TÓM LƯỢC CUỐI BÀI
Thực hiện pháp luật.
Thực hiện pháp luật là hành vi của các chủ thể đưa pháp luật vào cuộc sống.
Có các hình thức thực hiện pháp luật khác nhau: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử
dụng pháp luật và áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật đặc thù bởi chủ thể thực hiện chỉ bao
gồm các cơ quan nhà nước, các cá nhân, tổ chức được nhà nước trao quyền.
Trong nhiều trường hợp, để thực hiện pháp luật được đúng đắn, hiệu quả cần phải có sự
giải thích pháp luật. Giải thích pháp luật có thể là chính thức hoặc không chính thức phụ
thuộc vào các chủ thể giải thích pháp luật.
Pháp chế là yêu cầu đặt ra đối với hệ thống pháp luật v à việc thực hiện pháp luật của tất
cả các chủ thể trong xã hội. Để có pháp chế, cần đáp ứng một số yêu cầu cơ bản. Phụ
thuộc vào các kiểu pháp chế mà các yêu cầu này có sự khác nhau nhất định.
Ý thức pháp luật.
Ý thức pháp luật thể hiện sự nhận thức và thái độ, tình cảm của các chủ thể đối với pháp
luật.
Ý thức pháp luật là một hình thái của ý thức xã hội tuy nhiên bên cạnh các điểm chung
của một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật còn có những đặc điểm riêng.
Ý thức pháp luật được cấu thành bởi hai yếu tố: hệ tư tương pháp luật và tâm lý pháp luật.
Ý thức pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật. Ý thức pháp luật góp phần hoàn
thiện pháp luật và thúc đẩy các chủ thể thực hiện đúng pháp luật.
Trên cơ sở các yếu tố cấu thành của ý thức pháp luật để đưa ra các giải pháp nhằm nâng
cao ý thức pháp luật của các chủ thể trong xã hội.
32 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 233 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật - Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giải thích các thuật ngữ được sử dụng trong quy phạm pháp luật. Trong nhiều
trường hợp các thuật ngữ được sử dụng trong quy phạm pháp luật gây nên sự
khó hiểu, hoặc gây nhầm lẫn cho các chủ thể thực hiện pháp luật. Do vậy, cần
phải có sự giải thích các thuật ngữ này để giúp cho việc thực hiện đúng,
nghiêm pháp luật.
Giải thích các quy phạm pháp luật cụ thể để làm sáng tỏ nội dung tư tưởng, ý
nghĩa của quy phạm pháp luật. Có những quy phạm pháp luật khiến cho chủ
thể lúng túng trong việc thực hiện, hoặc có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến
những cách thực hiện khác nhau. Việc làm rõ nội dung tư tưởng, ý nghĩa của
quy phạm pháp luật giúp cho việc thực hiện quy phạm pháp luật đạt được mục
tiêu đặt ra.
Giải thích mối liên hệ, quan hệ giữa các quy phạm pháp luật với nhau. Trong
nhiều trường hợp, việc làm rõ mối liên hệ, quan hệ giữa các quy phạm pháp
luật khác nhau giúp thực hiện đúng pháp luật. Bởi có những quy phạm pháp
luật chỉ có thể thực hiện đúng mục tiêu của nhà làm luật nếu đặt trong mối
quan hệ với các quy phạm pháp luật khác. Do vậy, cần có sự giải thích về mối
liên hệ, quan hệ giữa chúng.
Giải thích các điều, khoản, quy định của một văn bản quy phạm pháp luật
hoặc giải thích cả văn bản quy phạm pháp luật đó để nhằm làm sáng rõ nội
dung, ý nghĩa, mục tiêu của chúng.
Giải thích một chế định pháp luật gồm những quy phạm pháp luật cùng điều
chỉnh một nhóm quan hệ xã hội có cùng tính chất, đặc điểm, nội dung.
o Nguyên tắc giải thích pháp luật.
Giải thích đúng nguyên văn: Nội dung lời văn của quy phạm pháp luật được
hiểu theo đúng từng câu, từng chữ của nó.
Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật
156 TGL101_Bai6_v1.0014103225
Giải thích theo đúng nội dung, ý nghĩa của quy phạm pháp luật. Trong nhiều
trường hợp, việc giải thích pháp luật không chỉ hoặc không thể căn cứ vào
mặt hình thức của quy phạm pháp luật (về mặt ngữ pháp: câu, từ) của quy
phạm pháp luật, mà phải căn cứ vào nội dung, ý nghĩa được truyền tải trong
quy phạm pháp luật đó.
Giải thích theo đúng mục tiêu của quy phạm pháp luật, của chế định pháp
luật, của ngành luật, của văn bản quy phạm pháp luật. Mỗi quy phạm pháp
luật được soạn thảo đều nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định mà nhà làm
luật gửi gắm vào nó. Do vậy, việc giải thích pháp luật phải được thực hiện
trên cơ sở những mục tiêu đặt ra cho các quy phạm pháp luật nói riêng và
cho chế đinh pháp luật hoặc ngành luật, hoặc văn bản quy phạm pháp luật
nói chung.
o Phân loại giải thích pháp luật: Dựa vào chủ thể giải thích pháp luật và đặc trưng
của sự giải thích, giải thích pháp luật được phân thành hai loại
Giải thích chính thức: Là giải thích được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Giải thích này có giá trị pháp lý, bắt buộc các chủ thể có liên
quan phải tuân theo.
Giải thích không chính thức: Là giải thích được thực hiện bởi các các tổ chức,
cá nhân, không phải là cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Giải thích này
không có giá trị pháp lý, chỉ có giá trị tham khảo.
Phương pháp giải thích pháp luật
o Phương pháp logic
Sử dụng những suy đoán logic để làm sáng tỏ nội dung của quy phạm pháp luật.
Thường được sử dụng trong những trường hợp lời văn của quy phạm pháp luật
không trực tiếp nói rõ yêu cầu của nhà nước.
o Phương pháp giải thích ngôn ngữ, văn phạm
Giải thích rõ nghĩa từng chữ, từng vế, từng ý, từng câu trong quy phạm pháp luật
và xác định mỗi liên hệ ngữ pháp giữa chúng.
o Phương pháp giải thích chính trị–lịch sử
Làm sáng tỏ nội dung, tư tưởng một văn bản, một chế định, một quy phạm pháp
luật theo nguồn gốc xuất xứ, hoàn cảnh ra đời, quá trình hình thành và phát triển,
quan điểm chính trị.
o Phương pháp hệ thống
Giải thích một văn bản, một chế định, một quy phạm pháp luật trong mối liên hệ
chặt chẽ về nội dung và vị trí với các văn bản, chế định, quy phạm pháp luật khác.
o Phương pháp giải thích mở rộng, phát triển
Trong một số trường hợp, cần phải được giải thích theo cách mở rộng, phát triển.
Theo đó, nội dung lời văn của quy phạm pháp luật được hiểu rộng hơn so với
nghĩa của từ, ngữ trong văn bản. Lưu ý, định hướng của việc mở rộng là nhằm
hiểu đúng nội dung và nghĩa đích thực mà nhà làm luật muốn thể hiện. Đây là
phương pháp được áp dụng một cách hạn chế. Chỉ áp dụng trong trường hợp có
những thiếu sót trong kỹ thuật lập pháp.
Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật
TGL101_Bai6_v1.0014103225 157
o Phương pháp giải thích hạn chế
Là cách giải thích nội dung lời văn của quy phạm pháp luật hẹp hơn so với nghĩa
của từ ngữ được sử dụng trong quy phạm đó. Việc giải thích hạn chế chỉ có thể
được sử dụng nhằm làm rõ, hiểu đúng ý chí của nhà nước được thể hiện trong đó.
Cần thận trọng khi áp dụng phương pháp này để tránh tình trạng vi phạm pháp chế.
