Giáo trình Kinh tế thương mại - Bài 2, Phần 1: Quản lý nhà nước về thương mại - Nguyễn Thanh Phong

Cán cân thanh toán quốc tế và cán cân thương mại Cán cân thanh toán quốc tế: Là một loại tài khoản tổng hợp tất cả các dòng ngoại tệ vào và ra của đất nước trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Cán cân thanh toán quốc tế gồm cán cân thanh toán vãng lai (trao đổi hàng hoá và dịch vụ) và cán cân vốn (trao đổi vốn). Thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế khi dòng ngoại tệ đi ra lớn hơn dòng ngoại tệ đi vào. Thặng dư cán cân thanh toán quốc tế khi dòng ngoại tệ đi vào lớn hơn dòng ngoại tệ đi ra khỏi đất nước. Cán cân thương mại – Thành phần quan trọng nhất của cán cân vãng lai – là hệ số thanh toán giữa xuất khẩu và nhập khẩu hay sự chênh lệch xuất nhập khẩu. Khi kim ngạch xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu trong một khoảng thời gian (thường là một năm) thì gọi là xuất siêu, còn ngược lại gọi là nhập siêu. Trong hoạt động thương mại, giữ vững được cán cân thanh toán quốc tế và cán cân thương mại có ý nghĩa quan trọng góp phần chủ yếu củng cố nền độc lập dân tộc và tăng trưởng kinh tế. Nếu qua cán cân thanh toán quốc tế ta thấy được thực trạng về kinh tế – tài chính của một đất nước thì qua cán cân thương mại ta sẽ thấy rõ thực trạng về ngoại thương của một nước. Cán cân thanh toán quốc tế, cán cân thương mại có tác động mạnh đến hối đoái và do đó tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu. Thông thường, các nước đang phát triển đều là những nước ở trong tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế và nhập siêu. Nếu kim ngạch xuất khẩu nhỏ hơn 80% kim ngạch nhập khẩu và kéo dài thì nước đó tình hình kinh tế trở nên nghiêm trọng.

pdf29 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 254 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Kinh tế thương mại - Bài 2, Phần 1: Quản lý nhà nước về thương mại - Nguyễn Thanh Phong, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ược sản xuất trong nước tương ứng các hàng hóa nhập khẩu. Điều đó sẽ có lợi về mặt xã hội, tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng thuế quan nhập khẩu chưa hẳn là đáp ứng được mục tiêu mong muốn. 2.3.2. Các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh quan hệ thương mại Trong hệ thống thương mại thế giới, chính sách ngoại thương của một quốc gia có ảnh hưởng đến nhiều quốc gia khác, nhất là những quốc gia có nền kinh tế lớn. Do đó giữa các nước lớn với nhau cũng như giữa các nước nhỏ với các nước lớn trong quan hệ vừa hợp tác vừa cạnh trạnh trong buôn bán quốc tế đã xác lập những nguyên tắc chung để điều chỉnh các quan hệ buôn bán nhằm chống sự phân biệt đối xử, bảo đảm tính tương đối cân bằng và công bằng về lợi ích giữa các quốc gia trong thương mại quốc tế. Đến nay đã có các nguyên tắc sau đây được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ thương mại. 2.3.2.1. Không phân biệt đối xử  Đãi ngộ quốc gia (National Treatment – NT): Không được đối xử với hàng hóa và dịch vụ nước ngoài cũng như những người kinh doanh các hàng hóa và dịch vụ đó kém hơn mức độ đãi ngộ dành cho các đối tượng tương tự trong nước. Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia quy định tại Ðiều III Hiệp định GATT, Ðiều 17 GATS và điều 3 TRIPS. Trong khuôn khổ WTO, nguyên tắc NT chỉ áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ, các quyền sở hữu trí tuệ, chưa áp dụng đối với cá nhân và pháp nhân. Phạm vi phạm áp dụng của nguyên tắc NT đối với hàng hoá, dịch vụ và sở hữu trí tuệ có khác nhau. Ðối với hàng hoá và sở hữu trí tuệ việc áp dụng nguyên tắc NT là một nghĩa vụ chung (general obligation), có nghĩa là hàng hóa và quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài sau khi đã đóng thuế quan hoặc được đăng ký bảo vệ hợp pháp phải được đối xử bình đẳng như hàng hoá và quyền sở hữu trí tuệ trong nước đối với thuế và lệ phí nội địa, các quy định về mua, bán, phân phối, vận chuyển. Ðối với dịch vụ, nguyên tắc này chỉ áp dụng đối với những lĩnh vực, ngành nghề đã được mỗi nước đưa vào trong danh mục cam kết cụ thể của mình và mỗi nước có quyền đàm phán đưa ra những ngoại lệ (exception). Các nước, về nguyên tắc, không được áp đụng những hạn chế số lượng nhập khẩu và xuất khẩu, trừ những ngoại lệ được quy định rõ ràng trong các hiệp định của WTO, cụ thể đó là các trường hợp mất cân đối cán cân thanh toán (Ðiều XII và XVIII.b); nhằm mục đích bảo vệ ngành công nghiệp non trẻ trong nước Bài 2: Quản lý nhà nước về thương mại TXTMKT03_Bai2_v1.0014109226 25 (Ðiều XVIII.c); bảo vệ ngành sản xuất trong nước chống lại sự gia tăng đột ngột về nhập khẩu hoặc để đối phó với sự khan hiếm một mặt hàng trên thị trường quốc gia do xuất khẩu quá nhiều (Ðiều XIX); vì lý do sức khoẻ và vệ sinh (Ðiều XX) và vì lý do an ninh quốc gia (Ðiều XXI). Một trong những ngoại lệ quan trọng đối với nguyên tắc đãi ngộ quốc gia là vấn đề trợ giá cho sản xuất hoặc xuất hay nhập khẩu. Vấn đề này được quy định lần đầu tại điều VI và Ðiều XVI Hiệp định GATT 1947 và sau này được điều chỉnh trong thỏa thuận Vòng Tokyo 1979 và hiện nay trong Thỏa thuận Vòng đàm phán Uruguay về trợ cấp và thuế đối kháng, viết tắt theo tiếng Anh là SCM. Thỏa thuận SCM có một điểm khác biệt lớn so với GATT 1947 và Thỏa thuận Tokyo ở chỗ nó được áp dụng cho cả các nước phát triển và đang phát triển. Hiệp định mới về trợ giá phân chia các loại trợ giá làm 3 loại: loại ''xanh''; loại “vàng'' và loại ''đỏ'' theo nguyên tắc ''đèn hiệu giao thông'' (traffic lights). Riêng về vấn đề hạn chế số lượng đối với hàng dệt may được quy định trong Hiệp định Ða sợi (MFA) và hiện nay được thay thế bởi Hiệp định về hàng dệt may của vòng đàm phán Uruguay (ATC). Hiệp định ATC đã chấm dứt 30 năm các nước phát triển phân biệt đối xử đối với hàng dệt may của các nước đang phát triển. Các nước phát triển sẽ có một thời gian chuyển tiếp là 10 năm để bãi bỏ chế độ hạn ngạch về số lượng hiện hành. Ðiều 1 của Hiệp định ATC cũng quy định điều khoản cứu xét đặc biệt đối với một số nhóm nước. Ví dụ như các nước cung cấp nhỏ, các nước mới bước vào thị trường (new entrants), các nước phát triển nhất, các nước đã ký hiệp định MFA từ 1986 cũng như các nước xuất khẩu bông. Việc áp dụng quy chế đãi ngộ quốc gia trên thực tế gây ra rất nhiều tranh chấp giữa các bên ký kết GATT/WTO bởi một lý do dễ hiểu là nếu các nước dễ chấp nhận nguyên tắc đối xử bình đẳng đối với các nước thứ ba thì nước nào cũng muốn dành một sự bảo hộ nhất định đối với sản phẩm nội địa. Mục tiêu chính của nguyên tắc đãi ngộ quốc gia là tạo ra những điều kiện cạnh tranh bình đẳng giữa hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá nội địa cùng loại. Trong vụ Vênêxuêla kiện Mỹ về thuế môi trường đối với xăng dầu, bồi thẩm đoàn của GATT đã khẳng định lại Ðiều III 2 Hiệp định GATT quy định nghĩa vụ của các bên ký kết tạo những điều kiện cạnh tranh bình đẳng cho cả hàng hoá nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước. Trong vụ kiện khác mà Mỹ liên quan đến thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia, bồi thẩm đoàn của GATT đã khẳng định lại nguyên tắc việc áp dụng thuế nội địa, luật và quy định về mua bán vận chuyển phân phối và sử dụng hàng hoá không được mang tính chất bảo hộ hàng hoá sản xuất trong nước. Về vấn đề ''doanh nghiệp nhà nước độc quyền thương mại'', Hiệp định không cấm các bên ký kết thành lập hoặc duy trì những doanh nghiệp nhà nước kiểu như vậy nhưng phải bảo đảm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia vẫn được áp dụng đối với những doanh nghiệp này. Trong vụ Mỹ kiện Thái lan về những hạn chế số lượng và tăng thuế tiêu thụ đánh vào thuốc lá điếu nhập khẩu, Nhóm chuyên gia của GATT đã quyết định rằng Chính phủ Thái Lan có quyền thành lập ''Thai Tobacco Monopoly” Bài 2: Quản lý nhà nước về thương mại 26 TXTMKT03_Bai2_v1.0014109226 là công ty của Nhà nước độc quyền trong lĩnh vực nhập khẩu và phân phối thuốc lá Thái Lan và có quyền sử dụng công ty này để điều chỉnh giá cả và hệ thống bán lẻ thuốc lá. Tuy nhiên, ngược lại Thái Lan cũng có nghĩa vụ theo đãi ngộ quốc gia không được đối xử với thuốc lá nhập khẩu kém ưu đãi hơn so với thuốc lá sản xuất trong nước. Vì vậy, việc Thái Lan hạn chế nhập khẩu nguyên liệu sản xuất thuốc lá ngoại và tăng thuế tiêu thụ nội địa căn cứ vào tỷ lệ ''nội hoá'' trong thuốc lá là vi phạm Ðiều III của GATT về đãi ngộ quốc gia. Bồi thẩm đoàn của GATT đồng thời cũng bác bỏ lập luận của Thái Lan viện dẫn điều khoản cho phép hạn chế số lượng vì lý do sức khoẻ vì cho rằng mục tiêu thực sự của Chính phủ Thái Lan không phải là để hạn chế việc tiêu thụ thuốc lá nói chung (việc hạn chế nhập khẩu và tăng thuế không áp dụng đối với sợi và giấy để sản xuất thuốc lá nội địa) mà thực chất là nhằm bảo hộ ngành sản xuất thuốc lá của Thái Lan.  Đãi ngộ tối huệ quốc (Most favoured nation – MFN): Các ưu đãi thương mại của một thành viên dành cho một thành viên khác cũng phải được áp dụng cho tất cả các thành viên trong WTO. Tối huệ quốc là nguyên tắc pháp lý quan trọng nhất của WTO. Tầm quan trọng đặc biệt của MFN được thể hiện ngay tại Ðiều I của Hiệp định GATT (mặc dù bản thân thuật ngữ ''tối huệ quốc'' không được sử dụng trong điều này). Thông thường nguyên tắc MFN được quy định trong các hiệp định thương mại song phương. Khi nguyên tắc MFN được áp dụng đa phương đối với tất cả các nước thành viên WTO thì cũng đồng nghĩa với nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử vì tất cả các nước sẽ dành cho nhau sự ''đối xử ưu đãi nhất''. Nguyên tắc MFN trong WTO không có tính chất áp dụng tuyệt đối. Hiệp định GATT 1947 quy định mỗi nước có quyền tuyên bố không áp dụng tất cả các điều khoản trong Hiệp định đối với một nước thành viên khác (trường hợp Mỹ không áp dụng MFN đối với Cuba mặc dù Cuba là thành viên sáng lập GATT và WTO). Nếu như nguyên tắc MFN trong GATT 1947 chỉ áp dụng đối với ''hàng hoá'' thì trong WTO, nguyên tắc này đã được mở rộng sang thương mại dịch vụ (Ðiều 2 Hiệp định GATS) và sở hữu trí tuệ (Ðiều 4 Hiệp định TRIPS). Mặc dù được coi là ''hòn đá tảng'' trong hệ thống thương mại đa phương, Hiệp định GATT 1947 và WTO vẫn quy định một số ngoại lệ (exception) và miễn trừ (waiver) quan trọng đối với nguyên tắc MFN. Ví dụ như Ðiều XXIV của GATT quy định các nước thành viên trong các hiệp định thương mại khu vực có thể dành cho nhau sự đối xử ưu đãi hơn mang tính chất phân biệt đối xử với các nước thứ ba, trái với nguyên tắc MFN. GATT 1947 cũng có hai miễn trừ về đối xử đặc biệt và ưu đãi hơn với các nước đang phát triển. Miễn trừ thứ nhất là Quyết định ngày 25/6/1947 của Ðại hội đồng GATT về việc thiết lập ''Hệ thống ưu đãi phổ cập'' (GSP) chỉ áp dụng cho hàng hoá xuất xứ từ những nước đang phát triển và chậm phát triển. Trong khuôn khổ GSP, các nước phát triển có thể thiết lập một số mức thuế ưu đãi hoặc miễn thuế quan cho một số nhóm mặt hàng có xuất xứ từ các nước đang phát triển và chậm phát triển và không có nghĩa vụ phải áp dụng những Bài 2: Quản lý nhà nước về thương mại TXTMKT03_Bai2_v1.0014109226 27 mức thuế quan ưu đãi đó cho các nước phát triển khác theo nguyên tắc MFN. Miễn trừ thứ hai là Quyết định ngày 26/11/1971 của Ðại hội đồng GATT về ''Ðàm phán thương mại giữa các nước đang phát triển'', cho phép các nước này có quyền đàm phán, ký kết những hiệp định thương mại dành cho nhau những ưu đãi hơn về thuế quan và không có nghĩa vụ phải áp dụng cho hàng hoá đến từ các nước phát triển, trên cơ sở Quyết định này, Hiệp định về “Hệ thống ưu đãi thương mại toàn cầu giữa các nước đang phát triển (Global System of Trade preferences among developing Countries – GSPT) đã được ký năm 1989. Mặc dù được tất cả các nước trong GATT/WTO công nhận là nguyên tắc nền tảng nhưng thực tế cho thấy các nước, phát triển cũng như đang phát triển, không phải lúc nào cũng tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc MFN và đã có rất nhiều tranh chấp trong lịch sử của GATT liên quan đến việc áp dụng nguyên tắc này. Thực tế thì vi phạm của các nước đang phát triển dễ bị phát hiện và bị kiện nhiều hơn vi phạm của các nước phát triển. Năm 1981, Braxin đã kiện Tây Ban Nha ra trước GATT về thuế suất đặc biệt đối với cà phê chưa rang. Braxin cho rằng Nghị định 1764/79 của Tây Ban Nha quy định các mức thuế quan khác nhau đối với năm loại cà phê chưa rang khác nhau (cà phê Arập chưa rang, cà phê Robusta, cà phê Côlômbia, cà phê nhẹ và cà phê khác). Hai loại cà phê đầu được nhập khẩu miễn thuế, ba loại cà phê còn lại chịu mức thuế giá trị gia tăng là 7%. Sau khi xem xét nghị định nói trên, Nhóm chuyên gia của GATT đã đi đến kết luận như sau: ''Hiệp định GATT không quy định nghĩa vụ cho các bên ký kết phải tuân thủ một hệ thống phân loại hàng hoá đặc biệt nào. Tuy nhiên, Điều I.1 của GATT quy định nghĩa vụ của các Bên ký kết phải dành một sự đối xử như nhau cho những sản phẩm tương tự Lập luận của Tây Ban Nha biện minh cho sự cần thiết phải có sự đối xử khác nhau đối với từng loại cà phê khác nhau chủ yếu dựa trên những yếu tố như địa lý, phương pháp trồng trọt, quá trình thu hoạch hạt và giống. Những yếu tố này tuy có khác nhau nhưng không đủ để Tây Ban Nha có thể áp dụng những thuế suất khác nhau đối với từng loại cà phê khác nhau. Ðối với tất cả những người tiêu thụ cà phê trên thế giới thì cà phê chưa rang được bán dưới dạng hạt cho dù thuộc nhiều loại khác nhau cũng chỉ là một sản phẩm cùng loại, có tính năng sử dụng duy nhất là để uống mà không phân biệt độ cafein mạnh hay nhẹ. Năm loại cà phê chưa rang nhập khẩu có tên trong danh mục thuế quan của Tây Ban Nha đều là những sản phẩm cùng loại. Việc Tây Ban Nha áp dụng một mức thuế quan cao hơn đối với hai loại cà phê Arập và Robusta, được nhập khẩu từ Braxin mang tính chất phân biệt đối xử đối với những sản phẩm cùng loại và như vậy trái với quy định của Ðiều I, khoản 1 hiệp định GATT. Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia cùng với MFN là hai nguyên tắc nền tảng quan trọng nhất của hệ thương mại đa phương mà ý nghĩa thực sự là bảo đảm việc tuân thủ một cách nghiêm túc những cam kết về mở cửa thị trường là tất cả các nước thành viên đã chấp nhận khi chính thức trở thành thành viên của WTO. Bài 2: Quản lý nhà nước về thương mại 28 TXTMKT03_Bai2_v1.0014109226 2.3.2.2. Mở cửa thị trường Nguyên tắc ''mở cửa thị trường'' hay còn gọi một cách hoa mỹ là tiếp cận thị trường (market access) thực chất là mở cửa thị trường cho hàng hoá, dịch vụ và đầu tư nước ngoài. Trong một hệ thống thương mại đa phương, khi tất cả các bên tham gia đều chấp nhận mở cửa thị trường của mình thì điều đó đồng nghĩa với việc tạo ra một hệ thống thương mại toàn cầu mở cửa. Về mặt chính trị, ''tiếp cận thị trường'' thể hiện nguyên tắc tự do hoá thương mại của WTO. Về mặt pháp lý “tiếp cận thị trường” thể hiện nghĩa vụ có tính chất ràng buộc thực hiện những cam kết về mở cửa thị trường mà nước này đã chấp thuận khi đàm phán gia nhập WTO. 2.3.2.3. Cạnh tranh công bằng Cạnh tranh công bằng (fair competition) thể hiện nguyên tắc ''tự do cạnh tranh trong những điều kiện bình đẳng như nhau'' và được công nhận trong án lệ của vụ Uruguay kiện 15 nước phát triển (1962) về việc áp dụng các mức thuế nhập khẩu khác nhau đối với cùng một mặt hàng nhập khẩu. Do tính chất nghiêm trọng của vụ kiện, Ðại hội đồng GATT đã phải thành lập một Nhóm Công tác (Working Group) để xem xét vụ này. Nhóm Công tác đã cho kết luận rằng, về mặt pháp lý việc áp dụng các mức thuế nhập khẩu khác nhau đối với cùng một mặt hàng không trái với các quy định của GATT, nhưng việc áp đặt các mức thuế khác nhau này đã làm đảo lộn những “điều kiện cạnh tranh công bằng'' mà Uruguay có quyền mong đợi từ phía những nước phát triển và đã gây thiệt hại cho lợi ích thương mại của Uruguay. Trên cơ sở kết luận của nhóm công tác, Ðại hội đồng thông qua khuyến nghị các nước phát triển có liên quan “đàm phán” với Uruguay để thay đổi các cam kết, và nhân nhượng thuế quan trước đó. Vụ kiện của Uruguay đã tạo ra một tiền lệ mới, nhìn chung có lợi cho các nước đang phát triển từ nay các nước phát triển có thể bị kiện ngay cả khi về mặt pháp lý không vi phạm bất kỳ điều khoản nào trong hiệp định GATT nếu những nước này có những hành vi trái với nguyên tắc cạnh tranh công bằng. 2.3.2.4. Tự do mậu dịch hơn nữa Dần dần thông qua đàm phán. 2.3.2.5. Tính dự đoán thông qua liên kết và minh bạch Các quy định và quy chế thương mại phải được công bố công khai và thực hiện một cách ổn định. 2.3.3. Các yếu tố cơ bản của hệ thống công cụ quản lý Hệ thống các công cụ quản lý thường có 3 yếu tố cơ bản sau:  Kế hoạch hóa định hướng.  Pháp luật.  Hệ thống các chính sách và công cụ kinh tế. Bài 2: Quản lý nhà nước về thương mại TXTMKT03_Bai2_v1.0014109226 29  Thứ nhất: Kế hoạch hoá là công cụ thể hiện các mục tiêu lý tưởng của một nền kinh tế, nhờ có kế hoạch hoá mà chính phủ có thể phối hợp hoạt động của các doanh nghiệp, các bộ, các ngành và các địa phương. Kế hoạch hoá là công cụ duy nhất để chính phủ có thể chuyển tải nội dung đường lối chính sách. Trong kinh tế quản lý tập trung, công cụ kế hoạch hoá được sử dụng một cách không thành công bởi phương pháp kế hoạch và các mục tiêu lựa chọn. Khi chuyển sang cơ chế mới, kế hoạch hoá vẫn còn là công cụ đóng vai trò quan trọng, vấn đề là phải đổi mới công cụ này cho thích hợp. Kế hoạch trong cơ chế mới không phải là áp đặt mà là định hướng và thực hiện theo dự án. Ngày nay, kế hoạch hoá đã trở thành một hiện tượng phổ biến trong nền kinh tế hiện đại. Xét trên phạm vi xã hội, nói cách khác, xét ở tầm vĩ mô, nền kinh tế nhiều thành phần cần phải được kế hoạch hoá nhưng không thể là kế hoạch hoá trực tiếp – pháp lệnh, không thể xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh vĩ mô cho cả nền kinh tế. Chỉ có thể thực hiện kế hoạch hoá gián tiếp, định hướng đối với nó mà thôi. Quản lý có kế hoạch hay là sự điều tiết vĩ mô có ý thức, có hướng đích nền kinh tế hàng hóa khác về nguyên tắc so với sự quản lý, điều tiết nền kinh tế tự nhiên, hiện vật. Các khái niệm, phạm trù và do đó, cả công nghệ quản lý, công nghệ điều tiết ở đó, không phải là sự “phát triển thêm”các khái niệm, phạm trù và công nghệ quản lý nền kinh tế tự nhiên, hiện vật, mà được hình thành theo những nguyên lý riêng với hai yếu tố cốt lõi hợp thành: lôgích ngang giá và lôgích tự điều chỉnh. Hoạt động quản lý có kế hoạch ngày nay là đòi hỏi tự nhiên của mọi hoạt động kinh tế dù ở tầm doanh nghiệp, hay tầm quốc gia, tầm khu vực hay tầm quốc tế. Và vì các hoạt động kinh tế trên tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội đều đã chứa đựng nguyên lý ngang giá và nguyên lý tự điều chỉnh cho nên, mô thức tổ chức quản lý nền kinh tế quốc dân có hiệu quả nhất là phải lấy sự điều tiết của thị trường làm “nguyên tắc kỹ thuật điều hành căn bản”. Kế hoạch là công cụ quản lý liên ngành của nhà nước bao gồm nhiều loại công việc, nhiều loại hình với nhiều hình thức phong phú đa dạng. Mỗi loại hình, mỗi hình thức biểu hiện có vai trò, nhiệm vụ khác nhau. Nhưng đều hướng tới mục tiêu chung là truyền dẫn ý đồ mục tiêu của kế hoạch vĩ mô vào cuộc sống. Vai trò chủ yếu của kế hoạch hoá ở tầm vĩ mô là thúc đẩy hình thành cơ cấu hợp lý, vì vậy phải bảo đảm tính thống nhất trong cân đối các nguồn lực, lựa chọn phương hướng phát triển đúng đắn và động viên được sức lực, trí tuệ của toàn xã hội thực hiện thắng lợi những mục tiêu đề ra. