn của doanh nghiệp và ngành cạnh tranh hoàn hảo
Đường cung của một doanh nghiệp cho thấy doanh nghiệp sẽ sản xuất mức sản lượng
nào ở mỗi mức giá trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi. Như phân tích ở
trên, các doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo sẽ tăng sản lượng đến mức mà giá bằng
chi phí cận biên và sẽ đóng cửa nếu giá nhỏ hơn chi phí biến đổi bình quân. Như vậy,
với những mức sản lượng dương đường cung ngắn hạn của doanh nghiệp cạnh tranh
hoàn hảo là một phần của đường chi phí cận biên quân trên điểm chi phí biến đổi bình
quân tối thiểu.
P3
P2
P
MC
q1 q2 q3 q
P1
AVC
Hình 6.5. Đường cung ngắn hạn của doanh nghiệp CTHH
Tương ứng với mỗi mức giá lớn hơn chi phí biến đổi bình quân tối thiểu, bằng nguyên
tắc tối ưu (MC = P) ta xác định được mức sản lượng mà doanh nghiệp cạnh tranh hoàn
hảo cung ứng ra thị trường. Ví dụ, ở giá P1 lượng cung sẽ là q1. ở giá P2 lượng cung sẽ
là q2. Với những giá thấp hơn chi phí biến đổi bình quân tối thiểu doanh nghiệp sẽ
ngừng cung ứng sản phẩm.
Đường cung ngắn hạn của các doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo dốc lên do có quy luật
năng suất cận biên giảm dần mà chúng ta đã nghiên cứu trong nội dung lý thuyết sản
xuất. Giá thị trường tăng sẽ làm cho các doanh nghiệp trong ngành gia tăng sản lượng.
Bài 6: Cấu trúc thị trường
ECO101_Bai6_v1.0012112220 139
Giá cao hơn làm cho phần sản lượng gia tăng có lãi và làm tăng tổng lợi nhuận, vì
mức giá đó áp dụng cho tất cả các đơn vị sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất.
Đường cung của ngành hay thị trường trong ngắn hạn được hiểu là đường biểu diễn
các mức sản lượng mà ngành cung cấp trong ngắn hạn tương ứng với mỗi mức giá.
Sản lượng cung cấp của cả ngành là tổng sản lượng của tất cả các doanh nghiệp trong
ngành hay cung của ngành bằng tổng hợp các đường cung của doanh nghiệp theo
chiều sản lượng. Cách xây dựng đường cung ngắn hạn của ngành được minh họa
trong hình 5.6.
MC1 MC2 MC3
S
Giá
($/ Đơn giá)
P3
P2
P1
2 4 5 7 10 15 218 Số lượng
Hình 6.6. Đường cung ngắn hạn của ngành CTHH
Trong hình 6.6, đường cung ngắn hạn của ngành được tổng hợp từ đường cung ngắn
hạn của 3 doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo (MC1, MC2 và MC3) (giả định trong
ngành chỉ có 3 doanh nghiệp). Với mức giá thấp hơn P1 ngành sẽ không có doanh
nghiệp nào cung ứng sản phẩm. Nếu giá trong khoảng từ P1 đến P2 đường cung của
ngành trung với đường cung của doanh nghiệp 3. Nếu giá lớn hơn P2 sản lượng cung
ứng của ngành tại mỗi mức giá bằng tổng sản lượng của cả 3 doanh nghiệp.
6.2.6. Thặng dư sản xuất của doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo
Thặng dư sản xuất (PS) của doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo được hiểu là phần
chênh lệch giữa mức giá bán sản phẩm thực tế doanh nghiệp nhận được mà mức giá
mà doanh nghiệp sẵn sàng bán đối với mỗi đơn vị sản phẩm. Như phân tích ở trên, ta
có nguyên tắc quyết định sản xuất đối với doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo là MC =
P. Như vậy, ta có thể hiểu thặng dư sản xuất của doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo là
phần chêch lệch giữa giá bán sản phẩm thực tế và chi phí cận biên. Nó có thể được
biểu diễn như trong hình 6.7.
Bài 6: Cấu trúc thị trường
140 ECO101_Bai6_v1.0012112220
Số lượng
Giá
($/ đơn vị
sản lượng)
Thặng dư sản xuát
MC
AVC
PBA
D
0
q*
c
Hình 6.7 Thặng dư sản xuất của doanh nghiệp CTHH
Trong hình 6.7, thặng dư sản xuất là phần diện tích tô đậm và có được xác định thông
qua công thức sau:
PS = TR – VC
Thăng dư sản xuất có mối quan hệ trực tiếp với lợi nhuận doanh nghiệp.
Ta có: = TR – TC
Như vây có thể hiểu:
= PS – FC
6.2.7. Quyết định sản xuất của doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo và cân bằng thị
trường trong dài hạn
Trong dài hạn doanh nghiệp có thể thay đổi tất cả các yếu tố sản xuất, bao gồm cả quy
mô lao động và tư bản. Bên cạnh đó thị trường cạnh tranh hoàn hảo được giả định
rằng các doanh nghiệp có thể tự do gia nhập hoặc rút khỏi ngành mà không có một rào
cản nào. Do đó quyết định sản xuất dài hạn có những đặc điểm khác so với phân tích
ngắn hạn ở trên.
Động cơ lý giải cho sự tham gia thị trường của các doanh nghiệp mới là lợi nhuận
kinh tế thu được. Việc các doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo có lợi nhuận kinh tế
dương trong ngắn hạn sẽ thúc đẩy sự gia nhập của các doanh nghiệp ngoài ngành.
