Mồi tự nhiên: Một số loại thức ăn có thể làm mồi dụ sên vào bẫy, ví dụ nhƣ
lõi ngô, hoa quả (dù đã cũ hỏng), mật ong trộn với men rƣợu.159
Muối: Muối sẽ giết chết sên . Nhƣng khi dùng phải cẩn thận, vì cây có thể
sẽ chết nếu rắc muối vào gốc cây. Nên rắc muối ở một khoảng cách xa.
Giấm: Xịt giấm vào sên để tiêu diệt chúng. Cần để ý xem cây của có phải là
loại ƣa axit không.
Đồ vật bằng đồng: Sên sẽ không bò qua các đồ vật bằng đồng. Vì đồng
tƣơng tác với nhớt của sên và tạo ra hiện tƣợng sốc điện nhỏ. Có thể uốn sợi dây
đồng thành vòng tròn bao quanh gốc cây, chú ý không để miếng đồng bị rỉ sét, vì
nó sẽ làm mất tác dụng tạo điện.
Amoniac: Dùng amoniac pha với nƣớc (dù mùi hơi bị khai) để xịt lên chỗ
bị sên gây hại.
Nuôi thiên địch: Chim, gà, cóc, ếch, một số loại bọ cánh cứng là kẻ thù của
sên.
Dùng cát: Cát có tác dụng ngăn sên bò lên, vì chúng không chịu nổi bề mặt
ráp. Nên phủ một lớp cát dày quanh gốc cây. Cát có thể ngăn ốc sên dù là cát khô
hay cát ƣớt, và lại rất dễ bổ sung khi bị hao hụt.
Vỏ cam, bƣởi: Vỏ của họ cam chanh rất hấp dẫn sên. Đặt một nửa quả
cam/bƣởi đã vắt ngửa lên trong vƣờn. Đêm hôm sau sẽ thấy có sên trong vỏ quả
cam, hãy quẳng chúng đi cho chúng không còn đƣờng trở lại.
162 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Mô đun Bảo vệ thực vật - Động vật hại cây trồng và nông sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tại địa phƣơng đƣợc gọi là "tegogolo" và đƣợc đánh giá nhƣ là một
mặt hàng thực phẩm có chất lƣợng cao đƣợc ngƣời dân bản địa và khách du lịch ƣa
chuộng, nhƣng loài OBV hiện nay ở Châu Á là loài khác có kính thƣớc nhỏ hơn và
không có chất lƣợng thịt ốc tự nhiên nhƣ ở bản địa.
Hình 3.1. Thu gom Ốc Bươu Vàng để xuất khầu.
Ở phía Đông Bắc Thái Lan OBV đƣợc thu thập và tiêu thụ. Chúng đƣợc bắt
bằng tay từ kênh rạch, đầm lầy, ao và ruộng lúa ngập nƣớc lúa trong mùa
mƣa. Trong mùa khô khi các con OBV này đƣợc che dấu dƣới lớp bùn khô, dùng
thuổng để cạo bùn để tìm thấy chúng. Những con OBV thƣờng đƣợc thu nhặt bởi
phụ nữ và trẻ em. Sau khi thu thập, ốc đƣợc làm sạch luộc. Sau đó lấy ruột ốc ra
khỏi vỏ và làm sạch trong nƣớc muối. Tiếp theo là xào, nấu hoặc bóp gỏi, sẽ có
những món ăn từ OBV thay vì thịt cá còn thiết hụt.
Lƣu ý, Ký sinh trùng trong ốc bƣơu vàng
Ở Trung Quốc và Đông Nam Á, tiêu thụ OBV Pomacea canaliculata sống
hoặc nấu chƣa đủ chín đã bị nhiểm ký sinh trùng Angiostrongylus
cantonensis trong thịt OBV và gây ra chứng bệnh nhiễm trùng angiostrongyliasis
ở ngƣời.
120
Ký sinh trùng này có thể lây nhiễm sang con ngƣời nếu con ốc sên đang ăn
chƣa đƣợc nấu chín kỹ lƣỡng.
Khoảng 1,0% OBV Pomacea canaliculata bán trên thị trƣờng địa phƣơng ở
Thành phố Đại Lý, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc đã đƣợc tìm thấy bị nhiễm ký sinh
trùng Angiostrongylus cantonensis trong năm 2009.
Hình 3.2. Ốc Bươu Vàng làm thức ăn
Sử dụng OBV như vật nuôi để làm cảnh và lấy thịt.
Trong những năm 1980s, OBV Pomacea canaliculata đã đƣợc giới thiệu tới
Đài Loan để bắt đầu một ngành công nghiệp thủy sản mới. Ngƣời Đài Loan nghĩ
rằng loài thực phẩm mới này có thể cung cấp thêm nguồn đạm đang thiếu hụt trong
dân do họ chủ yếu dùng gạo làm nguồn thực phẩm chính. Nhƣng OBV không cung
cấp thêm nguồn đạm cho họ đƣợc bao nhiêu mà chúng đã tấn công ngay trên ruộng
lúa của ngƣời nông dân Đài Loan làm cho họ thêm gian nan vất vả để phòng trừ
loài dịch hại mới này.
