Giào trình lịch sử triết học

Lịch sử Triết học là môn học mang lại cho người học những hiểu biết mang tính hệ thống về quá trình hình thành và phát triển tư duy triết học – cơ sở của tư duy lý luận nhân loại, qua đó làm phong phú đời sống tinh thần và nâng cao năng lực sử dụng tư duy vào việc giải quyết các vấn đề do nhận thức khoa học và thực tiễn cuộc sống đặt ra. Vì vậy, trong mấy năm qua, môn học này đã được Bộ Giáo dục - Đào tạo cho phép đưa vào giảng dạy rộng rãi cho sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh của các trường đại học và cao đẳng trong cả nước. Tuy nhiên, việc giảng dạy và học tập môn học này luôn gặp không ít khó khăn. Nhằm tạo thuận lợi cho sinh viên trong việc học tập, giúp giảng viên thống nhất chương trình giảng dạy và yêu cầu trong thi cử, Bộ môn Triết học thuộc Ban Triết học – Xã hội học trường Đại học Kinh tế TP HCM đã giao cho TS Nguyễn Ngọc Thu và TS Bùi Văn Mưa tiến hành sửa chữa cơ bản nội dung giáo trình Đại cương Lịch sử Triết học (xuất bản năm 2001) và tái bản lần này dùng làm cơ sở cho việc giảng dạy và học tập môn Lịch sử triết học cho các hệ đào tạo trong trường. Để phù hợp với điều kiện học tập và nghiên cứu của sinh viên kinh tế, quyển giáo trình này không giới thiệu toàn bộ và phân tích đầy đủ các hệ thống triết học của các quốc gia dân tộc trên thế giới, mà chủ yếu giới thiệu một cách tổng quát các tư tưởng triết học cơ bản của một số hệ thống triết học tiêu biểu từ cổ đại đến hiện đại. Vì vậy, nội dung quyển giáo trình này được thiết kế thành 7 chương (xem mục lục) và được phân công biên soạn như sau: TS Nguyễn Ngọc Thu chủ biên và tham gia biên soạn các chương 1, 2, 3; TS Bùi Văn Mưa chủ biên các chương 4, 5, 6, 7 và tham gia biên soạn các chương 2, 3, 4, 5, 6, 7. TS Nguyễn Thanh tham gia biên soạn chương 1; TS Hoàng Trung tham gia biên soạn chương 4; TS Trần Nguyên Ký tham gia biên soạn chương 5; TS Bùi Bá Linh, ThS Bùi Xuân Thanh, ThS Vũ Thị Kim Liên tham gia biên soạn chương 6; PGS-TS Trương Giang Long và TS Lê Thanh Sinh tham gia biên soạn chương 7. Mặc dù tập thể tác giả rất cố gắng, song giáo trình này chắc chắn vẫn còn nhiều hạn chế, Bộ môn Triết học rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành, sâu sắc của các đồng nghiệp, các sinh viên, bạn đọc để kịp thời sửa chữa, bổ sung trong lần tái bản sau. Thư từ, ý kiến trao đổi, đăng ký phát hành xin vui lòng liên hệ với Bộ môn Triết học, Ban Triết học – Xã hội học Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh - Địa chỉ: 59 C Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3, TP HCM (Phòng A 216); (: (08)8.242.677. Xin chân thành cảm ơn. TP HCM, tháng 3 năm 2003 Bộ môn Triết học

doc101 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2396 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giào trình lịch sử triết học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
qua bộ Tư bản và một số công trình quan trọng khác, Mác đã phân tích các quy luật của đời sống xã hội, tiếp tục phát triển quan niệm duy vật biện chứng về lịch sử. Theo Mác, giống như tự nhiên, xã hội cũng phát triển theo những quy luật nhất định. Quy luật hạt nhân chi phối quá trình phát triển của mọi thời đại lịch sử là các quy luật: Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất; cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội... Với tác phẩm Góp phần phê phán chính trị kinh tế học, Mác khẳng định, trong quá trình sản xuất, con người hình thành nên những quan hệ nhất định. Các quan hệ ấy tồn tại độc lập không phụ thuộc vào ý thức của con người. Những quan hệ sản xuất phù hợp với một trình độ nhất định của những lực lượng sản xuất vật chất của mình. Tập hợp những quan hệ sản xuất ấy hợp thành kết cấu kinh tế của một hình thái kinh tế xã hội, cơ sở hiện thực để trên đó hình thành nên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị; phù hợp với cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng ấy là những hình thái nhất định của ý thức xã hội. Theo Mác, cơ cấu kinh tế của một xã hội quy định quá trình hình thành kiến trúc thượng tầng và các hình thái tương ứng của ý thức xã hội. Phương thức sản xuất ra của cải vật chất quy định cơ cấu xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác là người đã chứng minh được rằng không phải ý thức con người quyết định tồn tại xã hội, mà ngược lại, chính tồn tại của xã hội quyết định ý thức xã hội. Trong mọi phương thức sản xuất, công cụ lao động được Mác xem là yếu tố quan trọng nhất. Trình độ phát triển của công cụ lao động chính là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Người lao động -một bộ phận không thể tách rời của lực lượng sản xuất, cùng với công cụ lao động trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Theo lôgích khách quan của sự phát triển, trong một phương thức sản xuất, quan hệ sản xuất bao giờ cũng là nhân tố tương đối ổn định. Nó cũng biến đổi, nhưng thường biến đổi chậm hơn so với lực lượng sản xuất. Biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn trên đây chính là mâu thuẫn giữa giai cấp tiến bộ và cách mạng con đẻ của lực lượng sản xuất với giai cấp bảo thủ, phản động có lợi ích gắn với quan hệ sản xuất. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển của lịch sử xã hội. Khi phân tích các cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp, Mác chỉ ra rằng, đỉnh cao của đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến các cuộc cách mạng xã hội. Mục tiêu của các cuộc cách mạng xã hội là đập tan bộ máy thống trị của giai cấp thống trị, thiết lập nên bộ máy nhà nước mới. Nếu các cuộc cách mạng xã hội trước đây trong lịch sử, là nhằm thay thế bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị này bằng bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị khác, thì ngược lại, cách mạng vô sản là cuộc cách mạng khác hoàn toàn về chất. Công lao to lớn của Mác và Ăngghen thể hiện ở chỗ, các ông đã chỉ rõ: Cuộc cách mạng vô sản phải là một cuộc cách mạng không ngừng. Nhiệm vụ của cách mạng vô sản không phải chỉ thay thế nhà nước của giai cấp bóc lột bằng một nhà nước kiểu mới. Nhiệm vụ của nó là phải thủ tiêu hoàn toàn và triệt để chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, xây dựng một xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất do nhân dân lao động là người làm chủ. Cùng với nhiệm vụ phân tích các quy luật khách quan của lịch sử xã hội, Mác và Ăngghen cũng đã dành một phần thời gian cho việc nghiên cứu vấn đề tất yếu và tự do. Theo Mác, con ngưòi chỉ thực sự tự do đúng nghĩa khi con người nhận thức được cái tất yếu. Cả trong tự nhiên và xã hội, con người càng nắm bắt được chính xác các quy luật của nó bao nhiêu, con người càng hành động thực sự tự do bấy nhiêu. Tóm lại, từ những luận điểm cơ bản