Trong hình 6.8, khi thị trường cân bằng trong ngắn hạn tại giá bán sản phẩm trên thị
trường là P1 và sản lượng của toàn ngành là Q1, doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo
đang xem xét này thu được lợi nhuận kinh tế dương tương ứng với các chi phí ngắn
hạn (SMC và SAC). Lợi nhuận kinh tế này sẽ thu hút sự tham gia của những doanh
nghiệp khác vào ngành. Điều này làm cho cung của ngành tăng lên thành S2 và do đó
mức giá giảm xuống thành P2 và sản lượng toàn ngành tăng lên thành Q2. Lúc này lợi
nhuận kinh tế của doanh nghiệp sẽ bằng 0. Tức là không còn động cơ cho sự tham gia
của những doanh nghiệp khác. Tại vị trí đó ngành cạnh tranh hoàn hảo đạt cân bằng
Bài 6: Cấu trúc thị trường
ECO101_Bai6_v1.0012112220 141
dài hạn. Tại vị trí cân bằng dài hạn của doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo ta có điều
kiện sau:
P = LMC = LACmin
Trong đó LMC và LAC là các chi phí cận biên và chi phí bình quân dài hạn của doanh
nghiệp. Cần lưu ý rằng chi phí dài hạn luôn là chi phí tối ưu của doanh nghiệp. Như
vậy xu hướng thay đổi từ ngắn hạn sang dài hạn của một ngành cạnh tranh hoàn hảo là
quá trình sàng lọc những doanh nghiệp nào có chi phí không hợp lý. Hay nói một cách
khác, khi ngành cạnh tranh hoàn hảo đạt cân bằng dài hạn, các doanh nghiệp trong
ngành là những doanh nghiệp có chi phí hợp lý nhất và sẽ quyết định sản xuất tại mức
giá bằng với chi phí dài hạn bình quân tối thiểu.
LMC LAC
SAC
SMC
P
P1
P2
q1* q2* q2 q
(a)
Q
(b)
P
P1
P2
Q2Q1
S2
S1
D
Hình 6.8 Cân bằng dài hạn của doanh nghiệp và ngành CTHH
6.2.8. Cạnh tranh hoàn hảo và hiệu quả
Trong các phân tích trên chúng ta hình dung được một cách cơ bản nguyên tắc hoạt
động của thị trường cạnh tranh hoàn hảo và quyết định sản xuất của mỗi doanh nghiệp
trên thị trường đó. Tuy nhiên có một số vấn đề cần giải đáp liên quan đến lợi ích của
loại hình thị trường này đối với xã hội.
Một đặc điểm nổi bật có thể rút ra từ quyết định sản xuất của doanh nghiệp trong cấu
trúc cạnh tranh hoàn hảo là trong dài hạn doanh nghiệp sẽ sản xuất tại vị trí tối thiểu
của đường chi phí bình quân (xem hình 6.8a). Lợi nhuận kinh tế của các doanh nghiệp
cạnh tranh hoàn hảo bằng không trong dài hạn sẽ mang lại lợi ích lớn nhất cho người
mua. Điều này hàm ý rằng nếu chúng ta bỏ qua sự ảnh hưởng của các nhân tố khác
đến chi phí thì hao phí nguồn lực xã hội cho sản xuất hàng hóa dịch vụ trong cạnh
tranh hoàn hảo là thấp nhất.
Bên cạnh đó do đặc điểm chấp nhận giá thị trường của các doanh nghiệp trong cấu
trúc cạnh tranh hoàn hảo, thị trường này luôn tạo ra giải pháp phân bổ nguồn lực tối
đa hóa phúc lợi xã hội như minh họa trong hình 6.9. Bất kỳ một sự phân bổ nào khác
sự phân bổ này đểu thể hiện rằng phần gia tăng lợi ích của một bên (bên bán hoặc bên
mua) phải trả giá bằng phần lợi ích giảm xuống của bên còn lại và tạo ra một phần tổn
thất vô ích cho xã hội.
Bài 6: Cấu trúc thị trường
142 ECO101_Bai6_v1.0012112220
S
P
PE
QE Q
D
Thặng dư
tiêu dùng
Thặng dư
sản xuất
Hình 6.9. Cạnh tranh hoàn hảo và hiệu quả phân bổ
Tuy nhiên, thị trường cạnh tranh hoàn hảo cũng tồn tại một số hạn chế khi so sánh với
các mô hình thị trường khác ở phần sau. Thứ nhất, sự đồng nhất tuyệt đối của sản
phẩm trong cạnh tranh hoàn hảo sẽ làm giảm khả năng lựa chọn của người mua và do
đó giảm cầu đối với sản phẩm. Thứ hai, việc có quá nhiều doanh nghiệp dẫn đến mỗi
doanh nghiệp không có sức mạnh thị trường và quy mô sản lượng của doanh nghiệp
quá nhỏ. Điều này sẽ triệt tiêu sự ảnh hưởng của tính kinh tế nhờ quy mô và do đó mỗi
doanh nghiệp có thể sản xuất sản phẩm của mình với giá thành cao. Trên thực tế sự
ảnh hưởng của tính kinh tế nhờ quy mô làm cho mô hình cạnh tranh hoàn hảo khó có
thể tồn tại. Qua quá trình hoạt động một số doanh nghiệp sẽ lớn lên, sẽ mở rộng quy
mô và do đó sẽ có lợi thế trong định giá sản phẩm. Các doanh nghiệp còn lại sẽ bị loại
khỏi thị trường do quy mô nhỏ, giá thành cao. Thứ ba, với lợi nhuận kinh tế nhỏ hoặc
bằng không sẽ ràng buộc các doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo trong việc đầu tư cho
hoạt động nghiên cứu triển khai nhằm cải tiến sản phẩm, cải tiến quá trình sản xuất
v.v. và như vậy xã hội sẽ không được thụ hưởng phần lợi ích từ hoạt động này.