121
Cũng từ con đƣờng vấp ngã đó của Đài Loan, sau đó tiếp theo là Philipines,
Việ Nam và hàng loạt các nƣớc Đông Nam Á khác cũng rƣớc loài “ thủy quái” này
về gây họa cho đất nƣớc mình.
Không những chỉ ở những nƣớc Châu Á mê OBV trong những thập kỷ
1980s, 1990s mà ngay tại Hawai, một bang giữa Thái Bình Dƣơng của Mỹ cũng
mang loài dịch hại mới này về gây hại cho loài cây môn nƣớc, vốn là loài cây trồng
chính tại Bang đảo này.
Hiện nay OBV đƣợc xem là 1 trong top 100 của "Thế giới của các loài xâm
lấn tồi tệ nhất từ nƣớc ngoài".
Sử dụng OBV như tác nhân kiểm soát sinh học
Một số loài OBV chịu đựng đƣợc những loài ký sinh trung trùng và chúng
có cơ chế nhƣ chung sống hòa bình với những loài OBV này. Trái lại những ký
sinh trùng từ loài OBV có thể lây nhiểm và tiêu diệt các loài ốc địa phƣơng nhƣ đã
đề cập ở trên.
Qua phát hiện này các nhà khoa học đã táo bạo dùng OBV nhƣ tác nhân
kiểm soát sinh học để diệt các loài ốc bản địa gây ra nhiều bệnh tật ở Châu Phi.
Sự việc là tại Châu Phi có nhiều loài ốc trong Họ Planorbidae nhƣ loài ốc
Bulinus và loài ốc Biophalaria tại địa phƣơng là vật chủ trung gian mang ký sinh
trùng trematoda làm ô nhiểm hầu hết nguồn nƣớc mặt ở Châu Phi và chúng gây
bệnh cho khoảng 200 triệu ngƣời Châu Phi khi họ tắm rửa, sinh hoạt và làm việc
trong nguồn nƣớc đã bị ô nhiểm ký sinh trùng trầm trọng này.
Để diệt đƣợc các loài ốc địa phƣơng đã mang mầm bệnh ký sinh trùng đã
lây lan cho ngƣời bằng mọi biện pháp rất khó. Do đó ngành y tế cho nhập từ Nam
Mỹ các loài OBV thuộc Chi Pomacea và Chi Marisa loài đã đƣợc nhập nội vào
Châu Á và Châu Phi để thả vào môi trƣờng để loài ký sinh trùng trong OBV tiêu
diệt các loài ốc địa phƣơng hoang dại ở Châu Phi từ đó làm giảm các loài ốc địa
phƣơng mang mầm gây bệnh cho ngƣời, làm chặn đứng các dịch bệnh ký sinh
trùng do các loài ốc địa phƣơng gây ra.
Đây là một thành công trong kiểm soát sinh học và cũng là con dao hai lƣỡi
thật nguy hiểm: Trƣớc mắt các loài ốc địa phƣơng ở Châu Phi sẽ bị tiêu diệt, làm
122
mất đi sự đa dạng sinh học và ngay những loài OBV cũng mang nguồn ký sinh gây
bệnh cho ngƣời dù chúng chƣa gây bệnh truyền nhiểm hàng loại.
Loài ốc chủ yếu dùng trong kiểm soát sinh học là loài OBV Marisa
cornuarietis chứ không phải loài OBV Pomacea canaliculata ở Châu Á nhƣ hiện
nay.
Sử dụng OBV làm nguồn thức ăn chăn nuôi
Ở Việt Nam, OBV đƣợc dùng làm thức ăn cho tôm, cá và gia súc và có thể
chế biến thành nhiều món ăn ngon. OBV là nguồn thức ăn tự nhiên rẽ tiền đối với
nghề nuôi vịt chạy đồng ở ĐBSCL. Vịt đẻ thả đồng ăn OBV có chất lƣợng trứng
tốt hơn vịt đẻ nuôi nhốt cho thức ăn công nghiệp. (theo phản ảnh tù nông dân).
Ốc đƣợc du nhập vào Việt Nam với ý tƣởng để nuôi làm thực phẩm và xuất
khẩu vào khoảng năm 1988. Sau đó chúng thoát ra ngoài tự nhiên và gặp điều kiện
sinh sống thích hợp nên đã phát triển thành loài động vật gây hại trầm trọng cho
lúa ở hầu hết các tỉnh phía Nam. Có thể nói, hiện OBV vẫn là loài động vật gây hại
bậc nhất đối với nền nông nghiệp Việt Nam do OBV sinh trƣởng chủ yếu vào vụ
hè thu, đặc biệt là mùa nƣớc nổi.