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá, chính phủ đã quản lý nền kinh tế bằng kế hoạch và đề ra các chỉ tiêu kế hoạch để hướng dẫn sự phát triển của nền kinh tế. Nhưng trên thực tế, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch của thời kì ấy đã không hoàn thành chức năng định hướng. Vì phần lớn các chỉ tiêu kế hoạch dài hạn hay ngắn hạn của Bài 2: Quản lý nhà nước về thương mại 30 TXTMKT03_Bai2_v1.0014109226 Nhà nước hoặc là nghiêng về phía cung hoặc là nghiêng về phía cầu và thường mang tính hình thức. Nhà nước là người đại diện cho xã hội làm chủ tư liệu sản xuất, không thể trực tiếp tiến hành sản xuất kinh doanh do đó không thể định ra những kế hoạch sản xuất kinh doanh trực tiếp mang tính pháp lệnh cho các đơn vị kinh tế quốc doanh. Nhà nước có thể thông qua hình thức đơn đặt hàng theo nguyên tắc thị trường mà hướng dẫn và giúp đỡ các đơn vị kinh tế quốc doanh thực hiện những nhiệm vụ của kế hoạch nhà nước. Nhìn chung, nhà nước có thể thực hiện sự quản lý vĩ mô thông qua kế hoạch hoá gián tiếp cùng hệ thống đòn bẩy kinh tế, các công cụ pháp luật và hệ thống thông tin mà hướng dẫn các đơn vị kinh tế hoạt động theo định hướng của mình. Để phù hợp với việc quản lý kinh tế vĩ mô theo cơ chế thị trường, hệ thống kế hoạch hoá định hướng cần phải: o Thứ nhất: Nghiên cứu xây dựng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội cũng như các chiến lược phát triển ngành, vùng, lĩnh vực. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2020 và những định hướng lớn sẽ là cơ sở cho các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở xác định phương hướng phát triển, phương hướng đầu tư một cách lâu dài. o Thứ hai: Hệ thống thông tin – dự báo có vai trò rất quan trọng cần được quan tâm đúng mức. Công tác dự báo cần tập trung vào các dự báo dài hạn và dự báo cho một số lĩnh vực, ngành quan trọng; đồng thời cần phải được xử lý tổng hợp để nâng cao chất lượng, cung cấp kịp thời thông tin kinh tế xã hội, thị trường, khoa học công nghệ phục vụ quá trình xây dựng kế hoạch. o Thứ ba: Nghiên cứu thiết kế các chương trình và dự án phát triển. Đây là một phương pháp kế hoạch hoá, đồng thời cũng là một bộ phận cấu thành của kế hoạch. Trong cơ chế cũ (kế hoạch hoá tập trung) việc tổ chức thực hiện các mục tiêu và phân bổ các nguồn lực tiến hành theo đơn vị quản lý hành chính như: UBND các tỉnh, thành phố hay các đơn vị quản lý ngành như các Bộ, Tổng cục, nay trong cơ chế mới sẽ chuyển dần sang các chương trình và các dự án phát triển. Thực tế đây là phần “cứng” của kế hoạch định hướng, chương trình dự án bao gồm nhiều cấp độ: tầm kinh tế quốc dân, tầm ngành và phân ngành, tầm vùng lãnh thổ và địa phương, thông qua các chương trình và các dự án, nhà nước có điều kiện bố trí và chỉ đạo kế hoạch một cách có trọng điểm và hiệu quả. o Thứ tư: Đổi mới nội dung và phương pháp lập kế hoạch 5 năm và kế hoạch hàng năm. Đây là những bộ phận chủ yếu của hệ thống kế hoạch hoá định hướng, cần phát huy vai trò, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh, bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Hướng tới công tác kế hoá ở nước ta là: “Đổi mới mạnh mẽ công tác kế hoạch hoá, nâng cao tính định hướng và dự báo, nâng cao chất lượng của các quy hoạch và kế hoạch, gắn quy hoạch và kế hoạch với thị trường. Hoàn thiện hệ thống thông tin và dự báo, phục vụ Bài 2: Quản lý nhà nước về thương mại TXTMKT03_Bai2_v1.0014109226 31 kế hoạch, gắn kế hoạch với cơ chế chính sách. Tăng cường chế độ trách nhiệm và sự phối hợp giữa các bộ, ngành và giữa các cấp trong xây dựng, điều hành thực hiện kế hoạch. Đổi mới nội dung và phương pháp lập và thực hiện kế hoạch theo hướng huy động tối đa nội lực, khai thác mọi tiềm năng của ngành, của địa phương gắn với sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài” (1). Trong giai đoạn đầu của cơ chế thị trường còn duy trì một số nội dung và phương pháp kế hoạch hóa cũ không phải do ý muốn chủ quan mà là do hệ thống các công cụ quản lý vĩ mô hoạt động thiếu đồng bộ, phải chuyển giao từng bước song song với quá trình hình thành cơ chế kế hoạch hoá mới. Đến nay phương pháp kế hoạch hoá trực tiếp so với trước còn duy trì khoảng 1% (theo danh mục chỉ tiêu) trong kế hoạch sản xuất, 2% trong kế hoạch lưu thông vật tư hàng hóa, khoảng 30% trong kế hoạch đầu tư (theo tổng mức vốn, chủ yếu là vốn ngân sách và tín dụng ưu đãi). Còn tín dụng thương mại, vốn tự huy động của cơ sở quốc doanh, vốn đầu tư ngoài quốc doanh, vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài hoạt động theo cơ chế hướng dẫn hoặc hoàn toàn chủ động.  Thứ hai: Công cụ pháp luật trong quản lý. o Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, pháp luật thể hiện vai trò của nó trên hai phương diện.  Một là: Pháp luật là công cụ cưỡng chế hành vi của các doanh nghiệp nếu như hoạt động sản xuất kinh doanh của họ có thể làm tổn hại đến lợi ích của toàn xã hội.  Hai là: Pháp luật là công cụ tạo ra môi trường tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp bởi vì nhờ có pháp luật mà doanh nghiệp biết được cái gì được làm, cái gì không được làm và đương nhiên cái gì được làm là được pháp luật bảo hộ quyền tự do. Chính vì vậy, rất có sự khác nhau giữa pháp luật của nền kinh tế kế hoạch hoá và pháp luật của nền kinh tế thị trường có sự quản lý. Trong pháp luật của nền kinh tế kế hoạch hoá, doanh nghiệp nhận thấy cái gì được làm thì trong pháp luật của kinh tế thị trường có sự quản lý, doanh nghiệp sẽ nhận thấy cái gì không được làm, không được phép, ngoài những cái đó ra họ có quyền làm tất cả những gì mà họ có khả năng. o Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế trong điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay cần tính đến một số vấn đề có tính nguyên tắc sau đây:  Trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế, chúng ta đang phải đối mặt với một khó khăn lớn: phải tạo lập một hệ thống pháp luật trong đó cơ chế pháp lý của nó phải phản ánh sự đa dạng của chủ thể kinh doanh và lợi ích kinh doanh nhưng lại phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống pháp luật đó phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích kinh doanh và công bằng xã hội. Bài 2: Quản lý nhà nước về thương mại 32 TXTMKT03_Bai2_v1.0014109226 Vì vậy, việc hoàn thiện một cách nóng vội, muốn có đầy đủ ngay một hệ thống pháp luật ban hành dưới hình thức pháp luật cao (luật, bộ luật) sẽ không tránh khỏi những nhược điểm, thiếu sót. Việc hoàn thiện pháp luật kinh tế, phải được tiến hành từng bước, vững chắc, có chương trình, trật tự ưu tiên. Sau khi pháp luật được ban hành và đưa vào điều chỉnh trong thực tế thì việc sửa đổi, bổ sung pháp luật là một khâu quan trọng trong hoạt động lập pháp. Nền kinh tế thị trường ở nước ta mới bắt đầu hình thành, các quan hệ kinh tế chưa ổn định. Vì vậy, các định chế cụ thể cần sửa đổi, bổ sung thường xuyên. Việc phân tích hiệu lực các định chế pháp luật hàng năm phải coi là một nhiệm vụ của các cơ quan thuộc Chính phủ. Mặt khác, đặc biệt quan trọng là phải kiểm tra thực hiện luật. Tiến hành thường xuyên việc tổ chức kiểm nghiệm lại hiệu lực thi hành của các văn bản pháp luật đã ban hành là vấn đề quan trọng nhằm giúp cho việc sửa đổi, bổ sung kịp thời nhằm đáp ứng hoạt động kinh doanh có hiệu lực, hiệu quả.  