6.3. Độc quyền
6.3.1. Các loại độc quyền
Độc quyền bán
Thị trường bao gồm một người bán duy nhất đối với
một loại sản phẩm không có sản phẩm thay thế gần
gũi và nhiều người mua. Ví dụ: ngành điện Việt Nam.
Độc quyền mua
Thị trường với nhiều người bán sản phẩm nhưng có duy nhất một người mua. Ví dụ:
thị trường lao động của ngành quân sự, cảnh sát ở một số quốc gia.
Trong phạm vi của chương trình này chúng ta chỉ đi vào phân tích đặc điểm và
nguyên tắc quyết định sản xuất của thị trường độc quyền bán.
Bài 6: Cấu trúc thị trường
ECO101_Bai6_v1.0012112220 143
6.3.2. Các nguyên nhân dẫn đến độc quyền bán
Một doanh nghiệp có thể được lợi thế độc quyền bán nhờ một số nguyên nhân cơ bản sau:
Tính kinh tế của quy mô. Một doanh nghiệp đạt được tính kinh tế của quy mô do
việc mở rộng sản lượng sẽ loại bỏ được các đối thủ và cuối cùng sẽ là người bán
duy nhất trên thị trường nếu mức sản lượng có chi phí bình quân dài hạn tối thiểu
của nó là đủ lớn để đáp ứng cầu thị trường.
Bằng phát minh sáng chế (bản quyền). Luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, bằng phát
minh sáng chế cho phép các nhà sản xuất có thể có được vị trí độc quyền bán
về một sản phẩm hoặc một quy trình công nghệ mới trong một khoảng thời gian
nhất định.
Kiểm soát các yếu tố sản xuất. Một doanh nghiệp có thể có được vị trí độc quyền
bán nhờ quyền sở hữu một loại đầu vào (nguyên liệu) ưu việt để sản xuất một loại
sản phẩm nào đó.
Quy định của chính phủ. Một doanh nghiệp có thể trở thành độc quyền hợp pháp nếu
nó là người duy nhất được cho phép sản xuất kinh doanh một loại sản phẩm, dịch vụ
nào đó.
Ví dụ: EVN, Tổng công ty đường sắt Việt Nam, Tổng công ty bưu chính.
6.3.3. Đường cầu và doanh thu cận biên của doanh nghiệp độc quyền bán
Độc quyền bán là người bán sản phẩm duy nhất trên thị trường, do đó đường cầu thị
trường lúc này là đường cầu đối với sản phẩm của doanh nghiệp độc quyền đó. Đây là
đường có độ dốc âm phản ánh hành vi của tất cả những người mua trên thị trường và
tuân theo luật cầu đã được trình bày ở bài 2. Đây cũng chính là đường doanh thu bình
quân của doanh nghiệp độc quyền (AR = TR/Q = P).
Do đường cầu của doanh nghiệp có độ dốc âm nên trong trường hợp này sẽ có sự khác
biệt giữa giá bán sản phẩm (doanh thu bình quân) và doanh thu cận biên. Ta xem xét
ví dụ giả định trong bảng 6.1 để thấy rõ mối quan hệ này.
Bảng 6.1: Tổng doanh thu, doanh thu bình quân và doanh thu cận biên
Giá (P)
Sản lượng
(Q)
Tổng doanh thu
(TR = P.Q)
Doanh thu bình
quân (AR=TR/Q)
Doanh thu cận biên
(MR = ÄTR/ÄQ)
10 1 10 10 10
9 2 18 9 8
8 3 24 8 6
7 4 28 7 4
6 5 30 6 2
5 4 20 5 0
Giá (doanh thu bình quân) luôn lớn hơn doanh thu cận biên trừ đơn vị sản lượng đầu
tiên vì tất cả các đơn vị đều được bán tại cùng một mức giá. Tăng lượng bán thêm một
đơn vị thì giá phải giảm xuống, như vậy tất cả các đơn vị bán ra đều phải giảm giá chứ
không phải chỉ một đơn vị tăng thêm. Đường doanh thu cận biên vì thế luôn nằm dưới
đường cầu, trừ điểm đầu tiên, như mô tả trên hình 6.10.
Bài 6: Cấu trúc thị trường
144 ECO101_Bai6_v1.0012112220
Doanh thu binh quân
(đườngcầu)
Sản lượng
Giá ($ đơn vị
sản lượng
Doanh thu
biên
Hình 6.10: Đường cầu và doanh thu cận biên của doanh nghiệp độc quyền
6.3.4. Quyết định sản xuất của doanh nghiệp độc quyền bán
Là người sản xuất duy nhất đối với một loại sản phẩm, nhà độc quyền bán có khả
năng kiểm soát toàn diện đối với số lượng sản phẩm đưa ra bán. Nhưng điều này
không có nghĩa là nó muốn đặt giá cao bao nhiêu cũng được vì mục đích của nó là tối
đa hoá lợi nhuận. Đặt giá cao sẽ có ít người mua và lợi nhuận thu được sẽ ít hơn. Với
giả định nhà độc quyền luôn hướng tới mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, ta có nguyên tắc
quyết định sản xuất của nhà độc quyền như sau:
Doanh thu cận biên (MR) = Chi phí cận biên (MC)
Quyết định sản xuất tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp độc quyền có thể được
biểu diễn như hình 6.11. Tại vị trí MR = MC, doanh nghiệp độc quyền sẽ sản xuất
mức sản lượng Q* và giá bán mỗi đơn vị sản phẩm là P*. Với mọi mức sản lượng Q <
Q*, khi doanh thu cận biên còn lớn hơn so với chi phí cận biên, doanh nghiệp có thể
làm tăng lợi nhuận bằng cách tăng sản lượng sản xuất. Ngược lại, khi Q > Q* - doanh
thu cận biên nhỏ hơn so với chi phí biên – doanh nghiệp có thể làm tăng lợi nhuận
bằng cách giảm sản lượng sản xuất. Q* là mức sản lượng mang lại lợi nhuận tối đa
cho doanh nghiệp.