mang tính duy vật triệt để, thông qua bộ Tư bản và các công trình nghiên cứu của thời kỳ này, Mác và Ăngghen đà làm sáng tỏ một luận điểm có giá trị sâu sắc về cả lý luận và thực tiễn: Lịch sử phát triển của loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên. Sự thay thế nhau của các hình thái kinh tế xã hội là do sự vận động tự thân của các quy luật khách quan trong chính bản thân các phương thức sản xuất quy định. Con người là chủ thể của lịch sử, nhưng con người không tạo ra lịch sử một cách tùy tiện. Con người sáng tạo ra lịch sử trên cơ sở nắm bắt và hành động đúng theo các quy luật khách quan. Có thể nói, từ Tuyên ngôn của Đảng cộng sản tới Công xã Pari, Mác và Ăngghen đã nâng triết học lên một vị thế mới. Đến đây loài người thực sự biết đến một phép biện chứng duy vật khoa học và một quan niệm chín mùi về biện chứng của tiến trình phát triển lịch sử. 2. Giai đoạn Lênin a) Đặc điểm của giai đoạn Lênin Nghiên cứu giai đoạn Lênin trong lịch sử hình thành triết học Mác cần chú trọng một số đặc điểm cơ bản sau đây : Thứ nhất: Khác với thời kỳ hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, sự xuất hiện chủ nghĩa đế quốc đánh dấu bước ngoặc trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Chiến tranh giữa các nước đế quốc không những làm cho mâu thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trở nên gay gắt, mà cùng với nó là mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với các dân tộc thuộc địa cũng ngày càng trầm trọng. Thời cơ cho một cuộc bùng nổ cách mạng đã vào thời điểm chín mùi. Thứ hai: Do vị thế của giai cấp vô sản Nga và vị thế địa - chính trị của nước Nga, nên cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX nước Nga trở thành trung tâm của cách mạng vô sản thế giới. Dưới sự lãnh đạo của chính đảng mácxít kiểu mới do V. I. Lênin lãnh đạo, giai cấp vô sản Nga cùng với nông dân, trí thức và các tầng lớp xã hội khác đã thực hiện cuộc cách mạng dân chủ tư sản và sau đó là cuộc cách mạng vô sản Nga năm 1917 thắng lợi. Cách mạng tháng 10 năm 1917 đã mở ra kỷ nguyên phát triển mới của lịch sử xã hội loài người. Thứ ba: Cùng với sự hình thành chủ nghĩa đế quốc và phong trào cách mạng vô sản thế giới, những thành tựu đạt được trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, đặc biệt là trong lĩnh vực vật lý học đã thực sự đem đến một cuộc cách mạng trong khoa học. Bước phát triển mới của khoa học ở thời kỳ này đòi hỏi cần phải có sự khái quát cao hơn về mặt triết học. Thứ tư: Trong cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản và các thế lực phản động quốc tế chống lại phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản, giai cấp tư sản đã không từ bất kỳ thủ đoạn nào. Chủ nghĩa xét lại đội lốt "đổi mới", bọn cơ hội chủ nghĩa của quốc tế II, bọn mensêvích, những người Nga theo chủ nghĩa Makhơ... được giai cấp tư sản hà hơi tiếp sức đã nhân danh "cấp tiến" tấn công chủ nghĩa Mác cả về mặt tư tưởng lẫn triết học. Lênin đã chống lại tất cả các trào lưu tư tưởng phản động đó, bảo vệ và phát triển toàn diện triết học Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác nói chung. Như vậy do sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản Nga trong điều kiện phát triển mới của cách mạng, Lênin trở thành lãnh tụ của phong trào cộng sản quốc tế. Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, ông đã dành một phần thời gian quan trọng của cuộc đời bảo vệ chủ nghĩa Mác và xây dựng thế giới quan khoa học mới trên lập trường của giai cấp vô sản. b) Các thời kỳ phát triển Thời kỳ 1880 – 1907 Người có công truyền bá chủ nghĩa Mác vào nước Nga chính là Plêkhanốp, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của nước Nga những năm cuối thế kỷ XIX. Từ những năm 1880, ông đã dịch và đưa vào nước Nga nhiều tác phẩm quan trọng của chủ nghĩa Mác: Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Sự khốn cùng của triết học, Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức... Ngoài ra ông còn viết nhiều tác phẩm có giá trị khác như Chủ nghĩa xã hội và đấu tranh chính trị, Khái niệm về lịch sử của chủ nghĩa duy vật... Ông và nhóm "Giải phóng lao động" do ông lãnh đạo đã có những đóng góp nhất định vào việc truyền bá những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác vào nước Nga. Tuy nhiên, do không đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng nên Plêkhanốp không hiểu đúng thực chất cuộc cách mạng dân chủ tư sản ở Nga. Do nhận thức mơ hồ về vai trò của giai cấp tư sản và vị trí của giai cấp nông dân trong liên minh giai cấp với giai cấp vô sản, Plêkhanốp đã tự đánh mất vai trò lịch sử của mình và biến mình thành kẻ cơ hội, cản trở xu thế phát triển của cách mạng vô sản. Thời kỳ đầu, Lênin đã tập trung viết nhiều tác phẩm quan trọng về triết học. Trong tác phẩm nổi tiếng Những người bạn dân..., ông đã đấu tranh kiên quyết chống chủ nghĩa duy tâm và phương pháp siêu hình của phái dân túy bảo vệ chủ nghĩa duy vật biện chứng. Ông khẳng định rằng, triết học duy vật biện chứng của Mác và Ăngghen có ý nghĩa vạch thời đại. Nó khác về chất so với phép biện chứng duy tâm khách quan của Hêghen. Phép biện chứng duy vật chính là công cụ nhận thức và cải tạo thế giới. Sức sống và giá trị của phép biện chứng duy vật là ở sự khái quát những quy luật vận động chung nhất của tự nhiên và sự vận dụng các quy luật của giới tự nhiên vào việc phân tích các hiện tượng của đời sống xã hội. Lênin viết rằng, những người mácxít không xây dựng những quan điểm dân chủ - xã hội của mình trên một cơ sở nào khác, ngoài cái cơ sở là sự phù hợp của những quan điểm ấy với hiện thực và với lịch sử, những quan hệ kinh tế - xã hội nhất định Xem V.I. Lênin: Toàn Tập, Tập 1, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, tr. 236-237 . Lênin chỉ ra rằng, phái dân túy không nhận thức được tính chất mâu thuẫn trong sự phát triển, không thừa nhận sự nhảy vọt và đứt đoạn của lịch sử là một quá trình lịch sử tự nhiên. Chỉ có chủ nghĩa Mác mới nhận thức đúng lôgích phát triển của lịch sử, mới có khả năng phân tích các quan hệ xã hội dựa trên các quan hệ kinh tế, mới chỉ ra lịch sử xã hội loài người vận động và phát triển bởi sự tác động của các qui luật khách quan. Còn sự thay thế lẫn nhau giữa các hình thái kinh tế xã hội là kết quả tất yếu của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất và các qui luật khác. Ngoài ra, cũng trong tác phẩm này, Lênin còn phân tích mối quan hệ biện chứng giữa quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử, vai trò của nhân tố chủ quan và các chính đảng trong cách mạng. Khi phê phán phái "chủ nghĩa Mác hợp pháp", chủ nghĩa Cantơ mới, các nội dung kinh tế của phái dân túy, Lênin nhấn mạnh sự thống nhất biện chứng giữa triết học mácxít và thực tiễn cách