6.1.5. Pháp chế
Pháp chế là một khái niệm đa nghĩa. Pháp chế có hai nghĩa chính, căn bản sau:
o Pháp chế được hiểu là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của bộ máy nhà nước,
các cơ quan nhà nước, các cán bộ, viên chức nhà nước phải tuân thủ pháp luật,
thực hiện pháp luật trong tổ chức và hoạt động.
Theo nghĩa này, chỉ là nguyên tắc trong hoạt động quản lý nhà nước, chỉ áp
dụng đối với các chủ thể được nhà nước trao quyền là các cơ quan nhà nước,
các cán bộ, viên chức nhà nước.
Nguyên tắc pháp chế yêu cầu tất cả các chủ thể này phải luôn tôn trọng và
thực hiện pháp luật một cách tự giác, đầy đủ, nghiêm chỉnh, thống nhất và
phải chịu trách nhiệm pháp lý như nhau khi vi phạm pháp luật. Các chủ thể
được nhà nước trao quyền phải thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình
trên cơ sở của pháp luật. Tránh mọi hiện tượng tùy tiện, tùy hứng.
o Pháp chế còn được hiểu là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị – xã hội
trong đó thể chế pháp luật được xác lập trong toàn bộ đời sống xã hội từ trong
tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước đến các thiết chế, quan hệ xã hội,
hoạt động, sinh hoạt của mọi chủ thể pháp luật trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội.
Theo nghĩa này, pháp chế được hiểu một cách đơn giản như khẩu hiệu: "Sống
và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật". Mọi người sẽ sống và làm việc trên
cơ sở của pháp luật. Khi đó pháp luật sẽ điều chỉnh các quan hệ của các chủ
thể và các chủ thể tham gia các quan hệ xã hội trên cơ sở của pháp luật.
Pháp chế không chỉ là nguyên tắc hoạt động của bộ máy nhà nước mà còn là
yêu cầu đối với tất cả các cá nhân tuân thủ triệt để pháp luật, đối lập với tình
trạng vô pháp luật. Tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội, nhân viên nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân
đều phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và
chính xác.
o Tóm lại, pháp chế là một phạm trù thể hiện những yêu cầu và sự đòi hỏi đối với
các chủ thể pháp luật phải tôn trọng và triệt để thực hiện pháp luật trong đời sống
xã hội. Pháp chế đòi hỏi sự hiện diện của một hệ thống pháp luật hoàn thiện với
sự tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách chính xác, thống nhất của tất cả các
chủ thể trong xã hội, nhằm xây dựng xã hội có trật tự, kỷ cương.
Phân biệt pháp chế với pháp luật: Pháp luật và pháp chế không phải là một,
mà có sự khác biệt nhau. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội
Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật
158 TGL101_Bai6_v1.0014103225
nhằm thiết lập trật tự xã hội nhất định. Pháp chế là chế độ đặc biệt của đời
sống chính trị – xã hội trong đó pháp luật được các cơ quan nhà nước, các tổ
chức xã hội và mọi công dân tôn trọng và thực hiện một cách nghiêm chỉnh.
Mối quan hệ giữa pháp chế và pháp luật: Pháp luật và pháp chế có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau. Chỉ khi có pháp luật đầy đủ, hoàn chỉnh và được thực
hiện nghiêm chỉnh thì mới có pháp chế. Pháp luật là cơ sở để hình thành pháp
chế. Để có pháp chế, đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật hoàn thiện. Chỉ có thể
có hệ thống pháp luật đầy đủ, chất lượng hoàn chỉnh mới có thể có được sự tự
giác thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật. Các chủ thể mới tôn trọng
và thực hiện nghiêm minh pháp luật. Ngược lại, pháp chế là môi trường làm
cho pháp luật phát huy được vai trò, hiệu lực, điều chỉnh một cách có hiệu quả
các quan hệ xã hội. Pháp chế là mục tiêu phấn đấu để hoàn thiện hệ thống
pháp luật và thực hiện đúng pháp luật.
Kiểu pháp chế: Dựa vào các kiểu pháp luật mà có các kiểu pháp chế khác nhau. Tuy
nhiên, hiện nay chỉ có hai kiểu pháp chế tồn tại là pháp chế tư sản và pháp chế xã hội
chủ nghĩa.
o Pháp chế tư sản gắn liền với sự ra đời của pháp luật tư sản và là một bước tiến
quan trọng của giai cấp tư sản trong giai đoạn chống chế độ phong kiến. Pháp chế
tư sản ra đời nhằm chống lại sự tùy tiện, chuyên quyền của các thế lực phong
kiến, đấu tranh chống lại những đặc quyền, đặc lợi, tình trạng cát cứ, địa phương
chủ nghĩa.
Nguyên tắc pháp chế phục vụ cho lợi ích của xã hội nói chung, cho những
người vô sản nói riêng. Pháp chế giúp cho các quyền tự do dân chủ, tiến bộ
được pháp luật tư sản ghi nhận được thực hiện trên thực tế. Pháp chế tư sản
tạo nên một bước tiến quan trọng trong sự phát triển của xã hội tư sản.
Nguyên tắc pháp chế tư sản có những yêu cầu sau: Bảo đảm tính tối cao của
hiến pháp. Theo đó, các văn bản được xây dựng trái với hiến pháp sẽ bị vô
hiệu. Để đảm bảo nguyên tắc này, các nhà nước tư sản thường lập tòa án hiến
pháp (hoặc hội đồng bảo hiến) để xem xét tính hợp hiến của các luật và các
văn bản khác; Bảo đảm sự tuân thủ đầy đủ, chính xác pháp luật của các tổ
chức, cá nhân trong xã hội, của các cơ quan nhà nước. Các cơ quan nhà nước,
quan chức, công chức nhà nước đều phải chịu sự giám sát của pháp luật. Mọi
công dân đều phải tuân thủ pháp luật. Để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật,
nhà nước tư sản tổ chức hệ thống tòa án độc lập với các cơ quan lập pháp và
hành pháp trên cơ sở học thuyết tam quyền phân lập.
Pháp chế tư sản thường không triệt để, luôn có nguy cơ bị vi phạm. Tình trạng
này xuất phát một phần từ kiểu pháp luật tư sản. Nhằm phục vụ lợi ích của
giai cấp thống trị tư sản và với hình thức pháp luật cho phép áp dụng án lệ,
tiền lệ pháp, thì việc thực hiện pháp luật trong nhà nước tư sản sẽ phụ thuộc
nhiều vào chủ thể áp dụng pháp luật.
Tuy nhiên, pháp chế tư sản ra đời là một bước tiến lớn trong tổ chức, quản lý
đời sống xã hội. Nhờ có pháp chế tư sản, xã hội tư sản vận hành và phát triển
trật tự, an toàn, trực tiếp phục vụ lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản cầm quyền,
Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật
TGL101_Bai6_v1.0014103225 159
đồng thời có tác dụng tích cực nhất định trong việc bảo vệ các quyền cơ bản
của công dân.