Trong nền kinh tế thị trường, quyền tự do kinh doanh là trung tâm, mục tiêu động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế. Tuy nhiên, tự do kinh doanh không có nghĩa là vô chính phủ, là vô hạn mà nó được thực hiện trong sự tôn trọng lợi ích của xã hội, của nhân dân, của các chủ thể kinh doanh khác. Pháp luật không thể là những quy định hạn chế quyền tự do kinh doanh mà phải tạo tiền đề pháp lý cho sự ổn định các quan hệ kinh doanh làm cho mọi thành phần kinh tế, mỗi doanh nghiệp và công dân yên tâm huy động mọi tiềm năng sáng tạo và tiềm năng kinh tế vào hoạt động kinh doanh. Quan điểm cơ bản chi phối và quyết định việc xây dựng hệ thống pháp luật quản lý kinh tế theo cơ chế mới là quan điểm quản lý kinh tế bằng pháp luật.  Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, pháp luật kinh tế thường liệt kê những quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp như điều bị cấm, điều bắt buộc phải làm, điều được làm. Quy định như vậy không đảm bảo nguyên tắc tự do kinh doanh. Cơ chế thị trường lấy nguyên tắc “doanh nghiệp được làm những gì mà pháp luật không ngăn cấm” thay cho nguyên tắc “doanh nghiệp được làm những gì mà pháp luật cho phép”. Pháp luật chỉ quy định những điều cấm và để tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp hoạt động.  Thứ ba: Hệ thống các chính sách và công cụ kinh tế. Hệ thống các chính sách và công cụ kinh tế sẽ giúp nhà nước có thể điều khiển hoạt động của các doanh nghiệp, có thể nói, mỗi chính sách kinh tế là một hành lang hướng dẫn hoạt động đầu tư mở rộng phát triển sản xuất, kinh doanh, hướng dẫn các doanh nghiệp hành động một cách phù hợp với lợi ích của toàn xã hội. Các chính sách kinh tế có nhiều loại, song có hai cách sử dụng: o Thứ nhất, sử dụng để tác động vào phía cung hoặc phía cầu. Mỗi chính sách kinh tế đều có thể tác động vào cả hai phía. Khi nhà nước định sử dụng một chính sách cụ thể nào đó để tác động vào phía cung thì phải tạo ra các phản ứng phụ để hạn chế ảnh hưởng của nó vào phía cầu và ngược lại. Bài 2: Quản lý nhà nước về thương mại TXTMKT03_Bai2_v1.0014109226 33 o Thứ hai, phân loại theo khu vực, các chính sách kinh tế có thể tác động đồng thời lên các lĩnh vực sau: lĩnh vực tài chính, lĩnh vực tiền tệ, lĩnh vực thương mại, lĩnh vực tỷ giá... Chính vì vậy một chính sách nào đó được ban hành cần phải xác định rõ nó là chính sách gì? Chính sách tài chính? Chính sách tiền tệ? Chính sách thương mại?... để có thể tạo ra cơ chế phối hợp giữa các chính sách... 2.3.4. Những công cụ chủ yếu của chính sách thương mại Để tổ chức và quản lý các hoạt động thương mại trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là để thực hiện chính sách ngoại thương, người ta thường sử dụng rất nhiều công cụ và biện pháp khác nhau như đã trình bày ở trên. Dưới đây sẽ đề cập đến nội dung và hình thức của một số công cụ được áp dụng phổ biến trong thực tế thương mại hiện nay. 2.3.4.1. Thuế quan hay thuế xuất nhập khẩu (XNK) Là loại thuế gián thu đánh vào hàng hóa XNK khi qua lĩnh vực thuế quan của một nước. Nhà nước sử dụng công cụ thuế quan nhằm hai mục tiêu: một là, quản lý XNK, nâng cao hiêu quả hoạt động ngoại thương, góp phần bảo vệ sản xuất và hướng dẫn tiêu dùng; hai là tăng thu ngân sách. Mặc dù trong những năm gần đây, vai trò của thuế trong thương mại quốc tế đang bị giảm dần trong các nước chậm phát triển, song khoản thu về thuế trong thương mại quốc tế vẫn chiếm vị trí đáng kể, đặc biệt là thuế XNK. Tại Mỹ, thuế trong thương mại quốc tế chiếm 1% tất cả các nguồn thu về thuế. Theo báo cáo phát triển năm 1985 của Ngân hàng thế giới, thì thuế trong thương mại quốc tế chiếm khoảng 25% tổng số các khoản thu bằng tiền mặt ở các nước chậm phát triển, 14 trong số các nước nói trên có khoản thu từ thuế nhập khẩu chiếm 40% tổng số thu của Chính phủ ở các nước có thu nhập vào loại trung bình cao, thuế nhập khẩu chiếm khoảng 1/10 nguồn thu của ngân sách chính phủ. Ở Việt Nam, thuế XNK chiếm khoảng 25% nguồn thu ngân sách của Nhà nước. Cho đến nay, thuế quan nhập khẩu vẫn là một công cụ được sử dụng rất rộng rãi nhất trong chính sách thương mại của các chính phủ trên thế giới. Đối với một nền kinh tế quy mô nhỏ khi đánh thuế nhập khẩu sẽ không làm ảnh hưởng đến giá cả thế giới. Thông thường thuế quan nhập khẩu dẫn đến giá nội địa cao lên làm cho mức tiêu dùng nội địa giảm đi, sản xuất trong nước có điều kiện tăng lên do đó khối lượng hàng nhập khẩu bị giảm bớt. Thuế nhập khẩu tạo ra sự phân phối lại thu nhập từ người tiêu dùng sản phẩm nội địa (vì phải mua hàng với mức giá cao hơn) sang người sản xuất trong nước (vì nhận được mức giá cao hơn) đồng thời cũng có sự phân phối lại từ các nhân tố dư thừa của một quốc gia sang các nhân tố khan hiếm của quốc gia khác, Chính phủ là người nhận được khoản thu về thuế, còn gánh nặng của thuế do người tiêu dùng phải chịu. Thuế quan nhập khẩu cũng dẫn đến những tổn thất cho nền kinh tế do hạn chế tự do hoá thương mại, tổn thất này gọi là chi phí bảo hộ. Hình thức phổ biến nhất để hạn chế thương mại tự do là thuế nhập khẩu. Thuế quan yêu cầu người nhập khẩu hàng hóa phải trả tỷ lệ phần trăm cụ thể theo giá cả quốc tế cho Nhà nước. Hình 1 minh hoạ những tác động do áp dụng thuế nhập khẩu đối với một mặt hàng. Để đơn Bài 2: Quản lý nhà nước về thương mại 34 TXTMKT03_Bai2_v1.0014109226 giản hoá, việc xem xét, nước áp dụng thuế quan được giả định là một nước nhỏ, do đó không gây ảnh hưởng tới mức giá cả quốc tế và đường cung nhập khẩu của nước ngoài hoàn toàn co giãn (có chiều nằm ngang). Ngoài ra còn giả thiết rằng, người tiêu dùng không có sự phân biệt giữa sản phẩm sản xuất trong nước và sản phẩm nhập khẩu. SS và DD là các đường cung và cầu nội địa. SW là đường cung của nước ngoài. Khi mức thuế nhập khẩu đựơc áp dụng thì giá cả nội địa của mặt hàng nhập khẩu sẽ tăng lên từ OP1 lên OP2 và gây ra những tác động sau đây:  Tác động về tiêu dùng. Người tiêu dùng trong nước sẽ giảm tiêu dùng từ điểm C tới điểm B do giá cả tăng lên. Khối lượng tiêu dùng giảm đi được biểu diễn bằng khoảng cách Q1Q3.  