Phần lợi nhuận mất đi từ việc
sản xuất quá nhiều (Q2) và bán
tại mức giá quá cao (P2)
Phần lợi nhuận mất
đi từ việc sản xuất
quá nhiều (Q1) và
bán tại mức giá
quá cao (P1)
Sản lượng
Giá
Hình 6.11. Quyết định của doanh nghiệp độc quyền
Bài 6: Cấu trúc thị trường
ECO101_Bai6_v1.0012112220 145
6.3.5. Quy tắc định giá của doanh nghiệp độc quyền bán
Với giả định về mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp độc quyền ta có
nguyên tắc quyết định sản lượng độc quyền như phân tích ở trên. Từ nguyên tắc này
chúng ta có thể xây dựng được quy tắc định giá của doanh nghiệp độc quyền như sau:
Ta có: MR = MC
Theo tinh chất của doanh thu cận biên (MR)
d
TR (PQ)MR
Q Q
P Q Q P Pp Q
Q Q
Q P 1P(1 ) P(1 )
P Q E
Đặt MR = MC ta được:
d
d
1P(1 ) MC
E
MCP
1 1/ E
Qua quy tắc định giá đơn giản này của doanh nghiệp độc quyền ta có thể thấy rằng giá
bán sản phẩm về cơ bản phụ thuộc vào 2 yếu tố: chi phí cận biên của doanh nghiệp
(cân lưu ý rằng chi phí này không phụ thuộc vào chi phí cố định) và hệ số co giãn của
cầu theo giá đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Như vậy nếu cùng điều kiện chi phí,
khi khách hàng phản ứng càng yếu trước sự thay đổi giá thì khoảng cách giữa giá và
chi phí cận biên càng lớn. Hay khi đó tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp càng lớn.
6.3.6. Đường cung của doanh nghiệp độc quyền bán
P
P
MC
MC
D1
D2
MR2
MR1
D1
D2
MR1
MR2
P
P1
P2
Q Q2 Q1
(b)(a)
Hình 6.12. Quan hệ giữa giá - sản lượng trong quyết định sản xuất độc quyền
Bài 6: Cấu trúc thị trường
146 ECO101_Bai6_v1.0012112220
Doanh nghiệp độc quyền với đặc điểm là người bán duy nhất trên thị trường sẽ là
người đặt giá bán sản phẩm chứ không hành xử như một người chấp nhận giá như
trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Đường cầu thị trường phản ánh hành vi của
khách hàng trùng với đường cầu về sản phẩm của doanh nghiệp trong thị trường độc
quyền. Điều này sẽ dẫn đến hiên tượng không tồn tại mối quan hệ tương ứng giữa giá
bán và sản lượng trong quyết định sản xuất của doanh nghiệp độc quyền. Một mức giá
có thể tương ứng với nhiều mức sản lượng hoặc ngược lại. Sự gia tăng hoặc giảm sút
của giá bán có thể không dẫn đến hiện tượng mở rộng hay thu hẹp sản xuất theo đúng
luật cung của doanh nghiệp độc quyền. Hay nói cách khác không tồn tại đường cung
sản phẩm của doanh nghiệp độc quyền.
Trên hình 6.12, minh họa 2 trường hợp chỉ ra sự vi phạm luật cung trong quyết định
sản xuất của doanh nghiệp độc quyền. Hình 6.12a cho thấy khi cầu thị trường thay đổi
chỉ làm thay đổi giá bán sản phẩm mà không làm thay đổi sản lượng cung ứng của
doanh nghiệp độc quyền. Ngược lại hình 6.12b cho thấy hiện tượng ngược lại.
6.3.7. Sức mạnh độc quyền và tổn thất của xã hội
Những phân tích ở trên cho thấy thị trường độc quyền có những nguyên tắc hoàn toàn
khác so với thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Doanh nghiệp độc quyền với sức mạnh thị
trường của người bán duy nhất sẽ là người đặt giá bán sản phẩm và quyết định tại mức
sản lượng mang lại lợi nhuận tối đa. Để đo lường sức mạnh đó của doanh nghiệp cũng
như đánh giá những tổn thất mà nó gây ra cho xã hội, chúng ta xem xét một số chỉ tiêu
sau đây:
Đo lường sức mạnh độc quyền
Những phân tích về thị trường cạnh tranh hoàn hảo ở phần trên cho thấy mỗi doanh
nghiệp hoạt động không có sức mạnh thị trường. Do đó các doanh nghiệp này luôn
quyết định theo nguyên tắc giá bằng chi phí cận biên. Ngược lại, phân tích về quy tắc
định giá của doanh nghiệp độc quyền cho thấy luôn có sự khác biệt giữa giá bán và
chi phí cận biên và khác biệt này phụ thuộc vào hệ số co giãn của cầu theo giá. Như
vậy chúng ta có thể sử dụng sự khác biệt này để đo lường sức mạnh thị trường – khả
năng thay đổi giá bán sản phẩm – của doanh nghiệp độc quyền.