o Pháp chế xã hội chủ nghĩa gắn liền với sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động
của hệ thống chính trị, của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Người phát triển học
thuyết này là V.I. Lênin.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa thể hiện sự tôn trọng, tuân thủ, chấp hành nghiêm
chỉnh hiến pháp, pháp luật của các cơ quan nhà nước, các công chức, viên
chức nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa có những yêu cầu sau: Hệ thống pháp luật hoàn
chỉnh, đầy đủ. Yêu cầu hàng đầu của pháp chế là tính tối cao lần lượt của
Hiến pháp và các đạo luật. Hiến pháp và luật phải được tôn vinh, giữ vị trí
thượng tôn trong hệ thống pháp luật và cả trong hoạt động của các cơ quan
nhà nước, các tổ chức xã hội, trong các xử sự của công dân. Pháp luật phải
bảo đảm tính thống nhất trong toàn quốc. Pháp chế xã hội chủ nghĩa chỉ có
một và thống nhất, thể hiện quyền lực nhà nước thống nhất. Tuy nhiên, xét về
chức năng, hiệu lực tác động lên các chủ thể, pháp chế xã hội chủ nghĩa có
các yêu cầu khác nhau đối với các chủ thể là cơ quan nhà nước, công chức,
viên chức nhà nước với các tổ chức xã hội và công dân. Đối với các cơ quan
nhà nước, công chức, viên chức nhà nước, pháp chế đòi hỏi sự chấp hành
nghiêm chỉnh pháp luật, chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Với tư
cách là những tổ chức thực thi quyền lực nhà nước, các cơ quan nhà nước có
quyền lực, có khả năng tác động, chi phối những người khác. Do vậy, các
quyền năng này là luôn luôn có hạn, gọi là quyền hạn. Quyền hạn cho phép
các chủ thể thực hiện quyền trong những giới hạn nhất định, trong khuôn khổ
mà pháp luật quy định. Đối với các tổ chức xã hội, pháp chế xã hội chủ nghĩa
cho phép các tổ chức xã hội được thành lập và hoạt động phù hợp với tôn chỉ,
mục đích, điều lệ, nội quy của tổ chức đó một khi được nhà nước công nhân
hợp pháp. Nhà nước, xã hội không can thiệp, mà tôn trọng tổ chức, hoạt động
của các tổ chức này. Yêu cầu đặt ra là các tổ chức này phải hoạt động trong
khuôn khổ của pháp luật. Mọi hành động vượt khuôn khổ đều là vi phạm pháp
luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đối với công dân, yêu cầu được đặt ra khác
hơn so với các chủ thể trên. Mỗi công dân phải lấy pháp chế là nguyên tắc chỉ
đạo toàn bộ ứng xử của mình. Mỗi cá nhân công dân đều bình đẳng, được sử
dụng các quyền công dân rộng rãi, các quyền con người, quyền tự do, dân
chủ. Tuy nhiên, pháp chế yêu cầu mỗi cá nhân công dân chỉ được quyền làm
những gì mà pháp luật không cấm. Bên cạnh các quyền, công dân phải thực
hiện các nghĩa vụ.
Dù có những khác nhau trong yêu cầu đối với các chủ thể, nhưng thực chất
chỉ là một. Theo đó, pháp chế yêu cầu tất cả các chủ thể phải lấy pháp chế làm
nguyên tắc cho hành vi của mình và từ vị trí của mình trong xã hội, phải thực
hiện nghiêm chỉnh pháp luật, tích cực góp phần xây dựng trật tự kỷ cương nhà
nước, góp phần thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của nhà nước và toàn xã hội.
Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật
160 TGL101_Bai6_v1.0014103225
Trật tự pháp luật
o Trật tự pháp luật là trạng thái thực tế của các quan hệ xã hội đã được điều chỉnh
bằng pháp luật, phù hợp với những đòi hỏi, yêu cầu của pháp chế.
Trật tự pháp luật là kết quả trực tiếp của quá trình điều chỉnh pháp luật, là kết
quả của pháp chế. Trật tự pháp luật thể hiện sự điều chỉnh các quan hệ xã hội
quan trọng bằng pháp luật. Đối với những quan hệ cần có sự điều chỉnh bằng
pháp luật phải luôn có pháp luật điều chỉnh. Trật tự pháp luật thể hiện sự tuân
thủ và thi hành chính xác, kịp thời những nghĩa vụ pháp lý của tất cả các chủ
thể pháp luật. Trật tự pháp luật thể hiện mức độ thực hiện những đòi hỏi,
những yêu cầu của pháp chế trên thực tế.
Trật tự pháp luật bao hàm hai ý nghĩa: Trật tự pháp luật không chỉ được hiểu
là hệ thống các quy phạm pháp luật mà còn được hiểu là một yếu tố cơ bản
của trật tự xã hội. Trật tự xã hội bao gồm các quy phạm khác nhau điều chỉnh
hành vi, xử sự của các chủ thể trong xã hội. Các quy phạm này được sắp xếp,
phối hợp thành một hệ thống. Sự sắp xếp, phối hợp các quy tắc này có sự
khác nhau theo từng xã hội, trong mỗi kiểu nhà nước, và trong mỗi nhà nước
cụ thể. Trật tự pháp luật thể hiện trạng thái đặc biệt vừa có tính hệ thống vừa
có tính quy phạm của pháp luật. Tính hệ thống của pháp luật thể hiện mối
quan hệ giữa các quy phạm pháp luật với nhau. Các quy phạm này có mối
quan hệ phụ thuộc lẫn nhau và tạo nên một tổng thể. Theo đó, không được
phân tích một quy phạm pháp luật một cách riêng lẻ, tách rời với các quy
phạm khác. Tính quy phạm thể hiện ở điểm các quy phạm tạo nên khuôn mẫu
hành vi, xử sự cho các chủ thể khiến các chủ thể phải thực hiện theo. Hai tính
chất này vừa liên hệ mật thiết với nhau vừa bổ trợ cho nhau. Hiệu lực pháp lý
của pháp luật được tăng cường nhờ sự chặt chẽ trong tổ chức các quy phạm
pháp luật. Tính quy phạm quay trở lại làm cho cấu trúc hệ thống của pháp luật
thành một trật tự nhất định.
Trật tự pháp luật là một trong những yếu tố cấu thành nên trật tự xã hội. Pháp
luật không phải là công cụ duy nhất để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Ngoài
các quy phạm pháp luật còn các quy phạm xã hội cũng như các phong tục, tập
quán, thói quen, cách sống,... Tuy nhiên, pháp luật là công cụ cơ bản, có yếu
tố quan trọng trong việc tạo nên trật tự xã hội. Khái niệm về trật tự pháp luật
thể hiện trạng thái xã hội khi pháp luật đã thực hiện được các chức năng của
mình trong xã hội. Pháp luật là công cụ để các chủ thể thực hiện những ước
muốn của mình, thể hiện sự hợp tác, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các chủ thể
trong xã hội. Pháp luật còn thể hiện những giá trị cơ bản tạo nên sự gắn bó
giữa các nhóm chủ thể trong xã hội. Hệ thống các quy phạm pháp luật có mối
liên hệ thường xuyên, tương tác với các quan hệ trong xã hội: Các quy phạm
này điều chỉnh các quan hệ xã hội và cũng chịu ảnh hưởng bởi các quan hệ xã
hội trong thực tế.
o Trật tự pháp luật có quan hệ mật thiết với pháp chế và trật tự xã hội.
Xã hội có pháp chế mới có trật tự pháp luật. Pháp chế là tiền đề của trật tự
pháp luật.
Trật tự pháp luật là tiền đề của trật tự xã hội. Trật tự xã hội được xây dựng
trên cơ sở của trật tự pháp luật vì trong xã hội có nhà nước, pháp luật là công
cụ chủ yếu điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật
TGL101_Bai6_v1.0014103225 161
6.2. Ý thức pháp luật
6.2.1. Khái niệm, đặc điểm ý thức pháp luật
Khái niệm ý thức pháp luật
o Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật chịu sự chi phối
của tồn tại xã hội. Xã hội loài người, nhà nước và pháp luật luôn vận động và
phát triển theo những quy luật khách quan. Những quy luật đó được thực hện
thông qua hoạt động có ý thức của con người. Sự tồn tại và phát triển đó được
phản ánh trong ý thức của con người và con người tác động trở lại quá trình
đó một cách có ý thức.