Tác động về sản xuất. Giá cả trong nước tăng sẽ khuyến khích các nhà sản xuất trong nước gia tăng sản lượng bằng cách chuyển sản xuất từ F tới A. Khoảng cách Q2Q4 biểu thị tác động về sản xuất (hay còn gọi là tác động bảo hộ).  Tác động về buôn bán. Thuế quan sẽ làm cho nhập khẩu giảm từ Q1Q2 xuống còn Q3Q4. Số lượng nhập khẩu giảm sút là Q1Q3 + Q2Q4 (tổng sản lượng nội địa gia tăng và mức tiêu dùng giảm sút).  Tác động về thu nhập. Việc áp dụng thuế quan sẽ đem lại khoản thu nhập cho chính phủ biểu thị bằng miền ABHG.  Tác động phân phối lại. Thuế quan có tác động phân phối lại thu nhập từ người tiêu dùng sang người sản xuất và chính phủ. Thiệt hại của người tiêu dùng được đo bằng miền P1P2BC, trong đó P1P2AF được chuyển cho các nhà sản xuất nội địa. Phần ABHG thuộc về chính phủ. Các miền AFG và BCH biểu thị thiệt hại của xã hội nói chung, trong đó AFG là kết quả của việc gia tăng sản xuất trong nước nhưng với chi phí cao hơn so với việc nhập khẩu một lượng hàng hoá tương đương, còn BCH là kết quả của việc người tiêu dùng phải chuyển từ tiêu dùng mặt hàng nhập khẩu rẻ hơn sang mua các mặt hàng đắt hơn. Có thể tính được khoản thiệt hại về phúc lợi xã hội này theo công thức sau: AFG + BCH = (1/2) (Mức giảm về giá trị nhập khẩu  Mức thuế quan) Hình 1: Tác động của thuế nhập khẩu O Q2 Q4 Q3 Q1 P2 P1 Giá A B D S SW’ SW D C H G S F Số lượng Bài 2: Quản lý nhà nước về thương mại TXTMKT03_Bai2_v1.0014109226 35 Thoạt nhìn việc áp dụng thuế nhập khẩu có thể coi là thích hợp vì làm giảm bớt nhập khẩu. Nhưng thực chất điều đó làm cho nền kinh tế vận hành trượt ra khỏi điểm cân bằng cấp vĩ mô. Thiệt hại của xã hội (AGF + BCH) là kết quả của sự khác biệt giữa giá cả thị trường trong và ngoài nước, của sự phân bố bất hợp lý các nguồn tài nguyên trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như các khoản thu nhập của người tiêu dùng. Thuế nhập khẩu là công cụ quan trọng nhất của chính sách ngoại thương được Chính phủ sử dụng để bảo vệ sản xuất trong nước. Mức độ bảo hộ thực tế phụ thuộc vào tỉ lệ phần trăm giữa thuế quan danh nghĩa và phần giá trị gia tăng nội địa. Thuế quan danh nghĩa là thuế quan được áp dụng với sản phẩm cuối cùng. Thuế quan danh nghĩa là quan trọng đối với người tiêu dùng còn mức độ bảo hộ thực tế lại có ý nghĩa đối với nhà sản xuất vì nó cho biết việc bảo hộ ở mức nào để họ có thể cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Tỉ lệ phần trăm giữa thuế quan danh nghĩa với giá trị gia tăng nội địa sẽ nói lên mức độ bảo hộ cao hay thấp cho các ngành sản xuất trong nước. Thuế danh nghĩa Mức độ bảo hộ thực tế  Giá trị gia tăng nội địa Mức độ bảo hộ thức tế (f) thường tính theo công thức sau: i i i V Vf V   hoặc i i i t a tf 1 a   Trong đó: f: Mức độ bảo hộ thực tế. V’i: Giá trị gia tăng trong ngành i khi có áp dụng thuế nhập khẩu. Vi: Giá trị gia tăng trong ngành i trong chế độ buôn bán tự do (không có thuế quan). t: Tỷ lệ thuế quan danh nghĩa đối với sản phẩm cuối cùng. ti: Tỷ lệ thuế quan danh nghĩa đối với sản phẩm trung gian. ai: Tỷ lệ giữa giá trị sản phẩm trung gian với giá trị sản phẩm cuối cùng khi không có thuế quan. Nếu ai = 0 thì f = ti, có nghĩa là khi ấy không nhập nguyên liệu, mức độ bảo hộ thực sự chính là thuế quan danh nghĩa. Khi ti = 0 tức là không đánh thuế vào sản phẩm trung gian, mức động bảo hộ thực tế là cao nhất, người sản xuất sẽ có lợi cao nhất. Khi ti càng tăng thì mức độ bảo hộ thực tế càng giảm, khi ti > t thì f < 0. Trên giác độ của quy luật lợi thế so sánh khi đánh thuế nhập khẩu làm cho giá cả trong nước cao hơn giá cả quốc tế, tức là thuế quan gây thiệt hại cho thế giới nói chung. Khi một nước đánh thuế nhập khẩu cao thì nước đó phải chịu thiệt hại về sản xuất và tiêu dùng, đồng thời sẽ khuyến khích buôn lậu, lẩn tránh hàng rào thuế quan. Nếu thuế nhập khẩu có thể làm giá cả quốc tế thay đổi giảm xuống thì điều kiện thương mại được cải thiện bù đắp lại những thiệt hại về sản xuất và tiêu dùng. Việc đánh thuế nhập khẩu ở một nước nhỏ sẽ làm giá cả nội địa của sản phẩm đó tăng lên đúng bằng toàn bộ phần thuế quan nhưng điều đó không làm ảnh hưởng tới giá cả thị trường thế giới. Bài 2: Quản lý nhà nước về thương mại 36 TXTMKT03_Bai2_v1.0014109226 Như vậy, thuế quan có nhiều mặt ưu điểm và nhược điểm. Nó tuỳ thuộc vào hoàn cảnh của mỗi nước ở từng giai đoạn khác nhau mà có mức thuế quan phù hợp. Ở nhiều nước đang phát triển thông thường thuế xuất nhập khẩu chỉ áp dụng đối với rất ít các mặt hàng xuất khẩu, nhằm bổ sung nguồn thu ngân sách, điều chỉnh thu nhập một cách hợp lí giữa các ngành và các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu. Thuế nhập khẩu có ý nghĩa quan trọng nhằm bảo vệ nền sản xuất trong nước nhất là những ngành công nghiệp còn non trẻ, tăng thu nhập cho ngân sách và thực hiện chính sách ngoại thương; đồng thời nó khuyến khích sản xuất trong nước. Tuỳ theo điều kiện cụ thể, Nhà nước miễn thuế nhập khẩu hoặc áp dụng thuế suất thấp đối với những mặt hàng như máy móc thiết bị, nguyên liệu hoặc hàng tiêu dùng thiết yếu. Việc thực hiện thuế nhập khẩu như đã trình bày ở trên nó dẫn đến xu hướng tăng giá, giảm số lượng tiêu thụ, nhập khẩu và tăng sản lượng sản xuất trong nước. Thực tế đánh thuế nhập khẩu dẫn đến kết quả sau:  Các nhà sản xuất trong nước nhờ có thuế nhập khẩu mà có thể mở rộng sản xuất.  Người tiêu dùng giảm số lượng tiêu dùng bởi vì giá hàng nhập cao lên.  Nhà nước thu được thuế nhập khẩu, các nhà sản xuất nội địa thu được lợi nhuận cao. 2.3.4.2. Hạn ngạch (quota) Hạn ngạch là một công cụ kinh tế và là một công cụ phổ biến của hàng rào phi thuế quan phục vụ cho công tác điều tiết, quản lý Nhà nước về xuất nhập khẩu, vừa nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, bảo vệ tài nguyên, vừa cải thiện cán cân thanh toán. Tính chất chung của hạn ngạch là nhằm quy định số lượng (hoặc giá trị) nhập khẩu đối với từng nước cho từng mặt hàng. Hạn ngạch được hiểu là quy định của Nhà nước về số lượng (hay giá trị) của một mặt hàng hoặc một nhóm mặt hàng được phép xuất khẩu sang hoặc nhập khẩu từ một thị trường nhất định trong một thời gian nhất định, thông qua hình thức cấp giấy phép (quota xuất nhập khẩu). Quota nhập khẩu là hình thức phổ biến hơn, còn quota xuất khẩu ít được sử dụng và nó cũng tương đương với biện pháp “hạn chế xuất khẩu tự nguyện”. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện, là một biện pháp hạn chế xuất khẩu, mà theo đó, một quốc gia nhập khẩu đòi hỏi quốc gia xuất khẩu phải hạn chế bớt lượng hàng xuất khẩu sang nước mình một cách “tự nguyện”, nếu không họ sẽ áp dụng biện pháp trả đũa kiên quyết. Hạn ngạch thường là những quy định hạn chế về số lượng đối với những mặt hàng dễ đo đếm và có trị giá cao còn hạn chế trị giá đối với mặt hàng khó đo đếm. Bài 2: Quản lý nhà nước về thương mại TXTMKT03_Bai2_v1.0014109226 37 Như vậy, hạn ngạch hạn chế số lượng nhập khẩu đồng thời nó cũng ảnh hưởng đến giá nội địa của hàng hóa. Do mức cung thấp, giá cân bằng sẽ cao hơn trong điều kiện thương mại tự do. Như vậy, hạn ngạch tương đối giống với thuế nhập khẩu. Giá hàng nhập nội địa đối với người tiêu dùng tăng lên và chính giá cao này cho phép các nhà sản xuất nội địa kém hiệu quả sản xuất ra một số lượng cao hơn so với điều kiện thương mại tự do. Hạn ngạch cũng dẫn tới sự lãng phí của xã hội giống như đối với thuế nhập khẩu. Tác động của hạn ngạch nhập khẩu được minh họa trong hình 2. Sau khi hạn ngạch nhập khẩu FJ = AB được áp dụng thì đường cung trong nước SS sẽ bị biến dạng và chuyển thành đường gãy khúc SFJSA, trong đó phần JSA được tách khỏi đường cung gốc một khoảng đúng bằng hạn ngạch. Giá cả trong nước sẽ tăng từ OP1 lên OP2 và mọi tác động khác đều tương tự như trong trường hợp áp dụng thuế nhập khẩu, trừ tác động về mặt thu nhập. Khoảng chênh lệch giữa tổng chi phí mà người tiêu dùng phải bỏ ra (Q4ABQ3) và chi phí nhập khẩu thực tế (AB × OP1) không nhất thiết thuộc về chính phủ. Nói chung khoản chênh lệch đó thuộc về tổ chức nào được quyền sử dụng hạn ngạch có thể là chính phủ trong nước, chính phủ nước ngoài, công ty nhập khẩu trong nước hoặc các công ty nước ngoài. Xét về ý nghĩa bảo vệ lợi ích quốc gia, hạn ngạch cũng có tác động như thuế quan. Hạn ngạch nhập khẩu là công cụ quan trọng để thực hiện chiến lược sản xuất thay thế nhập khẩu, bảo vệ sản xuất nội địa. Đối với Chính phủ và các doanh nghiệp, hạn ngạch cho biết trước số lượng hàng nhập khẩu. Đối với thuế quan, lượng hàng nhập khẩu phụ thuộc vào mức độ linh hoạt của cung, cầu và thường không thể biết trước được. Như vậy, xét về mặt bảo hộ, không có sự khác biệt chủ yếu nào giữa thuế quan và hạn ngạch. Tuy nhiên, sự tác động của hạn ngạch nhập khẩu khác với sự tác động của thuế quan ở hai mặt. Mức thuế quan tối thiểu ít nhất cũng mang lại thu nhập cho Chính phủ có thể cho phép giảm các loại thuế khác và do đó bù đắp được một phần nào cho những người tiêu dùng trong nước. Một hạn ngạch nhập khẩu lại đưa lại S O Q2 Q4 Q5 Q3 Q1 Số lượng SW D C J F P1 P2 Giá A S B D SA Hình 2: Tác động hạn ngạch nhập khẩu Bài 2: Quản lý nhà nước về thương mại 38 TXTMKT03_Bai2_v1.0014109226 lợi nhuận có thể rất lớn cho những người xin được giấy phép nhập khẩu theo hạn ngạch. Sự khác biệt thứ hai là hạn ngạch có thể biến một doanh nghiệp duy nhất trong nước thành một nhà độc quyền có thể đặt mức giá bán cao để họ thu lợi nhuận tối đa. Để khắc phục tình trạng thất thu ngân sách nhà nước và tiêu cực nảy sinh do phân bổ hạn ngạch, Chính phủ một số nước đã áp dụng biện pháp bán đấu giá hạn ngạch. Để quản lý xuất khẩu, các nước cũng áp dụng hạn ngạch xuất khẩu. Hạn ngạch xuất khẩu được quy định theo mặt hàng, theo nước và theo thời gian. Hạn ngạch xuất khẩu mang tính chủ động và thường là biện pháp tự bảo vệ thị trường trong nước hoặc tài nguyên trong nước. 2.3.4.3. Hàng rào phi thuế quan Đó là những quy định hành chính phân biệt đối xử nhằm chống lại hàng hóa nước ngoài và ủng hộ sản xuất nội địa. Nhà nước tuyên truyền quảng cáo khuyên người tiêu dùng hoặc ra lệnh cho các viên chức dùng hàng hóa nội địa. Như vậy, chúng ta có thể khái quát hàng rào phi thuế quan là những khác biệt trong những quy định hoặc tập quán của các quốc gia làm cản trở sự lưu thông tự do của các hàng hóa, dịch vụ và các yếu tố sản xuất với các nước khác. Biện pháp hạn chế xuất khẩu tự nguyện cũng là một trong những hình thức của hàng rào mậu dịch phi thuế quan. Thực chất đây là những cuộc thương lượng mậu dịch giữa các bên để hạn chế bớt sự xâm nhập của hàng ngoại, tạo công ăn việc làm cho thị trường trong nước. Ví dụ: Các cuộc thương lượng mậu dịch giữa Nhật và Mỹ về việc hạn chế sự xâm nhập xe hơi của Nhật vào thị trường Mỹ. Hạn chế xuất khẩu tự nguyện mang tính miễn cưỡng và gắn với những điều kiện nhất định. Hình thức này thường được áp dụng cho các nước có khối lượng xuất khẩu quá lớn về một mặt hàng nào đó, nhất là những mặt hàng có sức cạnh tranh cao và có xu hướng mở rộng nhanh thị phần trên thị trường của nước bị xâm nhập. 2.3.4.4. Trợ cấp xuất khẩu Trợ cấp xuất khẩu là những biện pháp của Nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và các doanh nghiệp kinh doanh XNK nhằm tăng nhanh số lượng hàng và trị giá kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Bên cạnh những công cụ nhằm hạn chế nhập khẩu còn có những công cụ dùng để nâng đỡ hoạt động xuất khẩu. Trợ cấp xuất khẩu là những biện pháp mà Chính phủ áp dụng như trợ cấp trực tiếp hoặc cho vay với tỷ lệ lãi suất thấp hoặc là miễn thuế cho các nhà xuất khẩu trong nước (kể cả các nhà sản xuất và kinh doanh XNK). Mặt khác, Chính phủ cũng có thể thực hiện một khoản cho vay ưu đãi đối với các bạn hàng nước ngoài để họ có điều kiện mua các sản phẩm do nước mình sản xuất ra, và để xuất khẩu ra bên ngoài. Biện pháp này thường được các nước công nghiệp phát triển áp dụng dưới danh nghĩa khoản tín dụng viện trợ cho các nước đang phát triển vay. Tác động của việc trợ cấp cho sản xuất trong nước được minh họa trong hình 3: Bài 2: Quản lý nhà nước về thương mại TXTMKT03_Bai2_v1.0014109226 39 Tại mức giá OP1, nhập khẩu diễn ra tự do với số lượng bằng Q1Q2.Việc áp dụng một khoản trợ cấp cho các nhà sản xuất trong nước sẽ làm dịch chuyển đường cung từ SS đến S’S’. Sản xuất sẽ gia tăng từ OQ2 tới OQ3, đúng bằng lượng nhập khẩu giảm sút. Nhập khẩu thực tế chỉ còn Q1Q3. Rõ ràng những người sản xuất trong nước được lợi vì thực tế họ được trả ở mức giá OP2. Với người tiêu dùng thì không có gì thay đổi vì họ vẫn chỉ phải trả mức giá không thay đổi là OP1. Còn Chính phủ thì phải gánh chịu chi phí trợ cấp, được tính bằng giá trị trợ cấp cho mỗi đơn vị hàng hóa (P1P2) nhân với số lượng hàng hóa làm ra (OQ3). Qua phân tích nói trên có thể thấy rằng trợ cấp sản