Trên cơ sở đó Abba Lerner (1934) xây dựng chỉ số phản ánh sức mạnh độc quyền, hay
sau đó được gọi lai chỉ số Lerner, như sau:
P MCL 0 L 1
P
Giá trị của chỉ số Lerner (L) càng lớn (gần 1) sự chênh lệch giữa giá và chi phí cận
biên càng lớn hay sức mạnh của doanh nghiệp độc quyền càng lớn. Ngược lại, L càng
nhỏ hàm ý sức mạnh của doanh nghiệp càng nhỏ. Ví dụ, mỗi doanh nghiệp cạnh tranh
hoàn hảo có L bằng 0.
Tổn thất của xã hội do sức mạnh độc quyền
Cạnh tranh hoàn hảo, một cấu trúc lý tưởng của mô hình cổ điển cho thấy giá bán sản
phẩm bằng với chi phí cận biên và luôn tạo ra lợi ích xã hội lớn nhất. Bất kỳ một sự vi
phạm nào đối với các giả định của thị trường cạnh tranh hoàn hảo đều tạo ra những
tổn thất cho xã hội. Doanh nghiệp độc quyền luôn đưa ra mức giá lớn hơn và do đó sẽ
Bài 6: Cấu trúc thị trường
ECO101_Bai6_v1.0012112220 147
cung ứng mức sản lượng thấp hơn so với trường hợp cạnh tranh hoàn hảo. Điều này
dẫn đến việc người mua bị thiệt hại, ngược lại doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận cao
hơn so chiếm dụng lợi ích của người mua. Hơn nữa quyết định độc quyền sẽ gây ra
một phần tổn thất về lợi ích mà không có bên nào thu được.
Phần thặng dư tiêu dùng mất đi
Phần mất trắng
MC
Sản lượng
Hình 6.13. Tổn thất vô ích do sức mạnh độc quyền
Hình 6.13 cho thấy, quyết định đặt giá cao hơn chi phí cân biên (Pm) sẽ làm giảm
thặng dư tiêu dùng một phần là (A+B). Trong phần lợi ích giảm xuống này có một
phần được chuyển sang thành thặng dư sản xuất của doanh nghiệp độc quyền (A). Tuy
nhiên việc doanh nghiệp độc quyền bán giá cao hơn so với chi phí biên dẫn đến sản
lượng giảm xuống thành Qm cũng sẽ làm giảm thặng dư sản xuất một phần (C). Như
vậy ta có thể thấy rằng quyết định của độc quyền đã làm giảm lợi ích xã hội một phần
(B+C) so với quyết định trong trường hợp cạnh tranh hoàn hảo. Phần này còn được
gọi là phần mất không do sức mạnh độc quyền (DWL).
6.3.8. Các hình thức phân biệt giá của độc quyền
Doanh nghiệp độc quyền với lợi thế là người bán duy nhất trên thị trường luôn đặt giá
bán sản phẩm để thu được lợi nhuận lớn nhất như những nguyên tắc chúng ta phân
tích ở trên. Tuy nhiên trong một số tình huống doanh nghiệp độc quyền vẫn có khả
năng làm gia tăng lợi nhuận của mình bằng cách sử dụng một số chính sách phân biệt
đối xử với khách hàng bằng giá. Để có thể thấy được cách thức thực hiện của doanh
nghiệp độc quyền trong những tình huống này chúng ta xem xét một số hình thức
phân biệt giá cơ bản sau:
6.3.8.1. Phân biệt giá cấp một
Hay còn được gọi là phân biệt giá hoàn hảo, được hiểu là doanh nghiệp độc quyền
thực hiện việc phân biệt đối xử với từng khách hàng riêng rẽ bằng giá. Doanh nghiệp
sẽ đặt cho mỗi khách hàng khác nhau một mức giá tương ứng với mức giá tối đa mà
khách hàng đó sẵn sàng chi trả cho một đơn vị đơn vị sản phẩm.
Bài 6: Cấu trúc thị trường
148 ECO101_Bai6_v1.0012112220
Để rõ ràng chúng ta xem xét ví dụ giả định sau đây, TR1 và MR1 là các giá trị tổng
doanh thu và doanh thu cận biên khi doanh nghiệp bán cho tất cả các khách hàng một
mức giá thống nhất. TR2 và MR2 là các giá trị tổng doanh thu và doanh thu cận biên
khi doanh nghiệp thực hiện phân biệt giá cấp một. Đặt mức giá bán riêng cho tong
khách hàng độc lập bằng với mức giá tối đa mà khách hàng đó sẵn sàng trả. Cần lưu ý
rằng trong trường hợp doanh nghiệp thực hiện phân biệt giá cấp một thì giá bán (P) và
doanh thu cận biện (MR2) là như nhau.
P Q TR1 MR1 TR2 MR2
10 1 10 10 10 10
9 2 18 9 19 9
8 3 24 8 27 8
7 4 28 7 34 7
6 5 30 6 40 6
5 4 20 5 45 5
Dựa trên quan niệm nói trên về phân biệt giá cấp một chúng ta xem xét quyết định của
doanh nghiệp độc quyền bằng hình 6.14. Do đặc điểm giá bán bằng với doanh thu cận
biên khi doanh nghiệp thực hiện phân biệt giá, ta có đường doanh thu cận biên của
doanh nghiệp lúc này trùng với đường cầu. Sản lượng mà doanh nghiệp bán ra khi
thực hiện phân biệt giá cấp một là Q** được xác định theo nguyên tắc P = MC. Doanh
nghiệp đặt cho mỗi khách hàng mỗi mức giá tương ứng với mức giá tối đa mà họ chấp
nhận trả. Các mức giá đó sẽ nằm trong khoảng từ giá cực đại cho đến PC. Việc phân
biệt giá như vậy sẽ làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp tăng lên thêm một phân như
trên hình 6.14. Phần lợi nhuận này thực chất là việc doanh nghiệp chiếm dụng thặng
dư tiêu dùng của khách hàng. Trong trường hợp phân biệt giá cấp một, thặng dư tiêu
dùng sẽ bằng 0.