2. Đặc điểm sinh vật học và sinh thái học
2.1. Đặc điểm sinh trƣởng
123
Hình 3.3. Vòng đời của Ốc Bươu Vàng
Vòng đời: Trƣởng thành: 26-59 ngày, trứng: 7-14 ngày, ốc non: 15-25 ngày
Trƣởng thành: màu vàng nâu, khi sống ở ao tù có màu nâu đậm.
Ốc non: Vỏ rất mềm, hình cầu, màu vàng hoặc nâu đen. Ốc đực bé hơn ốc
cái, hình cầu, nắp miệng vồng lên, vỏ miệng loe. Ốc cái hình bầu dục, nắp miệng
lõm xuống, vỏ miệng thẳng
Trứng: hình cầu hoặc ô van, dài 2-3 mm, màu hồng tƣơi đƣợc đẻ thành ổ
trên thân lúa, cây cỏ, ven ruộng, mƣơng máng ...; mỗi ổ có 25-500 quả. Sắp nở
chuyển sang màu hồng nhạt.
Đợt nuôi
Thời gian phát
dục (ngày) Độ nhiệt
(
0
C)
Trứng Ốc non Vòng đời
1 9,8 + 0,19 62,6 + 1,32 74,05 + 1,29 28,9
2 9,3 + 0,22 61,85 + 1,38 72,6 + 1,48 29,2
3 10,5 + 0,24 67,15 + 1,98 79,45 + 1,96 27,9
4 11,3 + 0,22 72,0 + 1,56 84,8 +1,50 27,1
TB 10,23 + 0,21 65,9 + 1,56 77,73 + 1,56 28,3
Bảng 4.1. Thời gian các pha phát triển của Ốc Bươu Vàng
2.2. Đặc điểm sinh sản
OBV có sức đẻ trứng lớn, mỗi con cái đẻ đƣợc 10 - 13 ổ trứng (khoảng 1000
- 1200 trứng/tháng). Thời gian đẻ trứng kéo dài từ 70 - 90 ngày.
Ốc non mới nở rơi từ ổ trứng xuống nƣớc, nổi lập lờ trên mặt nƣớc hoặc
bám vào cành cây. Trong 2-3 ngày đầu không ăn, từ ngày thứ 4-5 trở đi bắt đầu ăn
các chất nổi trên mặt nƣớc và động vật phù du. Lớn hơn ăn rong rêu, lá cây mềm.
Ốc phàm ăn và lớn rất nhanh.
Ốc bƣơu vàng có thể sống từ 2 - 6 năm.
124
2.3. Đặc điểm cấu tạo của Ốc Bƣơu Vàng
2.3.1. Đặc điểm bên ngoài
Hình 3.4. Cấu tạo ngoài của Ốc Bươu Vàng
1. Đỉnh vỏ; 2. Vòng xoắn, 3. Nắp miệng, 4. Vành miệng, 8. Rãnh xoắn, 10. Trục
Ốc, 1- 5 Chiều cao, 7 - 9 Chiều rộng.
Vỏ Ốc cuốn quanh một trục tạo thành trục ốc.
Trên vỏ có đỉnh vỏ là nơi hình thành các xoắn đầu tiên, thƣờng khó phân
biệt đƣoợc bằng mắt thƣờng.
Vòng xoắn có 5 - 6 vòng bắt đầu từ đỉnh vỏ đến cuối cùng là lỗ miệng nơi
phình to nhất. Giữa các vòng xoắn là rảnh xoắn, những rảnh xoắn của OBV thƣờng
sâu hơn rảnh xoắn của ốc khác.
Miệng vỏ có nắp hình bầu dục có tâm lệch
Con đực bé hơn con cái và có thể phân biệt nhờ 3 đặc điểm sau:
Ốc đực
Ốc cái
Ngoại hình Hình cầu Hình bầu dục
Nắp miệng Vồng lên Lõm xuống
Miệng Vỏ loe Thẳng
Kích cỡ cơ thể 29,0 × 20,0 mm 34,0 × 23,0 mm
125
2.3.2. Đặc điểm cấu tạo của các cơ quan bên trong
Cơ quan tiêu hoá: Bên ngoài cùng là cơ quan miệng có răng kitin ở hai bên,
giữa là lƣỡi gai. Răng kitin và lƣỡi gai khi hoạt động giống nhƣ cấu tạo cắt xén.