Là sản phẩm của vật chất nên nội dung của ý thức pháp luật do tồn tại xã hội
và tồn tại pháp luật (bao gồm hệ thống pháp luật thực định và thực tiễn áp
dụng pháp luật) quyết định. Ý thức pháp luật chỉ nảy sinh trên tiền đề tồn tại
xã hội và pháp luật. Ý thức pháp luật phản ánh hiện thực xã hội, hiện thực
pháp luật. Sự phản ánh của ý thức pháp luật là sự phản ánh sáng tạo trên cơ sở
tiền đề vật chất là tồn tại xã hội và tồn tại pháp luật, tuân thủ theo những quy
luật khách quan của xã hội và pháp luật. Sự tồn tại và phát triển của ý thức
pháp luật gắn liền với quá trình biến đổi của điều kiện xã hội và pháp luật.
o Ý thức pháp luật có thể được định nghĩa là tổng thể những tri thức, quan niệm,
quan điểm, học thuyết về pháp luật thể hiện sự nhận thức, thái độ, tình cảm của
con người đối với pháp luật.
Ý thức pháp luật xuất hiện từ nhu cầu khách quan của xã hội, cần tạo lập một
xã hội trật tự, ổn định. Từ nhu cầu đó, con người nhận thức và hình thành tình
cảm đối với pháp luật.
Ý thức pháp luật thể hiện mối quan hệ giữa con người và pháp luật. Con
người bằng nhận thức của mình đánh giá tính hợp pháp hay không hợp pháp
trong xử sự của cá nhân, tổ chức và cả hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Con người cũng có thể dự báo được sự phát triển của pháp luật, đánh giá được
trước những quan hệ xã hội sẽ phải được pháp luật điều chỉnh trên cơ sở sự
vận động, phát triển của tồn tại xã hội, tồn tại pháp luật.
Ý thức pháp luật có tác động đến xã hội và pháp luật. Ý thức pháp luật có thể
có cả tác động tiêu cực và tác động tích cực. Ý thức pháp luật có thể cản trở
sự phát triển của pháp luật nói riêng và của xã hội nói chung. Ý thức pháp luật
cũng có thể góp phần vào sự phát triển vượt bậc của pháp luật và xã hội.
Đối tượng phản ánh của ý thức pháp luật pháp luật rộng hơn so với đối tượng
điều chỉnh của pháp luật. Bởi không phải tất cả các quan hệ xã hội đều được
điều chỉnh bởi pháp luật.
Ý thức pháp luật được hình thành từ các quan điểm, tư tưởng của cá nhân.
Các ý thức pháp luật của cá nhân tạo thành ý thức pháp luật của giai cấp, của
xã hội. Chỉ có thể tạo thành ý thức pháp luật của giai cấp, của xã hội khi tư
tưởng, quan điểm về pháp luật của cá nhân được nâng thành những tư tưởng,
quan điểm pháp luật mang tính phổ biến, thịnh hành trong xã hội dưới dạng
các học thuyết, các quan điểm chung, ...
Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật
162 TGL101_Bai6_v1.0014103225
Ý thức pháp luật có tính giai cấp. Thông thường, giai cấp nào sở hữu tư liệu
sản xuất sẽ chi phối luôn cả về tư liệu sản xuất tinh thần. Do vậy, chỉ có ý
thức pháp luật của giai cấp thống trị mới được phổ biến và có điều kiện thể
hiện đầy đủ pháp luật.
o Vai trò của ý thức pháp luật.
Ý thức pháp luật giúp thực hiện pháp luật được đúng và nghiêm minh.
Ý thức pháp luật giúp tạo nên trật tự xã hội và giúp xã hội phát triển văn
minh, giúp nhà nước thực hiện được các chức năng của mình.
Ý thức pháp luật giúp hoàn thiện và phát triển hệ thống pháp luật.
Đặc điểm của ý thức pháp luật
o Ý thức pháp luật có tính độc lập tương đối so
với tồn tại xã hội.
Ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với
tồn tại xã hội. Nhiều khi tồn tại xã hội cũ đã
mất đi nhưng ý thức pháp luật cũ vẫn còn
tồn tại trong một thời gian dài sau đó. Nhất
là trong lĩnh vực tâm lý (tình cảm) pháp
luật. Ví dụ như cứ có tranh chấp trong thể tự giải quyết được là người dân lại
chỉ tin tưởng tòa án và đưa vụ việc ra tòa án giải quyết, dù hiện nay đã có cơ
chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Ý thức pháp luật đôi khi lạc hậu so với tồn tại pháp luật khi có những quy
phạm pháp luật mới được hình thành và có hiệu lực hoặc thực tiễn áp dụng
pháp luật đã thay đổi nhưng nhiều người vẫn chưa nắm bắt được. Ví dụ về
quan niệm hợp đồng kinh tế và thẩm quyền giải quyết tranh chấp của tòa án
đối với các tranh chấp trong kinh doanh thương mại.
Trong một số trường hợp ý thức pháp luật tiến bộ hơn so với tồn tại xã hội và
tồn tại pháp luật. Sự tiến bộ của ý thức pháp luật là do tính sáng tạo của ý thức
pháp luật quyết định. Tuy nhiên sự sáng tạo này cũng phải xuất phát từ tiền đề
vật chất và phải tuân thủ các quy luật khách quan. Ví dụ, ý thức pháp luật về
kết hôn giữa người đồng tính, ý thức pháp luật về vấn đề mang thai hộ, về vấn
đề chuyển giới, ...
Ý thức pháp luật tác động trở lại tồn tại xã hội. Sự tác động này có thể là tích
cực hoặc tiêu cực. Nếu ý thức pháp luật là tiến bộ, nó sẽ thúc đẩy sự phát triển
của xã hội, của pháp luật. Nếu ý thức pháp luật là lạc hâu, nó sẽ kìm hãm sự
phát triển của xã hội, của pháp luật.
o Ý thức pháp luật là một hiện tượng mang tính chính trị – giai cấp.
Trong một xã hội có giai cấp, ý thức pháp luật cũng có tính giai cấp. Bởi ý
thức pháp luật được hình thành trên cơ sở tồn tại xã hội và hệ thống pháp luật
hiện hành.
Tính giai cấp của pháp luật thể hiện ở chỗ ý thức pháp luật luôn phản ánh ý
chí, tâm tư, nguyện vọng, lợi ích của giai cấp của mình.Trên cơ sở quan điểm
của giai cấp mình, các chủ thể hình thành nên ý thức pháp luật của mình. Mỗi
Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật
TGL101_Bai6_v1.0014103225 163
quốc gia chỉ có một hệ thống pháp luật nhưng có thể tồn tại nhiều ý thức pháp
luật khác nhau dựa trên những quan điểm của mỗi giai cấp tồn tại trong xã
hội: ý thức pháp luật của giai cấp thống trị, ý thức pháp luật của giai cấp bị
thống trị, ý thức pháp luật của các tầng lớp khác nhau trong xã hội, ...
6.2.2. Yếu cấu thành của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là một hình thái của ý thức xã hội. Theo chủ nghĩa triết học Mac-
Lênin, ý thức xã hội được hình thành bởi hai yếu tố: tư tưởng xã hội (tri thức) và tâm
lý (tình cảm) xã hội.
o Tư tưởng xã hội là những hiểu biết của con người về xã hội, là kết quả của quá
trình con người nhận thức thế giới khách quan. Tri thức được thể hiện ở nhiều
cấp độ khác nhau, trong các lĩnh vực khác nhau.
Theo C. Mac, tri thức là phương thức mà theo đó ý thức tồn tại và theo đó một cái
gì nảy sinh ra đối với ý thức, chừng nào mà ý thức biết cái đó. Muốn cải tạo thế
giới, con người phải có sự hiểu biết về xã hội, tức là phải có tri thức. Mọi hiện
tượng của ý thức đều có nội dung tri thức ở những mức độ khác nhau. Quá trình
hình thành và phát triển ý thức xã hội chính là quá trình con người tìm kiếm, tích
lũy tri thức về xã hội.
o Tâm lý (tình cảm) xã hội là những thái độ, tình cảm của con người đối với xã hội.