Để có thể thực hiện được hình thức phân biệt giá này thì tính chất của sản phẩm cần
đảm bảo rằng các khách hàng không thể bán lại khi đã mua ở mức giá thấp hơn. Do đó
hình thức này thường được áp dụng trong các ngành dịch vụ như: y tế, tư vấn luật,
nghiên cứu thị trường, đào tạo...
Thặng dư tiêu dùng khi
giá cấp một P* thay đổi
Phần lợi nhuận thay đổi khi
giá cấp một P* thay đổi
Lợi nhuận tăng thêm từ việc
phân biệt giá hoàn hảo
Sản lượng
Giá
cực đại
Hình 6.14. Phân biệt giá cấp một (hoàn hảo) của doanh nghiệp độc quyền
Bài 6: Cấu trúc thị trường
ECO101_Bai6_v1.0012112220 149
6.3.8.2. Phân biệt giá cấp hai
Trong một số thị trường, mỗi người tiêu dùng mua nhiều đơn vị hàng hoá trong một
khoảng thời gian xác định và cầu của người tiêu dùng giảm dần theo số đơn vị đã
mua. Khi tiêu dùng tăng lên thì mức giá sẵn sàng thanh toán của họ giảm dần. Trong
trường hợp này doanh nghiệp có thể phân biệt đối sử theo số lượng tiêu dùng. Đó là
phân biệt giá cấp hai. Thực chất của phân biệt giá cấp hai là đặt các mức giá khác
nhau cho các số lượng hoặc các khối lượng khác nhau của cùng một hàng hoá hoặc
dịch vụ.
1st Block 2st Block 3st Block
Hình 6.15. Phân biệt giá cấp hai của doanh nghiệp độc quyền
Hình 6.15 biểu thị 3 "khối" với ba mức giá tương ứng là P1, P2, P3. Hình thức phân
biệt giá này thường được áp dụng trong trường hợp doanh nghiệp có được tính kinh tế
của quy mô. Ví dụ như các ngành: điện, nước, dịch vụ viễn thông. Tổng chi phí bình
quân và chi phí cận biên lúc này có xu hướng giảm dần. Phân biệt giá cấp hai có thể
làm cho người tiêu dùng có lợi bằng việc mở rộng sản lượng và hạ thấp chi phí.
6.3.8.3. Phân biệt giá cấp ba
Hình thức phân biệt giá cấp 3 được hiểu là việc doanh nghiệp phân chia khách hàng ra
thành hai hoặc nhiều nhóm khác nhau với các đường cầu riêng biệt. Đây là hình thức
phân biệt giá phổ biến nhất (áp dụng trong các ngành như dịch vụ hàng không, đồ ăn
sẵn, rượu...). Các mức giá và sản lượng tối ưu được đặt sao cho doanh thu cận biên từ
mỗi nhóm đều bằng chi phí cận biên.
Hình 6.16 cho thấy nhóm 1 có đường cầu D1 bị đặt giá P1, nhóm 2 với đường cầu D2
bị đặt giá P2. Chi phí cận biên phụ thuộc vào tổng sản lượng sản xuất ra (QT).
Bài 6: Cấu trúc thị trường
150 ECO101_Bai6_v1.0012112220
MC
P
QT MRT
P1
D1
MR1
P2
D2
Q1 Q2
DT
MR2
Q
Hình 6.16. Phân biệt giá cấp ba của doanh nghiệp độc quyền
Lưu ý rằng chi phí cận biên phụ thuộc vào tổng sản lượng sản xuất ra, còn Q1 và Q2
phải được chọn sao cho MR1 = MR2 = MCQT. Mức độ khác biệt về giá giữa hai thị
trường 1 và 2 có thể được xác định dựa trên công thức sau:
21
2
1
11
EP
P 11
E
Trong đó E1 và E2 lần lượt các hệ số co giãn của cầu theo giá tương ứng với khách
hàng trên các thị trường 1 và 2. Công thức này cho thấy nhóm khách hàng nào phản
ứng yếu hơn trước sự thay đổi giá sẽ chịu mức giá cao hơn và ngược lại.
Việc phân biệt đối xử với các nhóm khách hàng khác nhau bằng giá có thể thực hiện
được nếu đảm bảo được các điều kiện sau đây: (i) Thị trường tổng thể của doanh
nghiệp có thể được phân chia thành nhiều đoạn thị trường nhỏ với mức độ co giãn so
với giá khác nhau; (ii) Các đoạn thị trường nhỏ là hoàn toàn tách biệt nhau, người mua
không thể thực hiện việc chuyển dịch sản phẩm.
6.4. Cạnh tranh độc quyền
6.4.1. Đặc điểm của thị trường cạnh tranh độc quyền
Có nhiều ngành trong đó các doanh nghiệp tạo ra những sản phẩm khác nhau. Vì lý do
này hoặc lý do khác, người tiêu dùng coi mặt hàng của mỗi doanh nghiệp khác của các
doanh nghiệp khác. Sự khác nhau của sản phẩm không nhất thiết là có thực, có thể
chỉ do người tiêu dùng nghĩ ra. Chính vì thế một số người tiêu dùng sẽ trả giá cao hơn
cho sản phẩm mà mình thích.
Thị trường cạnh tranh độc quyền về cơ bản rất gần với cấu trúc cạnh tranh hoàn hảo
tuy nhiên nó có hai đặc trưng cơ bản sau:
Bài 6: Cấu trúc thị trường
ECO101_Bai6_v1.0012112220 151
Thứ nhất, các doanh nghiệp cạnh tranh với
nhau bằng việc bán các sản phẩm khác nhau, có
thể thay thế được cho nhau ở mức độ cao,
nhưng không phải là thay thế hoàn hảo. Hay, độ
co giãn của cầu theo giá chéo là cao chứ không
phải là vô cùng.