Cơ quan hô hấp: OBV thở bằng mang và bằng phổi. Đây là điểm khác biệt
lớn với các nhóm khác. Khi ở trong nƣớc chúng dùng ống xi phông nhƣ ống thở
của thợ lặn lấy không khí vào để hô hấp . Phổi thông với ống xi phông hút ở bên
trái. Còn các dãy lá mang thông với xi phông thoát khí ở bên phải. Do vậy, chúng
có thể sống bình thƣờng ở môi trƣờng bẩn hoặc thiếu ôxy nhƣ trong ao tù hoặc mật
độ nuôi rất cao hay nhƣ sống ở trên cạn trong điều kiện ẩm ƣớt một vài ngày. Có
ống xi phông và mang là ƣu thế của OBV, nhờ đó chúng có thể sống cả ở trên cạn
trong khoảng thời gian nhất định và khi ở dƣới nƣớc, ngay cả khi nguồn ôxy rất
thấp trong nƣớc.
Cơ quan sinh dục của con cái có thể nhìn thấy ổ trứng màu đỏ tƣơi từ bên
ngoài lớp vỏ mỏng, còn của con đực là tuyến tinh màu trắng và cơ quan giao phối
hình lòng máng có rãnh dẫn tinh.
126
Hình 3.5. Đặc điểm bên trong của Ốc Bươu Vàng
Hình 3.6. Xi phông của OBV (Theo Ghesquiere)
Trứng: hình cầu hoặc hình ô van, dài 2 - 3 mm, màu hồng tƣơi, đƣợc đẻ
thành ổ, mỗi ổ có 25 - 500 quả. Lúc mới đẻ trứng dính vào nhau không thể tách
từng quả một nhƣng đến khi sắp nở màu sắc quả trứng chuyển sang màu trắng nhờ,
lúc này có thể tách riêng từng quả một do chất nhầy kết dính hết tác dụng.
127
Hình 3.6. Trứng Ốc Bươu Vàng
2.4. Nơi ở và sự phân bố
Ốc sống đƣợc trong điều kiện khắc nghiệt, gặp khô hạn chúng chui sâu vào
bùn khô và sống trong đó tới 6 tháng; nhiệt độ 38oC ốc vẫn sống và
sinh sản đƣợc.
Ở nƣớc ta, căn cứ vào mức độ gây hại, có thể chia ra 3 vùng phân bố của ốc
bƣơu vàng nhƣ sau:
Vùng thƣờng xuyên có nguy cơ gây hại nặng: Là các tỉnh đồng bằng sông
Cửu Long, nơi lúa sạ là chủ yếu, nguồn OBV lại rất phong phú do thảm thực vật
hoang dại nhiều tại các đầm, kênh rạch, rừng ngập tự nhiên và nguồn ốc trôi dạt
sau các đợt lũ.
Vùng có nguy cơ gây hại nặng nhƣng không thƣờng xuyên: Chủ yếu là các
tỉnh miền Trung, Lạng Sơn, Điện Biên, nơi canh tác lúa gieo thẳng hoặc cấy mạ
non là chính. Dịch OBV phụ thuộc vào chế độ tƣới nƣớc và nguồn xâm nhập từ
bên ngoài.
Vùng ít có nguy cơ bị gây hại: là các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng và
trung du miền núi phía Bắc. Tuy nhiên nếu cấy mạ non hoặc gieo thẳng, mức độ
gây hại của OBV sẽ vẫn cao (Nguyễn Trƣờng Thành và CTV, 2004).
Nghiên cứu của Nguyễn Trƣờng Thành và CTV (2004) cho biết ngƣỡng
phòng trừ OBV đƣờng kính 3 cm cho mạ 10 ngày tuổi là 0,65 con/m2.
2.5. Yếu tố thức ăn
Ốc bƣơu vàng ăn tạp và có khả năng ăn thực vật xanh. Thức ăn của chúng là
phiêu sinh vật trôi nổi trên mặt nƣớc, rong tảo trong nƣớc và sinh vật đáy gồm
động vật nhỏ và chất hữu cơ. Chế độ ăn tùy theo tuổi.
Ốc con thƣờng ăn rong tảo và các mảnh vụn, khi có kích thƣớng khoảng 15
cm chúng bắt đầu ăn đƣợc thực vật. Chúng ăn đƣợc xác động vật thối rữa, côn
trùng và giun tròn khi chúng bắt đƣợc trên mặt đất và trong nƣớc.
Do ăn đƣợc thực vật nên chúng là lài dịch hại trên cây lúa, sen, súng và môn
nƣớc.
128
3. Đặc điểm phát sinh gây hại và biện pháp phòng chống
3.1. Triệu chứng tác hại
Ốc bƣơu vàng ăn khỏe, ăn tạp. Giai đoạn mạ non là thức ăn ƣa thích của
chúng nhƣng đến khi lúa già chúng ăn rất ít. Khi ăn, chúng cắn đứt gốc cây mạ hay
lúa non rồi lấy miệng nhai thân hoặc lá non, làm trụi cả đám mạ hay lúa non. Ốc
càng lớn tác hại càng mạnh; khi ốc 4 - 5 cm (bằng quả bóng bàn) một ngày có thể
ăn hại 11-14 dảnh lúa.
Đối với lúa gieo sạ: 7 cặp ốc có thể ăn hết 1 m2 lúa trong 5 ngày.