mạng, giữa tính đảng vô sản với tính khách quan khoa học trong hệ thống quan điểm chung về thế giới... Và ông coi chúng là đặc điểm nói lên sự khác nhau căn bản giữa triết học Mác với các trào lưu triết học khác trong lịch sử triết học. Trong tác phẩm Làm gì?, Lênin tập trung phân tích làm sáng tỏ nội dung tư tưởng của chủ nghĩa Mác về các hình thức đấu tranh giai cấp trước khi giai cấp vô sản giành chính quyền, bao gồm đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị và đấu tranh tư tưởng. Trong đó, đấu tranh kinh tế giữ vai trò quan trọng, nhưng đấu tranh chính trị lật đổ giai cấp thống trị giành chính quyền mới là quyết định. Người cũng chứng minh rằng, hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể là kết quả đấu tranh tự giác của phong trào công nhân thông qua các cuộc đấu tranh chính trị. Trong tác phẩm Hai sách lược của Đảng dân chủ xã hội trong cách mạng dân chủ, Lênin khái quát một số vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa như vấn đề lực lượng cách mạng, vai trò lãnh đạo của chính đảng cách mạng, khả năng giành thắng lợi của cách mạng vô sản trong một nước riêng biệt... Những quan điểm trên đây đã góp phần phát triển quan điểm duy vật biện chứng vào việc phân tích đời sống xã hội. Thời kỳ sau 1907 Sau thất bại của cuộc cách mạng 1905-1907, phong trào cách mạng Nga rơi vào thoái trào. Chủ nghĩa Makhơ và những kẻ dao động, phản bội tăng cường tấn công vào hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác. Để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới nên vào thời kỳ này, Lênin đã viết nhiều tác phẩm. Tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán viết vào năm 1908 đã góp phần giải quyết hàng loạt vấn đề quan trọng của triết học. Khi khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, Lênin đã phát triển lý luận về nhận thức. Cống hiến của ông cho triết học trong tác phẩm này là đưa ra định nghĩa triết học về vật chất; phát triển lý luận về phản ánh khi coi cảm giác của con người chỉ là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan. Đồng thời, ông đã chứng minh rằng, con người hoàn toàn có thể nhận thức được thế giới hiện thực khách quan; rằng thực tiễn chính là tiêu chuẩn khách quan của mọi chân lý, nó thẩm định mọi giá trị của nhận thức. Ông cũng chỉ ra tính khách quan, tính cụ thể, tính tương đối, tính tuyệt đối là những thuộc tính chung vốn có của chân lý. Cũng trong tác phẩm này, Lênin khẳng định, muốn thực sự trở thành một nhà khoa học chân chính, nhà khoa học phải đứng trên lập trường của triết học duy vật biện chứng... Sự phát triển phép biện chứng duy vật được Lênin tập trung trình bày trong tác phẩm Bút ký triết học (1914-1916). Lênin là người có công rất lớn trong việc xây dựng hệ thống các qui luật và phạm trù của phép biện chứng duy vật. Ông chỉ rõ sự khác nhau căn bản giữa phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình xung quanh quan niệm về vận động, phát triển, nguồn gốc động lực của sự phát triển... Tác phẩm này còn là sự thể hiện tuyệt vời nguyên tắc về sự thống nhất giữa phép biện chứng, lôgích học và lý luận nhận thức... Trong tác phẩm Chủ nghĩa đế quốc giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản (1916), Lênin đã vận dụng thiên tài tư tưởng của phép biện chứng vào việc phân tích thời đại mới, thời đại chiến tranh đế quốc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, vạch ra những qui luật và khuynh hướng phát triển tất yếu; trên cơ sở đó rút ra một số kết luận quan trọng định hướng cho phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản. Tác phẩm Nhà nước và Cách mạng (1917-1918) đã góp phần giải quyết xuất sắc các nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lênin luận giải phạm trù chuyên chính vô sản và tính tất yếu phải sử dụng chuyên chính vô sản để đập tan bộ máy của giai cấp thống trị, xây dựng chế độ mới. Chuyên chính vô sản là phương thức quá độ từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa cộng sản... Ngoài ra, từ sau cách mạng tháng 10 năm 1917, Lênin còn viết rất nhiều tác phẩm và các bài báo chống phép siêu hình, chủ nghĩa chiết trung và thuyết ngụy biện. Tiêu biểu là các tác phẩm Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào cộng sản (1920); Về chính sách kinh tế mới (1921); bài báo Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu (1922)... Tất cả các tác phẩm này đều tập trung bảo vệ và phát triển những quan điểm duy vật biện chứng, củng cố mối quan hệ giữa triết học và các ngành khoa học, về chiến lược, sách lược và những mục tiêu cụ thể của cách mạng... Như vậy, giai đoạn Lênin trong quá trình hình thành và phát triển triết học Mác – Lênin không phải là sự giải thích triết học Mác như quan niệm của các nhà triết học tư sản. Giai đoạn Lênin là sự phát triển sáng tạo và triệt để những nội dung cơ bản của triết học Mác trong những điều kiện mới của lịch sử. 3. Vận dụng và phát triển triết học Mác - Lênin trong điều kiện hiện nay Nghiên cứu lịch sử hình thành triết học Mác - Lênin, chúng ta ghi nhận những cống hiến của Mác, Ăngghen, Lênin vào kho tàng lý luận của nhân loại là vô giá. Triết học Mác - Lênin thực sự là một cuộc cách mạng trong tiến trình phát triển của tri thức nhân loại. Mặc dù vậy, "Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như một cái gì xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm, trái lại chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa phải phát triển hơn nữa về mọi mặt nếu họ không muốn lạc hậu với cuộc sống" V. I. Lênin: Toàn Tập, Tập 4, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1974, tr. 232. . Tư tưởng thiên tài trên đây của Lênin đòi hỏi các thế hệ học trò của Mác không được phép giáo điều chủ nghĩa. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước luôn luôn đặt ra hàng loạt vấn đề không có lời giải cho trước từ di sản của chủ nghĩa Mác. Phải biết cách tổng kết thực tiễn dựa trên tinh thần khoa học và cách mạng của phép biện chứng duy vật. Nhờ đó, nhận thức đúng quy luật, vạch ra đường lối, phương châm, chiến lược, sách lược phù hợp với mỗi bước đi cụ thể của từng giai đoạn cách mạng. Chẳng hạn, vấn đề sở hữu, vấn đề kế hoạch hóa, vấn đề nhà nước và tính chất đặc biệt của nhà nước quá độ không nguyên nghĩa, vấn đề giai cấp đấu tranh trong thời kỳ quá độ, vấn đề đảng cầm quyền và nguy cơ quan liêu hóa bộ máy nhà nước... tất cả các vấn đề này cần phải được phân tích xem xét gắn với thực tiễn, gắn với điều kiện cụ thể của mỗi nước. Lịch sử cho thấy: do chủ quan duy ý chí, giáo điều và quan liêu trong nhận thức mà nhiều đảng vô sản khi vận dụng chủ nghĩa Mác vào điều kiện cụ thể của nước mình đã phạm phải những sai lầm nghiêm trọng dẫn đến sự suy thoái và sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở nhiều nước trên thế giới. Hiện nay vẫn còn sớm để đưa ra kết luận về mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nhưng chúng ta không thể phủ định những đóng góp lớn lao của học thuyết Mác - Lênin vào những thành quả của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Đó chinh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, tinh thần cơ bản của triết học biện chứng duy vật nói riêng vào quá trình phát triển của cách mạng nước ta. Đặc điểm của thời đại hiện nay là cách mạng khoa học và công nghệ gắn với cách mạng xã hội. Chúng luôn luôn tạo ra những động lực phát triển mạnh mẽ, mới khác về chất. Do đó, rất cần phải có sự khái quát về mặt triết học để nắm bắt và làm chủ xu thế phát triển của thời đại. Hơn thế nữa, trong giai đoạn chủ nghĩa xã hội bị khủng hoảng như hiện nay thì yêu cầu phải bảo vệ chân giá trị khoa học của chủ nghĩa Mác và phát triển bổ sung lý luận cho nó càng trở nên cấp bách. Đương nhiên những vấn đề của chủ nghĩa xã hội hiện đại không thể giải quyết chỉ bằng triết học. Nhưng, nếu không có thế giới quan triết học thực sự khoa học và đổi mới, thì chúng ta sẽ không thể hội nhập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Cách mạng về mặt triết học là tiền đề và là điều kiện để thực hiện mọi cuộc cách mạng. Những người mácxít chân chính nhận rõ điều đó. Vận dụng và phát triển sáng tạo triết học Mác luôn luôn là nhiệm vụ trọng tâm của các nhà khoa học và những người cộng sản. II. KHÁI QUÁT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA MỘT SỐ TRÀO LƯU TRIẾT HỌC NGOÀI MÁCXÍT PHƯƠNG TÂY HIỆN ĐẠI Các nhà triết học của giai cấp bóc lột từ trước đến nay đặc biệt là giai cấp tư sản ngày nay luôn tìm cách phủ nhận tính giai cấp, tính đảng trong triết học của họ. Để biện hộ cho lập luận đó, họ thường cho rằng, triết học phải vô tư, khách quan mới phản ánh được cuộc sống. Nhưng trong thực tế, triết học tư sản, xét về thực chất là hệ tư tưởng, là thế giới quan của giai cấp tư sản, nó ra đời và tồn tại gắn liền với chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản. Đến giữa thế kỷ XIX, giai cấp tư sản nhiều nước ở châu Âu đã giành được chính quyền. Triết học tư sản đã hoàn thành nhiệm vụ cùng với cuộc cách mạng tư sản. Về sau, triết học này đã dần dần xa rời truyền thống duy vật và biện chứng của triết học Anh, Pháp, Đức ở thế kỷ XVII-XIX để chuyển sang chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình, tạo nên thế giới quan tiêu cực. Đầu thế kỷ XX, nhất là sau chiến tranh thế giới thứ hai, triết học Phương Tây hiện đại tiếp tục phân hóa thành nhiều trường phái, trong đó có hai trường phái chủ yếu là chủ nghĩa duy khoa học và chủ nghĩa nhân bản phi duy lý. Sở dĩ có sự chuyển hướng đó là vì: - Do sự phát triển như vũ bão của lực lượng sản xuất xã hội với nền sản xuất cơ khí hóa, điện khí hóa, tự động hóa cao đã cung cấp cho xã hội một khối lượng hàng hóa khổng lồ khiến cho các tập đoàn tư bản lũng đoạn không thể duy trì quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dưới những hình thức cũ được nữa. Những thành tựu đó buộc các nhà tư tưởng của các tập đoàn tư bản lũng đoạn phải đề ra những hình thức triết lý mới của hệ tư tưởng của giai cấp tư sản hiện đại. - Quá trình phát triển sản xuất vì mục đích lợi nhuận đã buộc giai cấp tư sản phải chú ý đến khoa học để sử dụng khoa học. Nhưng giai cấp tư sản lại lý giải khoa học một cách duy tâm, do đó đã hình thành trào lưu triết học duy khoa học theo lập trường duy tâm đầy mâu thuẫn. Trong vấn đề con người và xã hội, giai cấp tư sản không muốn thừa nhận các quy luật khách quan của sự phát triển, nên họ đã đề cao chủ nghĩa nhân bản phi duy lý. Trào lưu duy khoa học và trào lưu nhân bản phi duy lý dường như đối lập nhau, nhưng thực tế, chúng lại bổ sung nhau, bởi vì chúng cần thiết cho sự ổn định và phát triển của xã hội tư bản hiện nay. 1. Chủ nghĩa hiện sinh Chủ nghĩa hiện sinh là một trường phái triết học chủ yếu trong trào lưu chủ nghĩa nhân bản phi duy lý, nó ra đời vào đầu thế kỷ XIX bởi nhà triết học người Đan Mạch Kiếckêgơ (S.Kierkegaard). Với nội dung chính là vấn đề tồn tại của con người, chủ nghĩa hiện sinh đã phát triển mạnh ở Đức - Pháp từ những thập niên 20-60 của thế kỷ XX. Lúc bấy giờ, ở các nước phương Tây, sự tuyệt đối hóa vai trò của khoa học, sùng bái kỹ thuật, hạ thấp xem nhẹ mặt tâm hồn và đời sống của con người diễn ra khắp nơi, hơn nữa, những mâu thuẫn xã hội tư bản đã đẩy con người vào tình trạng tha hóa nghiêm trọng; vì vậy, chủ nghĩa hiện sinh đã ra đời để lên án chủ nghĩa tư bản Phương Tây và kêu gọi con người hãy tự cứu lấy mình. Chủ nghĩa hiện sinh đầu thế kỷ XX xuất phát từ triết học phi duy lý ở thế kỷ XIX có các đại biểu chủ yếu như Haiđơgơ (Heidegger), Xáctơrơ (Sartre), Giaxpơ (Jaspers), Mácxen (Marcel). Họ coi hiện sinh là sự cảm thụ chủ quan, là sự thể nghiệm tâm lý có tính chất phi lý tính của cá nhân. Đối với họ, sự hiện sinh của cá nhân là nội dung cơ bản trong triết học. Về bản thể luận, chủ nghĩa hiện sinh cho rằng hiện sinh có trước bản chất. Xáctơrơ đã giải thích: Con người hiện hữu trước, tự nổi lên trong thế giới, và sau đó, nó mới được định nghĩa; còn nếu như con người không định nghĩa được, thì đó là vì nó không là cái gì cả. Con người không phải là cái gì khác ngoài cái mà nó thể hiện ra. Các nhà hiện sinh đã phân biệt hai khái niệm hữu thể và hiện hữu. Hữu thể là khái niệm chỉ một cái gì đó đang tồn tại nhưng chưa là một cái gì đó cụ thể. Còn hiện hữu là một khái niệm chỉ một cái gì đó không những đang có mặt mà còn đang sống đích thực với diện mạo riêng. Do vậy mà hiện sinh không phải là giới tự nhiên hoặc sự vật mà là con người. Về nhận thức luận, chủ nghĩa hiện sinh cho rằng, những tri thức thu được bằng khoa học dựa trên lý tính là hư ảo; hơn nữa chúng làm tha hóa con người. Theo họ, để đạt đến hiện sinh chân chính thì chỉ có thể dựa vào trực giác phi lý tính; bởi vì, chỉ trong cuộc sống đau khổ, cô đơn, tuyệt vọng... con người mới có thể trực tiếp cảm nhận được sự tồn tại của mình… Như vậy, nhận thức luận của chủ nghĩa hiện sinh là nhận thức duy tâm chủ quan phi duy lý. Về luân lý, chủ nghĩa hiện sinh phản đối mọi hình thức quyết định luận trong đạo đức, phủ nhận sự tồn tại phổ biến của những nguyên tắc đạo đức. Quan điểm về tự do của chủ nghĩa hiện sinh là quan điểm của chủ nghĩa cá nhân cực đoan, vì chủ nghĩa hiện sinh cho rằng tự do là bản chất của sự hiện sinh của cá nhân con người, nó không phục tùng Thượng đế hoặc bất cứ quyền uy nào khác, cũng không chịu sự ràng buộc của tính tất yếu khách quan nào cả, nó là tuyệt đối. Về quan điểm lịch sử xã hội, khi xuất phát từ tự do cá nhân tuyệt đối, chủ nghĩa hiện sinh cho rằng, chỉ có cá nhân mới là hiện sinh chân thực, xã hội chỉ là một phương thức hiện sinh của cá