Thứ hai, hàng rào gia nhập thị trường là thấp.
Các doanh nghiệp mới tham gia thị trường
tương đối dễ dàng vì không có sự cấu kết của các doanh nghiệp đang ở trong
ngành để ngăn chặn sự gia nhập mới, các doanh nghiệp đang ở trong ngành
rút khỏi thị trường tương đối dễ khi việc quyết định sản xuất không mang lại
lợi nhuận.
6.4.2. Quyết định sản xuất của doanh nghiệp cạnh tranh độc quyền
Trong thị trường cạnh tranh độc quyền mỗi doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm khác
biệt do đó đường cầu đối với sản phẩm của mỗi doanh nghiệp là đường dốc xuống,
phản ánh sức mạnh thị trường của mối doanh nghiệp. Điều đó có nghĩa là nếu doanh
nghiệp tăng giá bán sản phẩm sẽ mất đị một bộ phận khách hàng chứ không phải toàn
bộ và ngược lại nếu doanh nghiệp giảm giá sẽ thu hút được một số lượng nhất định
khách hàng của các doanh nghiệp đối thủ chứ không phải toàn bộ. Ta có thể nói doanh
nghiệp cạnh tranh độc quyền có sức mạnh thị trường ở một mức độ nhất định nhưng
không phải tuyệt đối như trường hợp độc quyền.
Quyết định sản xuất của doanh nghiệp cạnh tranh độc quyền cũng giống như trên sẽ
tuân theo nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận. Doanh nghiệp sẽ quyết định tại mức sản
lượng mà doanh thu cận biên bằng với chi phí cận biên.
Trong ngắn hạn, doanh nghiệp cạnh tranh độc quyền sẽ quyết định sản xuất tại mức
sản lượng Q*SR và giá bán P* như trên hình 6.17 - giống như nguyên tắc của trường
hợp độc quyền. Tại đó doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận kinh tế dương trong ngắn
hạn và gây ra cho xã hội một phần tổn thất vô ích (DWL).
MC
ATC
D
MR
P*
ATC*
Q*SR Q
P
Hình 6.17. Quyết định sản xuất ngắn hạn của DN cạnh tranh độc quyền
Bài 6: Cấu trúc thị trường
152 ECO101_Bai6_v1.0012112220
Trong dài hạn, với đặc điểm hàng rào gia nhập thị trường thấp, lợi nhuận kinh tế
dương trong ngắn hạn của các doanh nghiệp hiện đang ở trong ngành sẽ thúc đẩy sự
tham gia của các doanh nghiệp khác vào ngành. Sự gia nhập mới này sẽ làm cho
đường cầu về sản phẩm của mỗi doanh nghiệp trong ngành giảm xuống dẫn đến giá
bán sản phẩm giảm. Do đó lợi nhuận kinh tế của các doanh nghiệp trong ngành bị suy
giảm. Cân bằng dài hạn đạt được khi đường cầu về sản phẩm của doanh nghiệp tiếp
xúc với đường chi phí bình quân ATC như biểu diễn trên hình 6.18. Khi đó lợi nhuận
kinh tế của các doanh nghiệp bằng 0. Không còn có động cơ thúc đẩy sự tham gia của
các doanh nghiệp khác. Một đặc điểm cần lưu ý là doanh nghiệp cạnh tranh độc quyền
sẽ sản xuất với công suất thừa trong dài hạn. Sản lượng cân bằng dài hạn (Q*LR) luôn
nhỏ hơn so với mức sản lượng Q’ tương ứng với mức ATCmin (sản lượng cân bằng dài
hạn trong cạnh tranh hoàn hảo).
MC
ATC
Q*LR
P*
DLR
G
D
Q’ Q
P
MR
Hình 6.18. Cân bằng dài hạn của doanh nghiệp cạnh tranh độc quyền
6.5. Độc quyền tập đoàn
6.5.1. Đặc điểm của thị trường độc quyền tập đoàn
Chỉ có một số ít doanh nghiệp cạnh tranh trực tiếp sản xuất toàn bộ hay hầu hết
mức cung của thị trường về một loại sản phẩm dịch vụ nào đó.
Sản phẩm có thể giống hoặc khác nhau. Trường hợp sản phẩm giống nhau được
gọi là độc quyền tập đoàn thuần túy, trường hợp sản phẩm khác nhau được gọi là
độc quyền tập đoàn phân biệt.
Sức mạnh thị trường của mỗi doanh nghiệp là tương đối lớn.
Hàng rào gia nhập thị trường là cao. Đó có thể là hàng rào về độc quyền công nghệ
sản xuất, lợi thế chi phí tuyệt đối hay đòi hỏi về vốn.
Giữa các doanh nghiệp độc quyền tập đoàn có sự phụ thuộc chặt chẽ lần nhau. Mối
doanh nghiệp khi đưa ra quyết định đều phải cân nhắc đến phản ứng của các đối
thủ cạnh tranh. Sự thay đổi giá bán, sản lượng của một doanh nghiệp sẽ dẫn đến sự
thay đổi của các đối thủ cạnh tranh khác.
Bài 6: Cấu trúc thị trường
ECO101_Bai6_v1.0012112220 153
6.5.2. Mô hình đường cầu gãy
Như ta đã biết trong thị trường độc quyền tập đoàn, một số ít doanh nghiệp phân chia
phần lớn lượng cung của thị trường. Hay nói cách khác, mỗi doanh nghiệp độc quyền
tập đoàn có một thị phần nhất định và tồn tại sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên
thị trường.