Hình 3.7. Ốc Bươu Vàng hại Lúa 1
3.2. Qui luật phát sinh phát triển và gây hại
3.2.1. Con trưởng thành
Loài này, không giống nhƣ hầu hết các ốc khác có có kiểu sinh sản lƣỡng
tính, nó có con đực và con cái phân biệt rõ ràng.
129
Khi OBV qua 45-50 thì đến giai đoạn trƣởng thành và có khả năng giao phối
và con cái đẻ trứng đƣợc. Khi đó chúng đạt kích thƣớc khoảng 2 cm trở lên.
Sau khi giao phối con cái lƣu giữ lại tinh trùng của con đực, chỉ một lần giao
phối sau đó con cái đẻ nhiều lần với những ổ trứng có thời gian cách xa nhƣng
trứng vẩn đƣợc thụ tinh bình thƣờng.
Trong môi trƣờng sống ở những vùng mới du nhập, OBV đực và cái có thể
giao phối với ốc bƣơu địa phƣơng nhƣng chƣa đƣợc chứng minh khoa học là có
dạng con lai. Bởi vì OBV còn khác xa với các loài ốc bƣơu địa phƣơng về mặt di
truyền. Điểm khác biệt về cấu trúc cơ thể điển hình là: OBV vừa có mang vừa có
phổi, trong khi đó ốc bƣơu địa phƣơng sống dƣới nƣớc chỉ có mang mà thôi.
3.2.2. Trứng
Do giàu carotenoid nên vỏ trứng có màu đỏ đậm hơi tím. Các trứng gắn với
nhau thành khối và ổ trứng đƣợc đẻ trên các giá thể cách mặt nƣớc 20-80 cm, kích
thƣớc mỗi quả trứng từ 0,5-1 mm. Hình dạng của ổ trứng thay đổi tùy vào địa thế
nơi đẻ.
Một ổ trứng của OBV có từ 200-600 trứng. Nơi con cái chọn đặt ổ trứng
luôn luôn khi nở ốc con rơi ngay vào mặt nƣớc, không có những ổ trứng mà
đƣờng thẳng đứng của nó để rơi vào đất cạn.
Trứng nở sau khi đẻ 10-20 ngày thì nở, tỷ lệ nở rất cao. Có lẽ ổ trứng OBV
đƣợc tẩm hóa chất bảo vệ nên ít bị côn trùng, chim và ngay cả vịt đẻ cũng không
muốn ăn ổ trứng ốc dù chúng rất bổ dƣỡng và có mà sắc hấp dẫn.
3.2.3. Ấu trùng
Giai đoạn ấu trùng (ốc con) của OBV khoảng 45-50 ngày. Trong giai đoạn
này chúng ăn phiêu sinh vật trôi nổi trong nƣớc và sinh vật đáy ở mặt đất, chƣa có
khả năng ăn đƣợc các loại thực vật bậc cao. Ấu trùng OBV di chuyển chủ yếu nhờ
vào dòng chảy của mặt nƣớc.
Qua giai đoạn ấu trùng OBV bắt đầu gây hại thực vật thủy sing sống trong
nƣớc và cây lúa (mầm, mạ non và chồi non).
Tuổi thọ của OBV là 3-4 năm. Trƣởng thành sinh sản đạt đƣợc trong 3 tháng
đến 2 năm, tùy thuộc vào chế độ nhiệt độ môi trƣờng xung quanh.
130
3.3. Biện pháp phòng chống
3.3.1. Bắt bằng tay
Đây là biện pháp rất phổ biến. Tại nhiều vùng ngƣời ta thu gom làm thức ăn
cho ngƣời hoặc nghiền làm thức ăn cho cá.
Hình 3.8. Bắt Ốc Bươu Vàng bằng tay
3.3.2. Sử dụng thuốc hoá học
Hình 3.8. Nông dân xã Danh Thắng (Hiệp Hòa- Bắc Giang) phun thuốc trừ ốc
bươu vàng ( Theo Sở KH - CN Bắc Giang
131
Một số loại thuốc thƣờ ng đƣợc sử dụng là Endosulfan, Sulphát đồng,
Metaldehyde, Padan... Các loại thuốc hoá học có hạn chế lớ n nhất là rất độc đối
với cá và động vật thuỷ sinh (Endosulfan) và đắt tiền (Metaldehyde). Vì vậy khi
sử dụng phải đƣợc cân nhắc kỹ lƣỡng.
Mới đây, Viện Bảo vệ thực vật đã nghiên cứu thành công 2 loại thuốc thảo
mộc tr ừ OBV có triể n vọng tốt là CE-02 (10 kg/ha) và CH-01 (15 lít/ha), có thể
diệt trừ 79,2 - 85,4% OBV trong khi không ảnh hƣởng đến cá (Nguyễn Trƣờng
Thành và CTV, 2004).