nhân và không chân thực, nhưng sự tồn tại xã hội đã bóp chết hiện sinh chân chính của con người. Chủ nghĩa hiện sinh còn cho rằng, lịch sử là không thể nhận thức được, lịch sử chẳng qua là sự biểu hiện ra bên ngoài sự tồn tại của con người, mà sự tồn tại của con người là không thể biết được. Như vậy, mặc dù vấn đề tồn tại của con người được đặt lên hàng đầu, song chủ nghĩa hiện sinh đã giải quyết nó trên lập trường duy tâm chủ quan, phi lý tính. 2. Chủ nghĩa Tôma mới Ra đời từ thời kỳ trung cổ ở Tây Au, ngay từ đầu, chủ nghĩa Tôma (Thomas) đã kết hợp thần học của đạo Kytô với triết học của Arixtốt và của Platông. Vào cuối thế kỷ XIX, một hình thái mới của triết học Thiên chúa giáo đã xuất hiện ở Phương Tây, lấy Chúa làm nòng cốt, lấy đức tin làm tiền đề, lấy thần học làm căn cứ, và gọi là chủ nghĩa Tôma mới. Về thực chất, chủ nghĩa Tôma mới là sự phục hồi hệ thống thần học của Tôma Đacanh theo điều kiện mới. Chủ nghĩa Tôma cũ thời trung cổ dựa trên lập trường duy tâm khách quan để chứng minh cho sự tồn tại của chúa, sự bất tử của linh hồn... Chủ nghĩa Tôma mới thừa nhận vai trò của khoa học và biết dựa vào khoa học để đi sâu hơn vào nhận thức luận và triết học tự nhiên nhằm luận chứng cho sự nhất trí giữa tri thức và đức tin, giữa khoa học và thần học. Về nhận thức luận, chủ nghĩa Tôma mới, một mặt, thừa nhận tính khách quan của nhận thức và tính đúng đắn của các phán đoán khoa học; nhưng mặt khác, nó lại mưu toan dùng nguyên tắc tương đồng loại suy để từ chỗ thừa nhận bản thể của thế giới hiện thực mà xác nhận bản thể của của Chúa. Về triết học tự nhiên, chủ nghĩa Tôma mới cho rằng bất cứ vật thể nào cũng đều do hình thức và vật chất tạo thành. Vật chất là bản nguyên thụ động, là khả năng; còn hình thức là chủ động, là hiện thực. Theo họ, Chúa là hình thức tối cao, cho nên việc nghiên cứu của khoa học tự nhiên là quá trình không ngừng phát hiện ra Chúa, khẳng định Chúa, chứ không phủ nhận Chúa. Về chính trị xã hội, chủ nghĩa Tôma mới phủ nhận sự tồn tại của các giai cấp, chủ trương thuyết tính người trừu tượng, coi trần thế là tạm thời, cuộc sống tương lai là vĩnh hằng. Về đạo đức, chủ nghĩa Tôma mới khác với trào lưu phi duy lý trong đạo đức học ở chỗ nó khoác áo "lý tính" tuyên bố rằng đức tin và lý tính là nhất trí, thần học và khoa học là thống nhất với nhau. Hệ thống lý luận đạo đức của chủ nghĩa Tôma mới dựa trên cơ sở đó. Qui tắc đạo đức cao nhất là qui tắc "vĩnh hằng" của Chúa. Như vậy, chủ nghĩa Tôma mới là một trào lưu triết học duy tâm khách quan nhằm luận chứng cho thế giới quan tôn giáo trong điều kiện phát triển vũ bão của khoa học hiện đại. 3. Triết học khoa học Triết học khoa học Phương Tây hiện đại bao gồm hai trào lưu nối tiếp nhau: Trào lưu thực chứng và trào lưu hậu (phản) thực chứng. a) Trào lưu thực chứng Chủ nghĩa thực chứng ra đời vào những năm 30-40 của thế kỷ XIX ở Pháp, sau đó ở Anh với khẩu hiệu "bản thân khoa học đã là triết học”, “những tri thức về thế giới là đặc quyền của khoa học thực chứng". Các triết gia thực chứng cho rằng, triết học không nên nghiên cứu những vấn đề như bản chất của sự vật, các qui luật chung của thế giới... mà nên đi tìm những phương pháp hiệu quả và đáng tin cậy nhất. Chủ nghĩa thực chứng đã phát triển trải qua 3 giai đoạn: Giai đoạn thực chứng cổ điển xuất hiện vào thập niên 30 của thế kỷ XIX, với những đại biểu là Côngtơ (Comte) ở Pháp, Spenxơ (Spencer), Minlơ (Mill) ở Anh. Họ cho rằng chỉ có các hiện tuợng hoặc sự kiện mới là "cái thực chứng", do đó, họ không thừa nhận bất cứ cái gì ngoài hiện tượng, không thừa nhận bản chất của sự vật. Họ muốn lẫn tránh vấn đề cơ bản của triết học, muốn loại trừ vấn đề thế giới quan ra khỏi triết học truyền thống; họ tự coi mình là đứng trên chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, mà thực ra, triết học của họ là một thứ chủ nghĩa duy tâm chủ quan - bất khả tri của Hium. Giai đoạn kinh nghiệm phê phán xuất hiện vào thập niên 70 – 90 thế kỷ XIX. Đại biểu của giai đoạn này là Makhơ (Mach) và Avênariút (Avenarius). Họ đề xướng quan niệm duy tâm chủ quan về kinh nghiệm; coi cảm giác của con người không quan hệ gì với thực tại khách quan; coi khách thể không thể có được nếu không có chủ thể; họ phủ nhận sự tồn tại của quy luật cũng như của chân lý khách quan… Như vậy, chủ nghĩa thực chứng đã chuyển từ chủ nghĩa hiện tượng mang tính chất bản thể luận sang chủ nghĩa hiện tượng mang tính chất nhận thức luận. Giai đoạn thực chứng mới ra đời sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất và phát triển cao vào những năm 50. Giai đoạn này có nhiều chi phái: - Chủ nghĩa nguyên tử lôgích xuất hiện từ 1920, đại biểu là Rútxen (Russell) và Vítgenxtanh (Wittgenstein). Họ cho rằng, yếu tố cấu tạo nên tự nhiên không phải là vật chất mà là những phán đoán trên cơ sở tri giác, và họ gọi chúng là những đơn vị lôgích. - Chủ nghĩa thực chứng lôgích và triết học phân tích. Đây là những môn phái đưa chủ nghĩa thực chứng mới vào thời kỳ hưng thịnh nhất để rồi sau đó rơi vào thời kỳ tan rã không tránh khỏi. Đại biểu chính là Cácnáp (Carnap), Slích (Shelich)… Trong số các nhà sáng lập triết học phân tích vào đầu thế kỷ XX thì Rútxen là người có ảnh hưởng tương đối lớn. Khi coi nhiệm vụ phân tích hình thức và phân tích lôgích là nội dung chủ yếu của triết học, ông chủ trương lấy lôgích toán làm cơ sở tạo ra ngôn ngữ nhân tạo để đảm bảo sự nhất trí giữa cấu trúc cú pháp của mệnh đề và hình thức lôgích của nó. Chủ nghĩa thực chứng lôgích dựa trên 2 nguyên tắc: nguyên tắc kiểm chứng và nguyên tắc quy ước. Nguyên tắc kiểm chứng được dùng để phân định các luận điểm có ý nghĩa đối với khoa học và những luận điểm không có ý nghĩa đối với khoa học; còn nguyên tắc quy ước cho phép coi lôgích và toán học không phải là tri thức về hiện thực, chúng không có nội dung khách quan mà chỉ là những kết cấu lôgích chủ quan, do con người quy ước và thỏa thuận với nhau tạo ra. b) Trào lưu phản thực chứng Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, triết học khoa học phương Tây chuyển từ trào lưu thực chứng sang trào lưu phản thực chứng. Các vấn đề tăng trưởng tri thức, thay đổi lý luận, phát triển khoa học… được nghiên cứu gắn liền với thực trạng khoa học lúc bấy giờ theo tinh thần phủ chứng và quan điểm lịch sử. Để duy trì sức sống cho trào lưu triết học khoa học, Pốppơ (Popper) đã kế thừa có phê phán chủ nghĩa thực chứng lôgích đang suy tàn và tìm kiếm một hình thức mới - chủ nghĩa phủ chứng. Chủ nghĩa phủ chứng Pốppơ cho rằng, một lý luận được gọi là khả phủ chứng nếu từ nó rút ra ít nhất một trần thuật có thể xung đột với một vài sự kiện nào đó. Nếu sự xung đột đã xảy ra thì lý luận này là lý luận bị phủ chứng, còn nếu sự xung đột chưa xảy ra thì lý luận này là lý luận vị phủ chứng. Lý