Để cạnh tranh, một doanh nghiệp độc quyền tập đoàn thường sử dụng các chính sách
Marketing và thay đổi giá bán sản phẩm. Tuy nhiên do sự phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau
nên việc một doanh nghiệp có những hành vi như vậy sẽ gặp phải sự phản ứng của các
đối thủ và do đó trong thị trường độc quyền thường có sự cứng nhắc trong quyết định
về giá bán, sản lượng v.v. của các doanh nghiệp khi thị trường đã ổn định. Một trong
những mô hình thường được sử dụng để giải thích tính chất này của thị trường độc
quyền tập đoàn là mô hình đường cầu gãy. Nội dung cơ bản của mô hình này có thể
hiểu như sau:
Nếu doanh nghiệp tăng giá bán sản phẩm thì các đối thủ khác sẽ không phản ứng
gì. Do đó khách hàng sẽ rất nhạy cảm việc tăng giá bán của doanh nghiệp. Miền
đường cầu tương ứng với phần tăng giá của doanh nghiệp là co giãn (|EDP|>1).
Nếu doanh nghiệp giảm giá bán sản phẩm thì các đối thủ khác cũng sẽ giảm giá họ
do nguy cơ mất thị phần. Tình huống này còn được gọi là “chiến tranh giá”. Khi
thị trường rơi vào “chiến tranh giá” thì lợi ích của tất cả các doanh nghiệp đều bị
phương hại. Trong tình huống này khách hàng sẽ kém nhạy cảm với sự giảm giá
bán của doanh nghiệp. Miền đường cầu tương ứng với phần giảm giá của doanh
nghiệp là không co giãn (|EDP|<1). Khi thị trường rơi vào tình huống này lợi ích
của tất cả các doanh nghiệp đều bị phương hại.
Như vậy cả 2 xu hướng trên đều cho thấy việc thay đổi giá của doanh nghiệp đều làm
giảm doanh thu của doanh nghiệp như biểu diễn trên hình 6.19. Với mức giá ban đầu
P2, việc doanh nghiệp tăng giá lên P1 hay giảm xuống P3 đều làm giảm doanh thu.
Đường cầu về sản phẩm của mỗi doanh nghiệp tập đoàn sẽ gãy tại vị trí giá ban đầu
(điểm A).
A
B
C
D
Q
P
QB QA QC QD
P1
P2
P3
Hình 6.19. Mô hình đường cầu gãy
Bài 6: Cấu trúc thị trường
154 ECO101_Bai6_v1.0012112220
Đường cầu gãy này là sự kết hợp của 2 miền đường cầu với 2 mức độ co giãn theo giá
khác nhau phụ thuộc vào hành vi của đối thủ cạnh tranh. Đường d1 tương ứng với
miền co giãn của đường cầu khi doanh nghiệp tăng giá. Đường d2 ngược lại tương ứng
với miền không co giãn của đường cầu khi doanh nghiệp giảm giá. Như vậy đường
doanh thu cận biên (MR) của doanh nghiệp phụ thuộc vào đường cầu gãy khúc này sẽ
bị gián đoạn như minh họa trên hình 6.20. Quyết định đưa ra của doanh nghiệp độc
quyền tập đoàn (P*, Q*) vẫn hoàn toàn tuân theo nguyên tắc tối ưu (MR=MC). Sự
cứng nhắc về giá trên thị trường này còn thể hiện qua việc ngay cả khi có sự thay đổi
về chi phí (ví dụ chi phí cận biên dao động trong khoảng từ MC1 đến MC2), doanh
nghiệp vẫn bán sản phẩm tại mức giá P*. Mức giá này chỉ thay đổi khi chi phí thay
đổi ra ngoài biên độ đó.
MC1
MC2
d2
MR Q
P*
P
Q*
0
MC
d1
Hình 6.20. Giá cả kém linh hoạt
Bài 6: Cấu trúc thị trường
ECO101_Bai6_v1.0012112220 155
Tóm lược cuối bài
Các tiêu thức sử dụng để phân loại các cấu trúc thị trường.
Nguyên tắc quyết định giá bán, sản lượng của các doanh nghiệp trong các mô hình thị trường
khác nhau.
Mối quan hệ giữa mục tiêu của doanh nghiệp và lợi ích xã hội trong các cấu trúc thị trường
khác nhau.
Sự phụ thuộc về hành vi chiến lược giữa các doanh nghiệp trên thị trường.
Bài 6: Cấu trúc thị trường
156 ECO101_Bai6_v1.0012112220
Câu hỏi ôn tập
1. So sánh giữa hai mô hình thị trường cạnh tranh hoàn hảo và độc quyền bán. Tại sao nói khó
có thể tồn tại mô hình cạnh tranh hoàn hảo trong thực tiễn kinh doanh?
2. Tại sao nói trong dài hạn các doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo có lợi nhuận kinh tế bằng
không?
3. Hãy phân tích những ưu nhược điểm của hai mô hình cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh
mang tính độc quyền. Tại sao doanh nghiệp cạnh tranh độc quyền luôn sản xuất với công suất
thừa trong dài hạn?
4. Hãy phân tích những ưu, nhược điểm của thị trường độc quyền bán đối với xã hội. Tại sao
nói việc điều tiết độc quyền của Chính phủ là không dễ dàng?
5. Hãy phân tích sự phụ thuộc chặt chẽ giữa các doanh nghiệp độc quyền tập đoàn và tính cứng
nhắc của giá trong thị trường này? Lấy ví dụ về một thị trường thực tế mà bạn cho là gần gũi
nhất với cấu trúc này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_kinh_te_hoc_vi_mo_bai_6_cau_truc_thi_truong.pdf