3.3.3. Những giải pháp sinh học trong kiểm soát OBV
Giải pháp thả Ba ba trơn để bảo vệ lúa hoang ở Trung Quốc
Lúa hoang, Zizania latifolia Turcz, còn gọi là cây Niễng đƣợc sử dụng để
làm một trong các loại rau thủy sản quan trọng đƣợc trồng khai thác phần chồi
ngầm để làm rau và đƣợc liệu. Gần đây, OBV Pomacea canaliculata (Lamarck)
đã đƣợc tìm thấy là một dịch hại tấn công xâm nhập lớn vào cây Z. latifolia.
Do loài này là cây trồng trầm thủy lƣu niên nên rất khó bảo vệ thiệt hại do
OBV, hơn nữ đây là loài rau sạch và là cây thuốc nên không cho phép dùng thuốc
hóa học để diệt ốc.
Để kiểm soát có hiệu quả với OBV trong môi trƣờng này các nhà khoa học
Trung Quốc đã thả loài Ba ba trơn vỏ mềm Trung Quốc (Pelodiscus sinensis) vào
ruộng lúa hoang để kiểm soát OBV.
Cách làm là thả 30-50 con Ba ba vừa mới lớn vào ruộng lúa . Kết quả cho
thấy chúng kiểm soát OBV non rất tốt, đƣợc nông dân chấp nhận là giải pháp có
hiệu quả và rẽ tiền vì loài Ba ba này rất háo ăn OBV con và chỉ cần tốn tiền làm
rào kẽm chung quanh khu vực cần bảo vệ 1 lần có thể bảo vệ loài cây quí hiếm này
trong nhiều vụ.
Các nhà khoa học ghi nhận rằng Ba ba nhỏ diệt OBV nhỏ và Ba ba già diệt
cả OBV trƣởng thành rất có hiệu quả.
Bên cạnh thả Ba ba, các nhà khoa học còn thử nghiệm thả cá chép thƣờng
(Cyprinuscarpio) để kiểm soát OBV trong các ao trồng sen cũng rất có hiệu quả.
132
Hành vi này cho ăn cũng đƣợc tìm thấy trong cá chép thƣờng
Cyprinuscarpio (Teo, 2006). Có thể kết luận rằng P. sinensis là một trong những
hy vọng hầu hết các tác nhân sinh học cho GAS bởi vì họ không chỉ mồi ốc trẻ, mà
còn tấn công những ngƣời trƣởng thành một cách hiệu quả.
3.3.4. Phòng trừ tổng hợp Ốc Bươu Vàng
Hình 3.10. Chăn thả Vịt để bắt Ốc Bươu Vàng
Hình 3.11. Làm rảnh thu Ốc bươu vàng
133
Hình 3.12. Làm phên ngăn và cắm cọc bắt trứng Ốc Bươu Vàng
3.3.4.1. Biện pháp thủ công.
Dùng lưới chắn ốc: Nên dùng lƣới nilon có lỗ nhỏ che chắn kỹ những chỗ có
đƣờng nƣớc chảy tự nhiên từ ngoài kênh vào ruộng hoặc những vị trí bơm nƣớc
vào ruộng để ngăn chặn ốc từ kênh mƣơng vào ruộng lúa.
Thu gom ốc và ổ trứng thường xuyên: Để hạn chế số lƣợng ốc ở đầu vụ, bà
con cần tổ chức thu gom ốc và ổ trứng trên đồng ruộng, xung quanh các ao hồ,
kênh rạch nội đồng trƣớc khi cấy hoặc gieo sạ lúa.
Cắm cọc nhử ốc đến đẻ trứng: Dùng cây, que cắm ở những chỗ có nhiều ốc
tập trung, “dụ” cho ốc leo lên đẻ rồi thu gom trứng để tiêu huỷ; Kết hợp với việc
thƣờng xuyên thu gom trứng trên bờ cỏ và trên thân cây lúa định kỳ khoảng 5-7
ngày/1lần trƣớc khi trứng kịp nở ra ốc con rơi xuống nƣớc phát tán gây hại.
3.3.4.2. Biện pháp canh tác:
Bà con nên gieo cấy lúa theo băng, mỗi băng rộng khoảng 2m, giữa 2 băng
để một đƣờng canh tác (rãnh) rộng 25cm. Đƣờng canh tác sẽ là lối đi trong quá
trình chăm sóc, bón phân, phun thuốc phòng trừ sâu bệnh cho ruộng lúa. Mặt khác,
tại các đƣờng canh tác bà con có thể đặt các mồi nhử nhằm thu hút OBV đến ăn
134
giúp cho việc thu bắt chúng sẽ dễ dàng và đỡ tốn kém hơn. Có thể sử dụng các
loại lá mà OBV ƣa thích nhƣ lá chuối tƣơi, lá đu đủ, khoai lang, rau muống,
Điều tiết chế độ nƣớc bằng cách rút nƣớc định kỳ, giữ mực nƣớc thấp
2 - 3 cm sau khi cấy nhằm hạn chế ốc di chuyển, phá hại.