Sự tác động của xã hội đến con người không chỉ đem lại cho con người sự hiểu
biết về xã hội, mà còn đem lại những xúc cảm, tình cảm của họ về xã hội, về đối
tượng phản ánh. Đây là một hình thái đặc biệt của phản ánh ý thức, nó phản ánh
mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội và giữa con người với xã
hội nói chung.Tình cảm là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt
động của con người. Con người phải có tình cảm mãnh liệt thì mới có thể phát
huy được sức mạnh và được chuyển hóa hiện thực.
o Mối quan hệ giữa tri thức xã hội và tâm lý xã hội là mối quan hệ có đi có lại.
Con người càng có tri thức ở mức độ cao về một đối tượng phản ánh thì càng có
tình cảm sâu đậm, mạnh mẽ đối với nó. Ngược lại, khi có tình cảm mạnh mẽ, sâu
đậm về một đối tượng phản ánh, tình cảm này sẽ thúc đẩy con người tìm tòi nhiều
hơn nữa, sâu hơn nữa về xã hội nhằm tích lũy tri thức xã hội.
Ý thức pháp luật được cấu thành từ hai yếu tố: hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý
(tình cảm) pháp luật.
o Tư tưởng pháp luật là toàn bộ các quan điểm, quan niệm, học thuyết, sự hiểu biết
của chủ thể về pháp luật. Tư tương pháp luật thể hiện sự nhận thức của chủ thể về
pháp luật.
Pháp luật được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả pháp luật trong quá khứ, trong
hiện tại và trong tương lai. Tư tưởng pháp luật được cấu thành từ những hiểu biết,
những tri thức của mỗi cá nhân về pháp luật rồi dần tích tụ lại thành hiểu biết, tri
thức của một nhóm người, một cộng đồng người: tạo nên các quan điểm, học
thuyết về pháp luật. Tư tương pháp luật của một đất nước thường được thể hiện
trong cương lĩnh, nghị quyết của đảng cầm quyền, trong các chính sách của nhà
nước, trong các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành,...
Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật
164 TGL101_Bai6_v1.0014103225
o Tâm lý pháp luật là những cảm xúc, tâm trạng, thái độ, tình cảm về pháp luật và
những hiện tượng pháp lý khác.
Sự phản ánh của hệ thống quy phạm pháp luật, của quá trình thực hiện pháp
luật nói chung và quá trình áp dụng pháp luật nói riêng vào bộ óc con người
khiến con người nảy sinh những tình cảm, cảm xúc, thái độ, tâm trạng cụ thể.
Tâm lý pháp luật được hình thành ở mỗi cá nhân, ở mỗi nhóm người, cộng
đồng người, ở mỗi giai cấp hoặc cả xã hội. Những tình cảm, thái độ, cảm xúc,
tâm trạng đối với pháp luật có thể giống nhau ở một số người, ở một nhóm
người hay rộng hơn là ở một cộng đồng hay trong toàn xã hội. Tâm lý pháp
luật biểu hiện thái độ tích cực (tốt) hoặc tiêu cực (xấu) của các chủ thể. Thái
độ tích cực của chủ thể thể hiện sự đồng tình, niềm tin, sự trân trọng, niềm tự
hào của chủ thể đối với pháp luật và sự xấu hổ khi vi phạm pháp luật,... Thái
độ tiêu cực thể hiện sự thù ghét, ác cảm, định kiến, lo lắng của chủ thể đối với
pháp luật.
Do vậy, tâm lý pháp luật ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật của các chủ
thể. Nếu chủ thể có thái độ tốt đối với pháp luật, chủ thể đó sẽ tôn trọng pháp
luật, tự giác chấp hành pháp luật, bảo vệ pháp luật, đấu tranh chống lại những
hành vi vi phạm pháp luật, coi thường pháp luật. Nếu chủ thể có thái độ tiêu
cực đối với pháp luật, chủ thể đó có thể phản đối, không tôn trọng pháp luật,
không tôn trọng người thực hiện pháp luật, ..
o Tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác
động lẫn nhau.
Tri thức về pháp luật là cơ sở để hình thành tâm lý pháp luật. Càng hiểu về
pháp luật, có nhận thức đúng đắn về pháp luật thì các chủ thể sẽ hình thành
nên những tình cảm, thái độ với pháp luật ở cấp độ cao hơn, sâu hơn.
Tâm lý pháp luật đến lượt mình là động lực thúc đẩy chủ thể tìm hiểu, sáng
tạo trong tư tưởng về pháp luật.
Nghiên cứu tính huống:
Về vai trò của yếu tố tâm lý pháp luật
“Tâm lý pháp luật là một hiện tượng tương đối bền vững, nó hình thành và biến đổi chậm
chạp cùng với những truyền thống, thói quen của con người. Tính chất của nền kinh tế đất
nước ta hiện nay cho thấy, phần đông dân cư ở nước ta đã và đang gắn bó với nền sản xuất
nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, manh mún, phân tán, với những tập tục phức tạp, rườm rà, do
vậy ý thức pháp luật của nhiều người dân còn thấp, một bộ phận dân cư chưa có thói quen
sống và làm việc theo pháp luật, thậm chí có một số người còn xem pháp luật như là một sự
trói buộc, thường tìm cách trốn tránh, bất tuân pháp luật. Nếu nhìn lại lịch sử chúng ta thấy
thái độ bất tuân pháp luật đã hình thành và phát triển từ rất lâu trong xã hội thực dân
phong kiến. Khi đó pháp luật chủ yếu thể hiện ý chí và mang lại lợi ích cho thực dân, phong
kiến, khi mà giữa nhà nước và nhân dân lao động luôn có sự đối lập nhau, thì người dân lao
động luôn tìm mọi cách để trốn tránh pháp luật, không tuân theo pháp luật. Khi đó những
tập tục của cộng đồng làng, bản..., nơi những người dân phải co cụm lại vì lợi ích cục bộ của
cộng đồng và bản thân đôi khi còn quan trọng, được tôn trọng và thực hiện nghiêm hơn cả
pháp luật của nhà nước thực dân phong kiến (phép vua, thua lệ làng).
Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật
TGL101_Bai6_v1.0014103225 165
Trong xã hội ta nhà nước là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân còn “pháp luật là thể
chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân...”1 nên cả nhà
nước và nhân dân cùng quan tâm tới việc thực hiện pháp luật nghiêm minh. Tuy nhiên, do
tính chất bền vững của tâm lý pháp luật mà thái độ bất tuân pháp luật đã trở thành thói
quen, đã ăn sâu, bám rễ trong ý thức của nhiều người; do vậy, trong họ luôn tiềm ẩn
khuynh hướng tìm mọi cách để lẩn tránh luật pháp, tìm cách “lách luật”, tìm ra những kẽ
hở, những khiếm khuyết, hạn chế của pháp luật để hễ có cơ hội thì vụ lợi. Chẳng hạn, khi
nhà nước đưa ra quy định về hoàn thuế giá trị gia tăng, thì chỉ sau một thời gian ngắn đã
có rất nhiều cá nhân, tổ chức gian dối lợi dụng để chiếm đoạt bất hợp pháp tiền bạc của
nhà nước; thời kỳ nhà nước nghiêm cấm mua bán đất thì người ta nghĩ ngay đến việc che
giấu mua bán đất dưới hình thức như mua bán nhà ở, cây lâu năm...; khi các trạm kiểm
soát của cảnh sát giao thông hoạt động mạnh thì các lái xe đã liên kết với nhau, tìm cách
thông báo cho về các trạm kiểm soát của cảnh sát đặt ở đoạn đường nào để đến đó thì họ
nghiêm chỉnh chấp hành luật lệ giao thông còn trước đó và sau đó thì họ tìm mọi cách vi
phạm như chạy quá tốc độ, chở quá quy định... Cũng cần phải thừa nhận một thực tế là
có những trường hợp chủ thể bất tuân pháp luật không nhằm mục đích vụ lợi mà chỉ
nhằm để thoả mãn trạng thái tâm lý là “không ai làm gì được mình”, thậm chí chỉ là để
“thể hiện mình” trước những người xung quanh.