luận bị phủ chứng bị đào thải, lý luận vị phủ chứng tạm thời được giữ lại tạo thành nội dung của khoa học. Do cho rằng con người không bao giờ đạt tới chân lý, mọi tri thức đều không đầy đủ, mọi lý luận khoa học đều là những suy đoán giả thuyết khả phủ chứng, mà Pốppơ coi khoa học không truy tìm tính chân lý để xác chứng mà là truy tìm tính sai lầm để phủ chứng lý luận. Theo ông, lý luận được bác bỏ càng nhanh càng tốt, càng làm cho tính tinh xác và tính phổ quát của các trần thuật lý luận ngày càng cao. Còn ngược lại, lý luận hoàn toàn không xung đột với bất kỳ sự kiện nào là lý luận bất khả phủ chứng, nó thuộc về lĩnh vực siêu hình học, tôn giáo. Như vậy, Pốppơ đã nâng khái niệm phủ chứng lên thành nguyên tắc phủ chứng mang tinh thần lý tính phê phán. Nguyên tắc này đòi hỏi: Một là, phải nêu ra tất cả các giả thuyết có thể có, và buộc chúng phải đối mặt với mọi sự phê phán nghiêm khắc để làm bộc lộ ra những sai lầm khiếm khuyết mà không được dựa vào bất cứ một kết luận quy nạp nào để làm tiền đề cho lý luận; Hai là, phải biết học tập từ trong sai lầm và dũng cảm phạm sai lầm; Ba là, phải dám phê phán và dám phủ định. Theo Pốppơ, khoa học là một sự nghiệp mang tính thể nghiệm nên sai lầm khó tránh khỏi. Muốn khoa học tiến lên chúng ta cần phải biết xử lý để loại bỏ sai lầm một cách nhanh chóng. Do khoa học phát triển trong quá trình cạnh tranh giữa các lý luận khả dĩ nên cần phải phê phán để tuyển lựa lý luận tối ưu, nhằm thúc đẩy sự phát triển khoa học. Khoa học phát triển khi lý luận cũ bị phủ định để tạo tiền đề cho sự ra đời lý luận mới. Nhà khoa học không phải chỉ biết phủ định lý luận của người khác mà phải dám và tìm mọi cách phủ định lý luận của chính mình. Từ đây, Pốppơ cho rằng, khoa học bắt đầu phát triển từ vấn đề khoa học. Nếu gọi: P1 –vấn đề khoa học, TT –các lý luận khoa học cạnh tranh nhau được đưa ra để giải quyết vấn đề, EE -các sự kiện kinh nghiệm phản bác các lý luận khoa học cạnh tranh nhau, P2 -vấn đề mới xuất hiện, thì tri thức khoa học sẽ tăng trưởng theo sơ đồ: P1 ® TT ® EE ® P2. Khi vạch ra sai lầm cơ bản của chủ nghĩa phủ chứng thô sơ Pốppơ là quá đề cao tính phủ chứng của kinh nghiệm, Lacatốt (Lakatos) đã khắc phục nó bằng chủ nghĩa phủ chứng tinh tế. Ông cho rằng, tính chất cơ bản của lý luận khoa học không phải là tính khả phủ chứng mà là tính mềm dẻo chịu đựng và tính phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, các lý luận khoa học hợp lại tạo thành tri thức bối cảnh của khoa học thống nhất. Khi sự thật kinh nghiệm và lý luận xung đột nhau thì rất khó xác định lý luận sai hay tri thức bối cảnh không đúng. Nếu biết điều chỉnh thích đáng tri thức bối cảnh thì lý luận khoa học có thể sống sót từ sự phản bác kinh nghiệm. Từ đây, ông kết luận: Sự thật kinh nghiệm không thể xác chứng hay phủ chứng một trần thuật lý luận nào. Theo ông, một lý luận T nào đó chỉ bị phủ chứng khi: Một là, xuất hiện lý luận T’ có nội dung kinh nghiệm phong phú hơn nó và cho phép dự kiến hay phát hiện nhiều sự thực mới hơn T; Hai là, T’ nói rõ sự thành công mà T đã đạt được trước đó; Ba là, toàn bộ nội dung chưa phản bác của T đều được bao hàm trong T’; Bốn là, có một số nội dung dư thừa của T’ so với T đã được xác chứng… Khi xung đột với sự thật kinh nghiệm, lý luận không nhất thiết phải bị đào thải mà đòi hỏi phải điều chỉnh lại để cứu vãn nó. Muốn đánh giá đúng một lý luận nào đó cần phải đặt nó trong mối liên hệ với những lý luận khác hay với những giả thuyết phụ trợ của nó, phải đặt nó trong điều kiện, hoàn cảnh mà nó xuất hiện, nghĩa là phải có quan điểm toàn diện, lịch sử - cụ thể. Như vậy, chủ nghĩa phủ chứng tinh tế coi sự tăng trưởng liên tục của tri thức khoa học là do sự sản sinh và cạnh tranh của các hệ lý luận khoa học chứ không phải do sự phản bác dẫn đường hay sự bất thường xảy ra trong khoa học; Coi mỗi kết quả thực nghiệm phải được lý giải trong mối liên hệ phức tạp giữa lý luận với lý luận hay giữa lý luận với kinh nghiệm; Coi mọi giả thuyết hay trần thuật lý luận đã được xác chứng trước đó có thể bị phủ chứng bởi một hệ lý luận hoàn chỉnh hơn chứ không phải bởi một sự thực kinh nghiệm đơn lẻ. Từ đây, Lacatốt cho rằng, tính khoa học chỉ là thuộc tính của một hệ nhiều lý luận liên kết chặt chẽ với nhau mà ông gọi là “Cương lĩnh nghiên cứu khoa học”. Cương lĩnh này được tạo thành từ bốn yếu tố là: hạt cứng, dây bảo hộ, quy tắc gợi ý phản diện và quy tắc gợi ý chính diện. Hạt cứng là lý luận cơ bản không thay đổi và không cho phép phản bác của cương lĩnh nghiên cứu, còn nếu nó bị phản bác thì toàn bộ cương lĩnh nghiên cứu cũng bị phản bác… Dây bảo hộ là tập hợp các giả thuyết phụ trợ được chủ động đưa ra và xếp thành một vành đai xoay quanh hạt cứng, nhằm điều chỉnh sự phản bác của kinh nghiệm hướng vào chính mình để bảo vệ hạt cứng... Quy tắc gợi ý phản diện là những gợi ý hướng sự phản bác vào dây bảo hộ và sửa chữa nó để bảo vệ hạt cứng, để biến những cái bất lợi thành có lợi… Quy tắc gợi ý chính diện là những gợi ý hướng đến sự tinh giản, sửa chữa hay đề xuất các giả thuyết bổ trợ để cho cương lĩnh nghiên cứu ngày càng tiến bộ. Lacatốt cho rằng sự điều chỉnh dây bảo hộ sẽ làm cho cương lĩnh nghiên cứu thay đổi theo hướng tiến bộ -khi nội dung kinh nghiệm tăng lên và giải thích, dự đoán được nhiều sự thực kinh nghiệm hơn, hay theo hướng thoái bộ -các trường hợp còn lại. Trong giai đoạn tiến bộ, cương lĩnh nghiên cứu không bị lung lay hay lẩn tránh các sự kiện bất thường, bất lợi mà chủ động thu hút, đồng hóa để biến chúng thành cái bình thường, có lợi. Tuy nhiên, sau giai đoạn tiến bộ, cương lĩnh nghiên cứu sẽ chuyển sang giai đoạn thoái bộ, khi ấy, các sự kiện bất thường, bất lợi sẽ ngày càng tăng và thu hút sự chú ý của các nhà khoa học. Một cương lĩnh nghiên cứu thoái bộ T chỉ bị phủ chứng khi xuất hiện một cương lĩnh nghiên cứu mới T’ tiến bộ hơn. Dựa trên chủ nghĩa phủ chứng tinh tế, Lacatốt xây dựng lại lịch sử khoa học và thuyết minh quá trình tăng trưởng tri thức khoa học một cách hợp lý. Ngoài ra, ông còn dùng lịch sử khoa học để đánh giá các phương pháp luận cạnh tranh nhau trong trào lưu triết học khoa học bấy giờ. Theo ông, lịch sử khoa học chỉ được xây dựng hợp lý khi biết kết hợp lịch sử bên trong với lịch sử bên ngoài (các yếu tố tâm lý, lịch sử - xã hội) của khoa học, đặc biệt là biết vận dụng lý tính tự do vô hạn để hóa dễ mọi khó khăn… Như vậy, nếu chủ nghĩa phủ chứng thô sơ chỉ quan tâm đến khía cạnh lôgích, lý tính mà ít hay không chú trọng đến lịch sử, sự kiện hiện thực, thì chủ nghĩa phủ chứng tinh tế đã bàn đến vai trò của lịch sử hiện thực, nhưng lịch sử hiện thực lại bị che đậy kín đáo bởi lý tính tự do vô hạn. Điều này nói rằng, chủ nghĩa phủ chứng cố vượt ra khỏi chủ nghĩa lôgích, nhưng nó vẫn còn bị