Có thể thả vịt nhỏ vào ruộng lúa ăn ốc non và trứng ốc khi lúa giai đoạn đẻ
nhánh, thu lƣợm ốc bƣơu vàng trƣởng thành để làm thức ăn cho cá, vịt....
3.3.4.3. Biện pháp hóa học:
Những ruộng có mật độ ốc cao, gây hại nhiều, bà con có thể sử dụng thuốc
hóa học đƣợc khuyến cáo phòng trừ ốc của ngành BVTV, trên địa bàn tỉnh có thể
tham khảo 1 số loại thuốc sau: BAYKIDE 70WP, VINICLO 70WP, MILAX
100GB, pha phun hoặc rắc theo hƣớng dẫn trên bao bì vào giai đoạn ngay sau
khi gieo cấy.
Lƣu ý: Khi rải hoặc phun thuốc trừ ốc, mực nƣớc ruộng phải đạt mức 3 - 5
cm và phải giữ mực nƣớc này khoảng 4 - 5 ngày để hiệu quả diệt ốc đạt cao nhất;
Có thể trộn thuốc với phân hay cát để rải đều trên bề mặt ruộng.
135
NỘI DUNG GHI NHỚ BÀI 3
Vòng đời: Trƣởng thành: 26-59 ngày, trứng: 7-14 ngày, ốc non: 15-25 ngày
Trƣởng thành: màu vàng nâu, khi sống ở ao tù có màu nâu đậm.
Ốc non: Vỏ rất mềm, hình cầu, màu vàng hoặc nâu đen. Ốc đực bé hơn ốc
cái, hình cầu, nắp miệng vồng lên, vỏ miệng loe. Ốc cái hình bầu dục, nắp miệng
lõm xuống, vỏ miệng thẳng.
Trứng: Hình cầu hoặc hình ô van, dài 2 - 3 mm, màu hồng tƣơi, đƣợc đẻ
thành ổ, mỗi ổ có 25 - 500 quả. Lúc mới đẻ trứng dính vào nhau không thể tách
từng quả một nhƣng đến khi sắp nở màu sắc quả trứng chuyển sang màu trắng nhờ,
lúc này có thể tách riêng từng quả một do chất nhầy kết dính hết tác dụng.
Ốc bƣơu vàng ăn khỏe, ăn tạp. Giai đoạn mạ non là thức ăn ƣa thích của
chúng nhƣng đến khi lúa già chúng ăn rất ít. Khi ăn, chúng cắn đứt gốc cây mạ hay
lúa non rồi lấy miệng nhai thân hoặc lá non, làm trụi cả đám mạ hay lúa non. Ốc
càng lớn tác hại càng mạnh; khi ốc 4 - 5 cm (bằng quả bóng bàn) một ngày có thể
ăn hại 11-14 dảnh lúa.
136
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Trình bày đặc điểm sinh trƣởng và đặc điểm sinh sản của Ốc Bƣơu Vàng ?
2. Trình bày biện phòng trừ tổng hợp Ốc Bƣơu Vàng ?
3. Trình bày đặc điểm phát sinh gây hại của Ốc Bƣơu Vàng ?
137
BÀI 4: ỐC SÊN VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG
MÃ BÀI: MĐ 18 - 04
Giới thiệu:
Ốc sên (còn gọi là ốc ma) và sên dẹp (sên không vỏ, có nơi gọi là sâu nhớt)
thuộc loài sống trên cạn. Đây là loài sống hoang dại, ban ngày chúng ẩn kín trong
các hốc, bụi cây hoặc chui xuống đất. Khi đêm xuống, chúng xuất hiện và phá hoại
cây cối, hoa màu; nhất là ăn phần non của cành, hoa, lá, mầm, trái thanh long. Đặc
biệt, chúng phát triển mạnh trong mùa mƣa và những vƣờng cây đƣợc tƣới nƣớc
thƣờng xuyên trong mùa nắng. Ốc sên thuộc họ (Achatinidae) có nhiều loại, phổ
biến là ốc sên hoa (Achatinafulica). là loài động vật thân mềm sống ở nhiều nơi
trên đất nƣớc ta. Ốc sên ăn thực vật mà món khoái khẩu của chúng là các đọt lá
non trong các họ cây lấy củ và rau màu.
Mục tiêu của bài: Sau khi học xong bài này ngƣời học
- Trình bày đƣợc khái niệm và đặc điểm ốc sên hại.
- Quan sát đƣợc, nhận định đƣợc và đƣa đƣợc phƣơng hƣớng phòng chống
ốc sên hại.
Nội dung
1. Vai trò, vị trí phân loại và đặc điểm hình thái
1.1. Lịch sử nghiên cứu, vị trí phân loại
Ốc sên hay ốc sên hoa (danh pháp khoa học: Achatina fulica)
Là loài động vật thân mềm sống trên cạn, thuộc họ Achatinidae.