Cũng do việc định hướng tình cảm pháp luật chưa tốt nên trong xã hội ta tâm lý ác cảm
với cảnh sát, với người đại diện chính quyền vẫn còn tồn tại. Thậm chí có trường hợp khi
cảnh sát xử lý hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân nào đó thì một số cá nhân khác lại
ủng hộ, bênh vực, giúp đỡ kẻ vi phạm, tạo điều kiện cho kẻ vi phạm trốn tránh khỏi sự
trừng phạt của pháp luật. Những kẻ ủng hộ này thường là đồng bọn của kẻ vi phạm hoặc
là những kẻ xưa nay vẫn vi phạm pháp luật nhưng không bị phát hiện hoặc không bị xử lý.
Một số người dân tuy không ủng hộ việc làm sai trái đó nhưng lại thờ ơ, không ủng hộ việc
làm đúng của cảnh sát, không ủng hộ cái đúng và như vậy, vô hình trung họ đã tạo điều
kiện để cái sai, cái xấu vẫn tồn tại và hoành hành trong xã hội. Nhưng khi cái xấu có liên
quan đến họ thì họ lại ra sức trách móc, trông chờ sự giúp đỡ người khác đặc biệt là của
cảnh sát hoặc chính quyền. Việc tác động để hình thành những tình cảm, xúc động đúng
đắn đối với pháp luật, đối với hành vi của những người thừa hành pháp luật có ý nghĩa rất
lớn trong phòng ngừa những hành vi không phù hợp, trái với chuẩn mực xã hội, chuẩn
mực pháp luật trong xã hội.
Trong nhiều hoạt động nhà nước ở nước ta vẫn còn biểu hiện của tâm lý cửa quyền, muốn
được cầu cạnh, ban phát theo kiểu “con không khóc thì mẹ không cho bú” và đứa con nào
khóc to, biết cách khóc, khóc hay thì sẽ được bú nhiều. Chính thói quen tâm lý này đã góp
phần tạo ra trong xã hội ta cơ chế “xin – cho”, mọi thứ đều phải “xin” thì mới được những
người đại diện nhà nước “cho”. Cơ chế “xin – cho” đã làm mất đi tính chủ động phục vụ
nhân dân của những người có chức vụ, quyền hạn. Rất nhiều kẻ gian tham đã lợi dụng cơ
chế “xin – cho” để vụ lợi, chúng coi tài sản nhà nước như “một thứ tự nhiên mà có” xin
được càng nhiều càng tốt, tìm mọi mánh khóe để cậy cục xin, ỷ lại, trông chờ vào việc xin.
Kẻ được cho thì coi tài sản nhà nước như là của mình, mình ban ơn, mình cho ai thì người
đó được hưởng. Và không chỉ dừng lại ở lĩnh vực tài sản, cơ chế “xin – cho” còn lan sang
cả các lĩnh vực khác như công tác thi đua khen thưởng, công tác tổ chức cán bộ... gây ra
dư luận không tốt trong nhân dân. Chính cơ chế “xin – cho” đã làm cho người có thẩm
quyền áp dụng pháp luật tùy tiện mà người bị áp dụng pháp luật cũng tự do, tuỳ tiện,
theo kiểu bất tuân các quy định của pháp luật. Người có thẩm quyền áp dụng pháp luật thì
cho rằng đó là “quyền của mình”, mình muốn làm gì thì làm, mình cho, mình làm ơn thì
người dân được hưởng, được nhờ còn mình không cho, không làm thì người dân phải cậy
cục nhờ vả, van xin... hoặc là nếu là người thân quen thì xử lý khác, còn người không thân
Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật
166 TGL101_Bai6_v1.0014103225
quen thì xử lý khác... Nhiều chủ thể bị áp dụng pháp luật đã coi thường, không chấp hành
quyết định áp dụng pháp luật, với tâm lý “làm gì nhau” và nếu gặp trường hợp thiếu kiên
quyết, “đánh trống bỏ dùi”, thiếu triệt để của các cơ quan nhà nước thì chẳng sao cả, càng
làm cho tâm lý thách thức, coi thường người đại diện chính quyền tăng lên trong xã hội.
... Trong đời sống sinh hoạt và lao động nhiều khi người dân do không hiểu biết đầy đủ
pháp luật dẫn đến tâm lý thiếu tự tin trong các hoạt động, làm cho hiệu quả sản xuất, kinh
doanh thấp. Điều này, một mặt làm giảm khả năng của người dân trong việc tự bảo vệ
quyền lợi của mình khi bị xâm hại, mặt khác có thể góp phần làm tăng khả năng khiếu
kiện bừa bãi, không đủ căn cứ, không đúng thủ tục... dẫn tới bất ổn định xã hội. Tình
trạng kém hiểu biết về pháp luật cũng dễ tạo nên tâm lý thờ ơ, lãnh đạm, thậm chí coi
thường pháp luật, dẫn đến người dân có những hành vi xử sự không đúng với quy định
của pháp luật.
Nguyễn Minh Đoan, "Yếu tố tâm lý trong quá trình nâng cao ý thức pháp luật ở nước ta hiện nay" ,
Tạp chí KHPL số 4/2004
Trích nguồn từ
<
20044&id=418:yttlpltqtncytplonthn&Itemid=107>
6.2.3. Phân loại ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật được phân loại theo những căn cứ, tiêu chí nhất định. Hiện
nay, việc phân loại ý thức pháp luật được phân theo hai tiêu chí: mức độ nhận thức
pháp luật và chủ thể mang ý thức pháp luật.
o Căn cứ vào cấp độ, giới hạn nhận thức có thể chia ý thức pháp luật thành: Ý thức
pháp luật thông thường, ý thức pháp luật có tính lý luận.
Ý thức pháp luật thông thường là ý thức pháp luật của đa số người dân trong
xã hội. Ý thức pháp luật thông thường chỉ phản ánh được biểu hiện bên ngoài,
có tính cục bộ của pháp luật, chưa có khả năng đi sâu vào bản chất của pháp
luật. Bởi người có ý thức pháp luật thông thường là những chỉ có sự hiểu biết
bề ngoài, ít ỏi về pháp luật.
Ý thức pháp luật mang tính chất lý luận là ý thức pháp luật của những người
có sự hiểu biết đầy đủ, toàn diện và sâu sắc về pháp luật, có trình độ lý luận
cao về pháp luật. Ý thức pháp luật mang tính chất lý luận phản ánh được một
cách sâu sác bản chất của pháp luật, các mối liên hệ bên trong của pháp luật.
o Căn cứ vào chủ thể của ý thức pháp luật, có thể phân chia thành ý thức pháp luật
cá nhân, ý thức pháp luật giai cấp, ý thức pháp luật xã hội.
Ý thức pháp luật xã hội là ý thức của bộ phận tiên tiến, đại diện cho xã hội,
chứa đựng những tư tưởng, quan điểm khoa học về những vấn đề cơ bản nhất
của pháp luật. Vì có sự tiến bộ và có cơ sở khoa học nên ý thức pháp luật của
bộ phận tiên tiến này được chính thức hóa trong toàn xã hội, đại diện cho ý
thức pháp luật của toàn xã hội, gọi là ý thức pháp luật xã hội.