xuất là một công cụ can thiệp thích hợp vì nó không tạo ra những biến dạng về giá cả trên thị trường. Tuy nhiên, Chính phủ phải trả giá cho điều đó bằng cách cấp vốn cho các nhà sản xuất. 2.3.4.5. Tỷ giá hối đoái và tác động của nó đến hoạt động xuất nhập khẩu Tỷ giá hối đoái là quan hệ về sức mua giữa bản tệ (hay nội tệ) so với các ngoại tệ khác, đặc biệt là các ngoại tệ có khả năng chuyển đổi tự do. Tỷ giá hối đoái là loại giá quan trọng nhất, chi phối những loại giá khác và tác động đến sản xuất. Đặc biệt, xuất nhập khẩu là lĩnh vực chịu sự tác động trực tiếp và nhạy cảm nhất trước những biến động của tỷ giá hối đoái. Bởi lẽ, là một loại giá cả quốc tế, tỷ giá hối đoái dùng để tính toán và thanh toán cho hàng hóa, dịch vụ xuất – nhập khẩu (không dùng để định giá hàng sản xuất trong nước). Tỷ giá hàng xuất khẩu là lượng tiền trong nước cần thiết để mua một lượng hàng hóa xuất khẩu tương đương với một đơn vị ngoại tệ. Tỷ giá hàng nhập khẩu là lượng tiền trong nước thu được khi bán một lượng hàng hóa nhập khẩu có giá trị một đơn vị ngoại tệ. Thông thường khi xác định tỷ giá hối đoái chung, người ta dựa vào 2 căn cứ: một là mức bình quân gia quyền của tỷ giá hối đoái những mặt hàng xuất – nhập khẩu chủ yếu và hai là tỷ giá hối đoái linh hoạt được hình thành trên thị trường do các yếu tố O Q2 Q3 Số lượng Hình 3: Tác động của trợ cấp trong nước P1 P2 D C M AS S B D S E S’ Giá Bài 2: Quản lý nhà nước về thương mại 40 TXTMKT03_Bai2_v1.0014109226 của quan hệ thị trường tác động. Khi xem xét tác động của tỷ giá hối đoái đối với các hoạt động của nến kinh tế nói chung, hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng, cần phân biệt hai loại tỷ giá là tỷ giá hối đoái danh nghĩa (do Ngân hàng Nhà nước công bố hàng ngày) và tỷ giá hối đoái thực tế. Tỷ giá hối đoái thực tế được tính bằng công thức như sau: Tỷ giá hối đoái danh nghĩa × Chỉ số giá quốc tế Tỷ giá hối đoái thực tế  Chỉ số giá cả trong cả nước Tỷ giá hối đoái thực tế có hai mục đích, một là điều chỉnh tác động của mức lạm phát và hai là để phản ánh những biến đổi thực tế trong khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu hay nhập khẩu của một quốc gia. Sự tăng hay giảm của tỷ giá hối đoái chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: Mức chênh lệch lạm phát giữa các quốc gia, tình trạng cán cân thanh toán quốc tế của mỗi nước, sự chênh lệch mức lãi suất ngân hàng, kết quả của những dự đoán thị trường có kỳ hạn, các yếu tố tâm lý, đầu cơ... Lịch sử phát triển của các chế độ tỷ giá hối đoái đã trải qua 3 hình thức sau: Chế độ tỷ giá cố định lấy vàng làm bản vị; chế độ tỷ giá cố định Bretton Woods; chế độ tỷ giá thả nổi. Thực chất chế độ tỷ giá là một sự thoả thuận của một nhóm các nước để thực hiện việc thanh toán giữa họ với nhau và để xác định các tỷ giá hối đoái. Đối với Việt Nam, vấn đề quan trọng hàng đầu là duy trì tỷ giá hối đoái phù hợp để cho các nhà sản xuất, kinh doanh thương mại trong nước đẩy mạnh việc bán các sản phẩm, dịch vụ của họ ra thị trường thế giới. 2.3.4.6. Cán cân thanh toán quốc tế và cán cân thương mại Cán cân thanh toán quốc tế: Là một loại tài khoản tổng hợp tất cả các dòng ngoại tệ vào và ra của đất nước trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Cán cân thanh toán quốc tế gồm cán cân thanh toán vãng lai (trao đổi hàng hoá và dịch vụ) và cán cân vốn (trao đổi vốn). Thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế khi dòng ngoại tệ đi ra lớn hơn dòng ngoại tệ đi vào. Thặng dư cán cân thanh toán quốc tế khi dòng ngoại tệ đi vào lớn hơn dòng ngoại tệ đi ra khỏi đất nước. Cán cân thương mại – Thành phần quan trọng nhất của cán cân vãng lai – là hệ số thanh toán giữa xuất khẩu và nhập khẩu hay sự chênh lệch xuất nhập khẩu. Khi kim ngạch xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu trong một khoảng thời gian (thường là một năm) thì gọi là xuất siêu, còn ngược lại gọi là nhập siêu. Trong hoạt động thương mại, giữ vững được cán cân thanh toán quốc tế và cán cân thương mại có ý nghĩa quan trọng góp phần chủ yếu củng cố nền độc lập dân tộc và tăng trưởng kinh tế. Nếu qua cán cân thanh toán quốc tế ta thấy được thực trạng về kinh tế – tài chính của một đất nước thì qua cán cân thương mại ta sẽ thấy rõ thực trạng về ngoại thương của một nước. Cán cân thanh toán quốc tế, cán cân thương mại có tác động mạnh đến hối đoái và do đó tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu. Thông thường, các nước đang phát triển đều là những nước ở trong tình trạng thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế và nhập siêu. Nếu kim ngạch xuất khẩu nhỏ hơn 80% kim ngạch nhập khẩu và kéo dài thì nước đó tình hình kinh tế trở nên nghiêm trọng. Bài 2: Quản lý nhà nước về thương mại TXTMKT03_Bai2_v1.0014109226 41 Tóm lược cuối bài  Nhà nước quản lý về thương mại là tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường.  Hệ thống phương pháp quản lý thương mại gồm có 3 phương pháp.  Nhà nước sử dụng hệ thống công cụ để quản lý thương mại. Bài 2: Quản lý nhà nước về thương mại 42 TXTMKT03_Bai2_v1.0014109226 Câu hỏi ôn tập 1. Phân tích vai trò quản lý của Nhà nước đối với hoạt động thương mại. 2. Quản lý Nhà nước về thương mại – tính tất yếu và những nội dung cơ bản. 3. Trình bày nội dung và ưu nhược điểm của các phương pháp quản lý thương mại trong nền kinh tế quốc dân. 4. Trình bày cơ sở và nội dung của xu hướng tự do hóa thương mại và xu hướng bảo hộ mậu dịch. 5. Làm rõ các nguyên tắc cơ bản điều chỉnh quan hệ thương mại quốc tế. 6. Khái quát các yếu tố cơ bản của hệ thống công cụ quản lý thương mại. Kế hoạch hóa trong thương mại hiện nay có đặc điểm gì? 7. Cho biết sự giống nhau và khác nhau giữa thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu. Việc sử dụng công cụ này trong hoạt động xuất nhập khẩu ở nước ta có đặc điểm gì? 8. Hãy so sánh sự tác động của thuế nhập khẩu với sự tác động của hạn ngạch nhập khẩu trong xuất nhập khẩu hàng hóa. 9. Trợ cấp xuất khẩu có tác động tích cực và tiêu cực như thế nào đến nền kinh tế? Bài 2: Quản lý nhà nước về thương mại TXTMKT03_Bai2_v1.0014109226 43 Câu hỏi tự luận Câu hỏi: Có phải Hạn ngạch thuế quan và Hạn ngạch nhập khẩu là như nhau? Vì sao? Gợi ý trả lời: Không phải. Hạn ngạch thuế quan là sự kết hợp giữa hạn ngạch nhập khẩu và thuế nhập khẩu nhằm không khuyến khích nhập khẩu nhiều hơn hạn ngạch.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgiao_trinh_kinh_te_thuong_mai_bai_2_phan_1_quan_ly_nha_nuoc.pdf
Tài liệu liên quan