ràng buộc với lý tính lôgích, trong nó, chủ nghĩa lịch sử mới chỉ nhú mầm chứ chưa bám rễ vững chắc. Khi xuất phát từ thực trạng của khoa học và các yếu tố bên ngoài của khoa học như tín niệm tập thể của cộng đồng khoa học…, Cun (Kuhn) đã làm cho chủ nghĩa lịch sử xuất hiện với một sức sống mãnh liệt. Ông cho rằng, trong sự nghiệp khoa học luôn tồn tại các khối cộng đồng khoa học độc lập nhau, bị chi phối bởi các kiểu mẫu mực khác nhau. Khối cộng đồng khoa học là một tập hợp các con người cùng làm công tác khoa học, có sự tiếp thụ văn hóa cơ bản giống nhau, có sự giao lưu nội bộ tương đối đầy đủ, có sự nhất trí về quan niệm chuyên môn, có những bài học kinh nghiệm và phong thái tư duy gần nhau... Những khối cộng đồng khoa học khác nhau luôn chú ý đến những vấn đề khoa học khác nhau, hay cùng chú ý đến một vấn đề nhưng theo những cách khác nhau. Vì vậy, giữa các khối cộng đồng khoa học khác nhau khó có sự trao đổi chuyên môn, còn nếu có sự trao đổi chuyên môn thì rất dễ dẫn đến hiểu lầm. Tồn tại nhiều cấp, nhiều khối cộng đồng khoa học khác nhau có kiểu mẫu mực không giống nhau. Kiểu mẫu mực là một khái niệm được Cun dùng để chỉ những tín niệm chung về quan điểm, lý luận, phương pháp cơ bản của một cộng đồng khoa học nào đó. Tín niệm chung của một khối cộng đồng khoa học cho phép thiết lập một loạt vấn đề chung, đưa ra một kiểu mô hình hay phương thức giải quyết tổng quát cho các vấn đề đó. Nó đòi hỏi sự hiện hữu của những điều kiện, phương tiện, phạm vi đối tượng nghiên cứu, phương hướng và triển vọng phát triển chung. Do kiểu mẫu mực trong mỗi cộng đồng khoa học rất bền vững nên một sự thật đơn lẻ không đủ để xác chứng hay phủ chứng nó, mà chỉ có cách mạng khoa học mới làm thay đổi kiểu mẫu mực này bằng kiểu mẫu mực khác. Về mặt nội dung, các kiểu mẫu mực hoàn toàn khác nhau, do đó chúng không thể so sánh được. Cun không chỉ liên kết kiểu mẫu mực với cộng đồng khoa học mà còn cố gắng kết hợp lịch sử bên trong với lịch sử bên ngoài của khoa học, cố gắng kết hợp lịch sử khoa học với xã hội học và tâm lý học khoa học… nhằm vạch ra và khảo sát các yếu tố chi phối sự phát triển khoa học. Do tình hình phát triển khoa học vào thập niên 50 thế kỷ XX đòi hỏi phải tổng hợp tri thức khoa học chuyên ngành, đòi hỏi phải làm rõ tính chỉnh thể thống nhất, tính tổng hợp của khoa học hiện đại, và do hoạt động của nhà khoa học luôn chịu sự chi phối bởi một kiểu quan điểm, một loại nguyên tắc, một kiểu khuôn mẫu nào đó nhất định… mà định hướng nghiên cứu đúng đắn này của Cun đã được giới khoa học phương Tây nhiệt thành hưởng ứng. Cun coi khoa học là kết quả hoạt động của các khối cộng đồng khác nhau, có sử dụng các kiểu mẫu mực không giống nhau nhưng luôn thay đổi để hoàn thiện chính mình; Coi lịch sử khoa học không chỉ là lịch sử trừu tượng của tư tưởng mà còn là lịch sử của khối cộng đồng khoa học, luôn bị chi phối bởi các quy luật nội tại và những áp lực lớn từ bên ngoài khoa học như các tư tưởng triết học, các yếu tố lịch sử – xã hội, các yếu tố tâm lý cá nhân... Khi khái quát nhận định này ông đưa ra lý luận “Động thái phát triển khoa học”, trong đó khẳng định mỗi chu trình phát triển của khoa học phải trải qua bốn thời kỳ là: tiền khoa học, khoa học bình thường, khủng hoảng khoa học và cách mạng khoa học. Tiền khoa học là thời kỳ hình thành dần các quan điểm, lý luận, phương pháp cơ bản thống nhất đưa đến sự ra đời kiểu mẫu mực… Khoa học bình thường là thời kỳ cả khối cộng đồng khoa học công nhận và kiên định sử dụng kiểu mẫu mực để tập trung tinh lực vào giải quyết các vấn đề nảy sinh trong nghiên cứu mà không cần kiểm tra, phê phán hay thay đổi nó. Tuy nhiên, do đối tượng nghiên cứu phức tạp bị gò ép theo một kiểu mẫu mực đơn điệu, nên những sự kiện bất thường xuất hiện. Để biến sự kiện bất thường thành bình thường cần phải nhanh chóng điều chỉnh lý luận và phương pháp, mà kết quả là lý luận phong phú thêm, phương pháp hiệu quả hơn và tri thức tinh xác thêm... Khủng hoảng khoa học là thời kỳ mà sự kiện bất thường xuất hiện ngày càng nhiều và càng gay gắt, còn sự điều chỉnh bổ sung lý luận và phương pháp không còn tác dụng nữa. Lúc này, lý luận trở nên mơ hồ, phương pháp trở nên kém hiệu quả, khoa học mất phương hướng, kiểu mẫu mực hiện hành bị nghi ngờ. Những quan điểm, lý luận, phương pháp mới cạnh tranh nhau làm cho kiểu mẫu mực này đứng trên bờ vực sụp đổ. Một số thành viên của khối cộng đồng tiếp tục cố giữ kiểu mẫu mực cũ và cự tuyệt kiểu mẫu mực mới. Một số thành viên khác chủ trương từ bỏ kiểu mẫu mực cũ và ra sức xây dựng kiểu mẫu mực mới. Khối cộng đồng khoa học bị phân hóa, chia rẽ và tan rã khi hai xu hướng này xung đột mạnh mẽ. Đây là thời kỳ tinh thần phê phán sáng tạo dâng cao nhất… Cách mạng khoa học là thời kỳ phá bỏ kiểu mẫu mực cũ, xây dựng kiểu mẫu mực mới đầy sức sống, và cơ cấu lại khối cộng đồng khoa học. Nhờ vậy mà các sự kiện bất thường nhất cũng biến thành bình thường. Trong cách mạng khoa học, lực lượng tiến bộ chủ yếu là các nhà khoa học trẻ, ít chịu ảnh hưởng bởi kiểu mẫu mực cũ, có niềm tin vào nó không sâu, nên dễ hoài nghi và nhanh chóng từ bỏ nó. Còn lực lượng bảo thủ là các nhà khoa học thuộc thế hệ già, được rèn luyện lâu dài và chịu ảnh hưởng sâu bởi kiểu mẫu mực cũ, nên họ khó từ bỏ nó để chấp nhận kiểu mẫu mực mới. Nhiều kiểu mẫu mực mới cạnh tranh nhau mãnh liệt. Để một kiểu mẫu mực nào đó có cơ may được khối cộng đồng khoa học thừa nhận thì nó phải hội đủ những tiêu chuẩn khách quan và có được những nhân tố chủ quan như tính tinh xác, tính hiệu quả, tính đơn giản, tính bao quát... Ngoài ra, kinh nghiệm lịch sử, cá tính cá nhân của nhà khoa học… cũng góp phần không nhỏ vào sự chọn lựa này. Khi kiểu mẫu mực mới được khẳng định, tín niệm mới được hình thành, củng cố và mở rộng trong khối cộng đồng khoa học thì cuộc cách mạng khoa học chấm dứt. Một thời kỳ khoa học bình thường mới được xác lập. Do kiểu mẫu mực không phản ánh tính quy luật của thế giới khách quan, mà chỉ là một tín niệm tâm lý chung của một khối cộng đồng khoa học được hình thành dưới những điều kiện lịch sử khác nhau, nên sản phẩm do nó mang lại cũng chỉ là cái ước định mang tính tâm lý chủ quan, chứ không phải là tri thức mang tính chân lý khách quan. Sự thay đổi của kiểu mẫu mực không làm sâu sắc thêm nhận thức khoa học mà chỉ là một sự biến đổi tâm lý. Thế giới trong tâm khảm của các nhà khoa học thuộc các khối cộng đồng khác nhau là không như nhau. Từ đây, ông kết luận, thế giới mà các nhà khoa học nhận thức không phải là thế giới tồn tại khách quan bên ngoài mà là thế giới ước định tồn tại chủ quan bên trong đời sống tâm lý của một cá nhân hay một cộng đồng các nhà khoa học. Dựa trên quan niệm này, Cun coi chân lý chỉ là phương tiện chủ quan được dùng để loại bỏ những vấn