Trong xã hội có giai cấp, đặc biệt là trong nhà nước chủ nô, phong kiến, tư
sản, ý thức pháp luật của giai cấp thống trị và giai cấp bị trị hoàn toàn khác
nhau. Do sự mâu thuẫn về lợi ích giai cấp dẫn đến nhiều quy định của pháp
Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật
TGL101_Bai6_v1.0014103225 167
luật chỉ thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị mà không bảo vệ
quyền lợi của giai cấp bị trị, nên nhiều đạo luật được giai cấp thống trị ủng hộ
nhưng lại gặp phải sự phản đối quyết liệt từ phía giai cấp bị thống trị.
Ý nghĩa của việc phân loại ý thức pháp luật
o Việc phân loại ý thức pháp luật vừa có ý nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn.
Ý nghĩa lý luận: Việc phân loại ý thức pháp luật theo các cấp độ nhận thức và
chủ thể của ý thức pháp luật giúp cho sự nhận thức về ý thức pháp luật được
toàn diện và sâu sắc hơn. Mục tiêu cuối cùng là nhằm xây dựng một lý thuyết
hoàn chỉnh về ý thức pháp luật, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng một hệ thống
pháp luật hoàn thiện, có lợi cho nhân dân, cho sự phát triển của đất nước.
Ý nghĩa thực tiễn: Việc phân loại ý thức pháp luật giúp nhận thức rõ hơn về
vai trò của ý thức pháp luật đối với xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật.
Từ đó đưa ra được các giải pháp hữu ích nhằm nâng cao ý thức pháp luật của
người dân.
6.2.4. Mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và pháp luật.
Ý thức pháp luật và pháp luật là hai hiện tượng xã hội khác nhau, nhưng có mối quan
hệ chặt chẽ, tác động qua lại đối với nhau.
o Pháp luật là tồn tại vật chất, quyết định nội dung ý thức pháp luật.
Pháp luật được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm hệ thống quy phạm pháp luật,
hoạt động thực hiện pháp luật. Pháp luật toàn diện, thống nhất, khoa học, thực
tiễn tạo tiền đề để hình thành ý thức pháp luật tích cực. Bản thân tồn tại pháp
luật với chức năng điều chỉnh, giáo dục, bảo vệ và phản ánh ý chí, lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động tác động mạnh mẽ tới tâm tư, tình cảm
của con người, tạo lập nên ở họ ý thức tôn trọng và tự giác thực hiện pháp luật.
Hoạt động xây dựng pháp luật có chất lượng, có sự tham gia tích cực của
đông đảo quần chúng nhân dân góp phần vào việc hình thành và nâng cao ý
thức pháp luật trong họ.
Hoạt động phổ biến, giải thích, giáo dục pháp luật, kiểm tra giám sát thường
xuyên, nghiêm túc, hiệu quả việc thực hiện pháp luật cũng góp phần không
nhỏ trong việc nâng cao ý thức pháp luật của người dân.
Việc thực hiện pháp luật một cách tự giác, chủ động, tích cực, thường xuyên,
đạt hiệu quả sẽ ảnh hưởng tích cực tới sự hình thành và nâng cao ý thức pháp
luật của tất cả các chủ thể trong xã hội.
o Ý thức pháp luật là tác động tích cực trở lại đến pháp luật.
Ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng để xây dựng và hoàn thiện hệ thống quy
phạm pháp luật. Một trong những thuộc tính của ý thức pháp luật là tính sáng
tạo. Nhờ tính sáng tạo này mà sự phản ánh của tồn tại pháp luật vào bộ não
con người không chỉ là phản ánh một chiều, thụ động, giản đơn mà có tính
chọn lọc và có khả năng dự báo về tương lai. Ý thức pháp luật cho phép nhìn
nhận đúng đắn thực trạng, nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan
Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật
168 TGL101_Bai6_v1.0014103225
hệ xã hội. Đối với các nhà làm luật, ý thức pháp luật càng cao thì họ càng nắm
bắt nhanh, sâu sắc, đầy đủ sự thay đổi khách quan của đời sống xã hội để từ
đó hình thành tư tưởng hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực hiện tư tưởng đó
một cách hiệu quả. Đối với người dân, ý thức pháp luật của người dân càng
cao thì học càng tích cực tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật.
Ý thức pháp luật thúc đẩy việc thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội.
Bằng sự hiểu biết chính xác, đầy đủ nội dung, tinh thần của các quy định pháp
luật (nhận thức đúng về pháp luật) mà các chủ thể lựa chọn được các hành vi
phù hợp để thực hiện pháp luật trong thực tiễn đối với từng trường hợp cụ thể
phát sinh. Hiểu được nội dung pháp luật, nhận thức được vai trò, giá trị của
pháp luật và sự cần thiết phải thực hiện pháp luật, các chủ thể sẽ có thái độ
tích cực đối với pháp luật, từ đó tự giác thực hiện pháp luật, chống lại các
hành vi vi phạm pháp luật. Ý thức pháp luật cũng giúp cho việc giải thích
pháp luật được rõ ràng, hiệu quả từ đó dẫn đến việc thực hiện pháp luật nói
chung và việc áp dụng pháp luật nói riêng của các chủ thể được nhà nước trao
quyền được đúng đắn, nghiêm minh và không bị tùy tiện.
Ý thức pháp luật giúp khắc phục chỗ trống của pháp luật hiện hành. Khi hệ
thống pháp luật chưa hoàn thiện và trước sự phát triển mạnh mẽ của các quan
hệ xã hội, ý thức pháp luật tạo khả năng giải quyết đúng đắn những trường
hợp mà pháp luật chưa kịp thời điều chỉnh. Bằng việc áp dụng tương tự pháp
luật, ý thức pháp luật đã phần nào thay thế cho pháp luật.
6.2.5. Vấn đề nâng cao ý thức pháp luật
Nâng cao ý thức pháp luật là đòi hỏi khách quan của sự phát triển xã hội. Xã hội
ngày càng phát triển phức tạp thì việc nâng cao ý thức pháp luật trở nên hết sức cần
thiết trước nhu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật của nhà nước.
o Nâng cao ý thức pháp luật không chỉ là nhiệm vụ cơ bản của nhà nước mà còn là
trách nhiệm của tất cả các chủ thể trong xã hội.
Đối với nhà nước: việc nâng cao ý thức pháp luật nhằm tạo lập nên và bảo vệ
trật tự pháp luật, trật tự xã hội.
Đối với mỗi công dân: việc nâng cao ý thức pháp luật nhằm bảo đảm quyền
và lợi ích chính đáng của họ.
o Nâng cao ý thức pháp luật giúp hình thành và phát triển tri trức về pháp luật của
mỗi người dân và hình thành tâm lý pháp luật tích cực ở họ.
Tri thức pháp luật càng ở mức độ cao sẽ giúp các chủ thể trong xã hội tích cực
góp phần xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật được hoàn thiện, đồng bộ,
thống nhất và khoa học.
Tâm lý pháp luật tích cực ở các chủ thể sẽ hình thành tình cảm, lòng tin của
các chủ thể đối với pháp luật, từ đó hình thành hành vi, thói quen xử sự hợp
pháp, xây dựng lối sống theo pháp luật của các chủ thể trong xã hội.
Để nâng cao ý thức pháp luật, cần phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp cụ thể.
Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật
TGL101_Bai6_v1.0014103225 169
o Giải pháp hướng tới pháp luật.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Nâng cao chất lượng các quy phạm pháp luật.
Kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội có ảnh hưởng lớn đến lợi ích của các
chủ thể trong xã hội, của nhà nước
o Giải pháp hướng tới các chủ thể của ý thức pháp luật.
Giải pháp nhằm tăng cường tri thức pháp luật của chủ thể.
Giải pháp nhằm hình thành tâm lý pháp luật tích cực đối với chủ thể.
Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật
170 TGL101_Bai6_v1.0014103225
TÓM LƯỢC CUỐI BÀI
Thực hiện pháp luật.
Thực hiện pháp luật là hành vi của các chủ thể đưa pháp luật vào cuộc sống.
Có các hình thức thực hiện pháp luật khác nhau: tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, sử
dụng pháp luật và áp dụng pháp luật
Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật đặc thù bởi chủ thể thực hiện chỉ bao
gồm các cơ quan nhà nước, các cá nhân, tổ chức được nhà nước trao quyền.
Trong nhiều trường hợp, để thực hiện pháp luật được đúng đắn, hiệu quả cần phải có sự
giải thích pháp luật. Giải thích pháp luật có thể là chính thức hoặc không chính thức phụ
thuộc vào các chủ thể giải thích pháp luật.
Pháp chế là yêu cầu đặt ra đối với hệ thống pháp luật v à việc thực hiện pháp luật của tất
cả các chủ thể trong xã hội. Để có pháp chế, cần đáp ứng một số yêu cầu cơ bản. Phụ
thuộc vào các kiểu pháp chế mà các yêu cầu này có sự khác nhau nhất định.
Ý thức pháp luật.
Ý thức pháp luật thể hiện sự nhận thức và thái độ, tình cảm của các chủ thể đối với pháp
luật.
Ý thức pháp luật là một hình thái của ý thức xã hội tuy nhiên bên cạnh các điểm chung
của một hình thái ý thức xã hội, ý thức pháp luật còn có những đặc điểm riêng.
Ý thức pháp luật được cấu thành bởi hai yếu tố: hệ tư tương pháp luật và tâm lý pháp luật.
Ý thức pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật. Ý thức pháp luật góp phần hoàn
thiện pháp luật và thúc đẩy các chủ thể thực hiện đúng pháp luật.
Trên cơ sở các yếu tố cấu thành của ý thức pháp luật để đưa ra các giải pháp nhằm nâng
cao ý thức pháp luật của các chủ thể trong xã hội.
Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật
TGL101_Bai6_v1.0014103225 171
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Trình bày khái niệm, đặc điểm của thực hiện pháp luật?
2. Phân biệt các hình thức thực hiện pháp luật?
3. Trình bày các trường hợp áp dụng pháp luật, đặc điểm và các nguyên tắc áp dụng pháp luật?
4. Trình bày các giai đoạn của quá trình áp dụng pháp luật?
5. Phân tích khái niệm, đặc điểm, các nguyên tắc giải thích pháp luật?
6. Trình bày khái niệm và các yêu cầu cơ bản của pháp chế?
7. Trình bày khái niệm, đặc điểm của ý thức pháp luật?
8. Phân tích các yếu tố cấu thành của ý thức pháp luật?
9. Trình bày mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và pháp luật.
BÀI TẬP
Bài 1.1:
Nêu các ví dụ và phân tích về các hình thức thực hiện pháp luật
Bài 1.2:
Anh A và chị B đến Ủy ban nhân dân phường X nơi chị B có hộ khẩu thường trú để gửi hồ sơ
xin đăng ký kết hôn. Năm ngày sau, tại trụ sở Ủy ban, đại diện Ủy ban nhân dân phường X trao
cho anh chị Giấy chứng nhận kết hôn, chính thức công nhận anh chị là vợ chồng.
So sánh hành vi của anh A chị B và Ủy ban nhân dân phường X trong thực hiện thủ tục đăng ký
kết hôn?
Bài 1.3:
Lên lớp 11, Nam được bố mẹ mua cho xe máy để đi học. Một hôm, đang đi đến trường, Nam bị
Cảnh sát giao thông yêu cầu dừng xe vì đi xe máy không đội mũ bảo hiểm. Qua kiểm tra giấy tờ,
chú cảnh sát nói Nam còn mắc thêm một lỗi nữa là chưa đủ tuổi đi xe máy. Chú cảnh sát đã phạt
cảnh cáo Nam.
Việc cảnh sát giao thông xử phạt Nam là hình thức nào của thực hiện pháp luật? Hình thức đó
được sử dụng trong những trường hợp nào?
Bài 1.4:
So sánh văn bản quy phạm pháp luật với văn bản áp dụng pháp luật.
Bài 1.5:
So sánh giữa pháp luật và pháp chế.
Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật
172 TGL101_Bai6_v1.0014103225
THUẬT NGỮ
A
Áp dụng pháp luật
Là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó
nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền hoặc cá nhân, tổ chức được
ủy quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật
khác thực hiện đầy đủ và nghiêm chỉnh các
quy phạm pháp luật.
Áp dụng pháp luật tương tự
Là việc giải quyết vụ việc pháp lý cụ thể
trên cơ sở quy phạm pháp luật điều chỉnh vụ
việc khác có nội dung giống (tương tự) như
vụ việc đang cần giải quyết hoặc trên cơ sở
các nguyên tắc pháp luật chung và bằng ý
thức pháp luật của người áp dụng pháp luật.
Áp dụng tương tự pháp luật
Là hình thức áp dụng pháp luật tương tự
nhằm giải quyết một vụ việc pháp lý cụ thể
dựa trên những nguyên tắc chung, cơ bản
của pháp luật và bằng ý thức pháp luật của
người áp dụng pháp luật.
Áp dụng tương tự quy phạm pháp luật
Là hình thức áp dụng pháp luật tương tự
nhằm giải quyết một vụ việc pháp lý cụ thể
dựa trên cơ sở quy phạm pháp luật điều
chỉnh một quan hệ xã hội tương tự.
G
Giải thích pháp luật
Là việc làm sáng tỏ nội dung và tư tưởng
của các quy phạm pháp luật để đảm bảo cho
sự nhận thức và thực hiện pháp luật được
nghiêm chỉnh, thống nhất.
P
Pháp chế
Là sự hiện diện của một hệ thống pháp luật
hoàn thiện với sự tôn trọng và thực hiện
pháp luật một cách chính xác, thống nhất
của tất cả các chủ thể trong xã hội, nhằm
xây dựng xã hội có trật tự, kỷ cương.
S
Sử dụng pháp luật
Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó
các chủ thể pháp luật thực hiện quyền pháp
lý của mình mà pháp luật quy định cho mình.
T
Tâm lý pháp luật
Là những cảm xúc, tâm trạng, thái độ, tình
cảm về pháp luật và những hiện tượng pháp
lý khác.
Thi hành pháp luật
Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó
các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ
pháp lý của mình bằng hành động tích cực.
Thực hiện pháp luật
Là hoạt động có mục đích của chủ thể nhằm
hiện thức hóa các quy định của pháp luật,
làm cho chúng đi vào cuộc sống .
Tồn tại pháp luật
Bao gồm hệ thống pháp luật thực định và
thực tiễn áp dụng pháp luật
Tuân thủ pháp luật
Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó
các chủ thể pháp luật kiềm chế, không tiến
hành những hoạt động mà pháp luật cấm.
Tư tưởng pháp luật
Là toàn bộ các quan điểm, quan niệm, học
thuyết, sự hiểu biết của chủ thể về pháp luật.
V
Văn bản áp dụng pháp luật
Là văn bản pháp lý cá biệt, mang tính quyền
lực nhà nước, do cơ quan nhà nước, công
Bài 6: Thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật
TGL101_Bai6_v1. 0014103215 173
chức nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức
xã hội được nhà nước trao quyền ban hành
theo thủ tục, trình tự luật định trên cơ sở áp
dụng các quy phạm pháp luật đối với những
quan hệ cụ thể, cá biệt nhằm thiết lập quyền
và nghĩa vụ cụ thể của cá nhân, cơ quan, tổ
chức nhất định hoặc xác định trách nhiệm
pháp lý đối với các chủ thể vi phạm pháp luật.
Y
Ý thức pháp luật
Là tổng thể những tri thức, quan niệm, quan
điểm, học thuyết về pháp luật thể hiện sự
nhận thức, thái độ, tình cảm của con người
đối với pháp luật.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_ly_luan_nha_nuoc_va_phap_luat_bai_6_thuc_hien_pha.pdf