đề nan giải trong nghiên cứu khoa học. Đối với ông, nói về chân lý khách quan là một việc làm ấu trĩ, khẳng định sự phát triển khoa học sẽ tiếp cận chân lý là hồ đồ. Do kiểu mẫu mực của Cun không khác gì kiểu niềm tin thần thoại hay tín ngưỡng tôn giáo nên trong triết học của ông, giữa khoa học và thần thoại - tôn giáo khó tìm thấy một sự phân biệt rõ ràng. Sự phủ nhận tính kế thừa của các kiểu mẫu mực đã buộc Cun phải coi khoa học tiến triển không theo hướng tiến bộ mà là theo hướng tuỳ cơ mà diễn biến. Còn nếu buộc phải thừa nhận có sự tiến bộ trong tiến trình phát triển khoa học thì ông hiểu tiến bộ theo tinh thần của thuyết tiến hóa sinh học, nghĩa là lý luận tiến bộ hơn là lý luận đối phó tốt hơn với sự thay đổi của hoàn cảnh, hay giải quyết các vấn đề nan giải hiệu quả hơn. Tóm lại, sai lầm cơ bản của chủ nghĩa lịch sử Cun là coi kiểu mẫu mực chỉ là một loại tín niệm tâm lý chung của khối cộng đồng khoa học. Điều này đã phủ nhận tính chân lý của lý luận khoa học, phủ nhận tính tiến bộ của nhận thức khoa học. Dù chủ nghĩa lịch sử đã đưa Cun đến thuyết bất khả tri, chủ nghĩa quy ước, chủ nghĩa tương đối, nhưng các lý luận về cách mạng khoa học, về vai trò của yếu tố lịch sử - tâm lý - xã hội tác động đến việc xác lập kiểu mẫu mực (hay lý luận khoa học), về vai trò của kiểu mẫu mực quy định quan điểm - lý luận - phương pháp cơ bản của một khối cộng đồng khoa học, về sự cạnh tranh giữa các kiểu mẫu mực trong quá trình phát triển khoa học… luôn là những giá trị to lớn của triết học Cun. Ông xứng đáng là người khởi xướng chủ nghĩa lịch sử và làm cho nó tuôn ra mạnh mẽ trong trào lưu triết học khoa học. Chủ nghĩa lịch sử được Phâyeraban (Feyerabend) tiếp tục phát triển trong “Phương pháp luận đa nguyên”. Khi đề cao phương pháp lựa chọn, ông cho rằng: Nhà khoa học năng động sáng tạo là người biết sử dụng phương pháp này để thu hút, kết hợp các kiến giải khác với kiến giải của mình, biết so sánh tư tưởng của mình với tư tưởng của người mà không nhất thiết phải đối chiếu với kinh nghiệm; Mỗi cá nhân đều có thể và cần phải đóng góp càng nhiều, càng tốt vào sự nghiệp văn hóa chung của nhân loại; Mỗi ý tưởng, mỗi lý luận đều góp phần tạo nên đời sống tinh thần mênh mông của con người mà giá trị của chúng là tính hiệu quả, là sự gia tăng không ngừng số lượng lý luận và nội dung kinh nghiệm của mình; Sự thực kinh nghiệm không thể xác chứng hay phủ chứng một lý luận nào cả… Với phương pháp khôi phục lại lịch sử, ông coi lịch sử khoa học tiến lên phía trước nhưng cũng lùi về phía sau, bởi vì một lý luận khoa học vững chắc nhất phải là lý luận có bề dầy lịch sử và thấm sâu vào lịch sử. Khi coi sự phát triển tiến lên của khoa học đòi hỏi chúng ta phải quay trở về thời kỳ đầu của nó với những lý luận mơ hồ có nội dung kinh nghiệm ít ỏi, ông yêu cầu phải chỉ rõ bằng cách nào mà những thần thoại hoang đường hôm qua lại biến thành những lý luận khoa học vững chắc hôm nay, và những tri thức khoa học vững chắc hôm nay sẽ biến thành thần thoại buồn cười của ngày mai. Với quan điểm này, ông kêu gọi con người phải giữ lấy mọi ý tưởng, quan niệm, lý luận đã được phát hiện ra để cân nhắc, bổ sung, hoàn chỉnh lý luận, quan điểm, ý tưởng mới của mình, mà không có cái gì phải vứt vào sọt rác của lịch sử cả. Với phương pháp phi lý tính, ông coi lý tưởng thời đại, điều kiện xã hội, tâm lý quần chúng, lợi ích giai - tầng, sự nhạy bén của cá tính cá nhân, bối cảnh tri thức và sự tuyên truyền của khoa học... là những yếu tố phi lý tính thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học. Theo ông, nếu không có sự hỗn độn thì sẽ không có tri thức, nếu không có sự mất đi thường xuyên của lý tính cùng sự tác động của phi lý tính thì cũng sẽ không có sự tiến bộ trong khoa học. Vì vậy, cần phải hạn chế, thậm chí xóa bỏ lý tính để tạo điều kiện cho các yếu tố phi lý tính trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy khoa học tiến bộ. Khoa học và các hình thức phi khoa học như thần thoại, tôn giáo, siêu hình học không cô lập mà là thẩm thấu vào nhau, cùng thúc đẩy nhau phát triển. Bằng nguyên tắc “thế nào cũng được”, ông chủ trương tạo ra một bầu không khí thật dân chủ tự do để khai thác triệt để tính năng động sáng tạo của giới khoa học làm cho lý luận không ngừng tăng trưởng, để mỗi nhà khoa học được phép lựa chọn lý luận tối ưu nhất mà không bị cưỡng bức tiếp thu một lý luận, một phương pháp hay một quy tắc nào cả. Dựa trên nguyên tắc này, ông phê phán chủ nghĩa kinh nghiệm giáo điều, chủ nghĩa lý tính hẹp hòi, đồng thời chủ trương coi trọng các yếu tố phi lý tính, phi truyền thống. Tại đây, ông đã đưa chủ nghĩa lịch sử đến với chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa cơ hội. “Phương pháp luận đa nguyên” là định hướng để ông xây dựng lý luận về khoa học tự do trong một xã hội tự do. Theo ông, trong xã hội tự do, không có một tiêu chuẩn tuyệt đối nào để phân giới khoa học và các hình thái ý thức phi khoa học, mà chúng đan xen thâm nhập vào nhau, vì vậy, không nên dành cho khoa học một quyền uy trước các hình thái ý thức khác. Hơn nữa, mục tiêu của khoa học cũng không phải là mục tiêu quan trọng nhất, và khoa học không chi phối mọi sinh hoạt của con người, mà mỗi con người đều có một điều kiện để sống, một niềm tin để theo đuổi, một cơ hội để sáng tạo. Trong xã hội hiện đại, sở dĩ khoa học nổi bật hơn so với các hình thái ý thức khác là do khoa học khéo léo và biết kết hợp chặt chẽ với nhà nước để can thiệp mạnh mẽ vào mọi hoạt động khác của con người. Tình hình này đã tạo ra chủ nghĩa sôvanh khoa học, coi khoa học là thiêng liêng bất khả bài xích, nhưng bản thân khoa học lại được phép bài xích, xâm phạm các hình thái ý thức khác. Từ đây, ông khẳng định chủ nghĩa sôvanh khoa học không củng cố sức mạnh và ưu thế cho khoa học mà là trói buộc tính sáng tạo và tự do lựa chọn của nó. Và khi nào khoa học còn có quá nhiều quy tắc, chuẩn mực cứng nhắc thì khi đó tính thích ứng của nó với hoàn cảnh lịch sử càng ít, tính giáo điều của nó càng nhiều, khi đó nó đang tự giết chết chính mình, vì vậy, cần phải phấn đấu xây dựng khoa học tự do trong một xã hội tự do. ĐẠI CƯƠNG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC Chủ biên: TS Bùi Văn Mưa - TS Nguyễn Ngọc Thu Chịu trách nhiệm xuất bản: TRẦN ĐÌNH VIỆT Biên tập : Sửa bản in : Trình bày : Bìa : NHÀ XUẤT BẢN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 62 Nguyễn Thị Minh Khai – Quận 1 Điện thoại : 8225340 – 8296764 – 8220405 – 8296713 – 8223637 Fax : 84.8.8222726 l Email : nxbtphcm@bdvn.vnd.net In 2000 cuốn, Khổ 14,5 x 20,5 cm, tại Công ty In ……………… GP số: 834–10/XB-QLXB ngày 31-7- 2003 In xong và nộp lưu chiểu tháng 10 năm 2003

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docsach_lich_su_triet_hoc_8425.doc