1.2. Tầm quan trọng và đặc điểm hình thái
Tại Việt nam ốc sên bị coi là loại sâu bọ gây hại cho hoa màu và cây trồng,
ngƣời dân không ăn ốc sên mà còn giết bỏ chúng.
Theo nghiên cứu của các nhà sinh học ốc sên có giá trị dinh dƣỡng rất cao,
Ốc sên màu vàng-nâu châu Á thịt chứa chất đạm (protein) cơ thể con ngƣời dễ hấp
thụ, ít chất béo (phần lớn không no) ngoài ra còn có một chút magiê, canxin, kali
và kẽm. Nhu cầu hằng năm về thịt ốc sên toàn cầu là 400.000 T, Mỹ mỗi năm phải
nhập 3,1 tỷ USD. Thế giới mỗi năm tiêu thụ 400.000 tấn ốc sên. Pháp vẫn là nƣớc
138
tiệu thụ nhiều nhất, chỉ riêng ở Paris, mỗi ngày ăn hết 210T ốc sên. Pháp hằng năm
phải nhập từ 50.000 – 60.000 tấn ốc thịt, trong đó có 80% đƣợc nhập từ hơn 30
nƣớc.
Pháp, Anh, Ý, Tây ban Nha, Ban Lan, Hungary là những nƣớc châu Âu có
truyền thống nuôi ốc sên lâu đời. Bƣớc sang đầu thiên niên kỷ, sau khi gia nhập
EU, Ba Lan và Hungary đã nhanh chóng công nghiệp hóa, sản lƣợng ốc sên giảm
mạnh, Bulgaria đã nhân cô hội trỗi dậy trở thành cƣờng quốc xuất khẩu ốc sên, chủ
yếu sang Pháp. Hằng năm, nƣớc này đã xuất 800 - 900 tấn ốc sên và sản phẩm từ
ốc sên, tuy chƣa nhiều, nhƣng đã nhanh chóng thay đổi bộ mặt lạc hậu ở nông
thôn.
Hình 4.1. Nuôi Ốc Sên làm thức ăn
Bulgaria cũng đang bắt đầu xuất khẩu một loại ốc sên mới -- ốc sên ăn cà
rốt, chủng đột biến từ ốc sên Địa Trung Hải. Những con ốc này trông rất lạ mắt vì
nó màu vàng cam chúng có giá tới 80 euro/kg. Ở châu Á, Đài Loan vào những năm
60 của thế kỷ trƣớc, đã phát triển mạnh nghề nuôi ốc sên, sản lƣợng gấp 10 lần
Trung Quốc và bỏ xa nƣớc nuôi truyền thống Indonesia. Năm 1985, nhờ phát hiện
dạng đột biến của ốc sên mã não-- ốc sên bạch ngọc, Trung Quốc đã vƣơn lên
139
thành nƣớc xuất khẩu thịt ốc sên lớn nhất thế giới. chủ yếu xuất sang thị trƣờng
Hoa Kỳ.
Dù ngành nông nghiệp ở Bulgaria và châu Âu đã suy giảm trong 20 năm qua
nhƣng nghề nuôi ốc sên - cung cấp một món ăn đặc biệt phổ biến ở Pháp và Italy,
đã trở thành một nghề phát triển năng động tại đất nƣớc nghèo nhất Liên minh
châu Âu (EU) này.
Ốc sên đƣợc nuôi theo mô hình khép kín đảm bảo nguồn giống và thức ăn
sạch. Các mặt hàng xuất bán chủ yếu là thịt ốc sên làm sạch đã đƣợc hấp chín. Sản
phẩm đã đƣợc chứng nhận đủ điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm của chi cục an
toàn thực phẩm trực thuộc sở y tế chi cục an toàn vệ sinh thực phẩm TP Hồ Chí
Minh.
Đặc điểm hình thái:
Ốc sên có hai bộ phận chính: Phần mềm và phần vỏ. Cấu tạo phần thân mềm
giống nhƣ phần lớn các loài chân bụng khác.
Phần vỏ (từ vài mm đến vài dm). Khác với các loài thân mềm khác nhƣ chân
đầu (vỏ trong phân khoang), vỏ ốc chỉ có một van duy nhất không phân khoang.
Các loài ốc vỏ xoắn khi trƣởng thành, dạng xoắn thƣờng, nón hoặc ống trụ(còn có
các loài ốc không có vỏ hoặc vỏ rất nhỏ, ví dụ ốc sên trần). Đặc điểm chung là có
vỏ cứng bằng đá vôi, tạo thành ống rỗng, cuộn vòng quanh trục chính thành các
vòng xoắn, thƣờng theo chiều thuận với chiều kim đồng hồ.
Ở vòng xoáy cuối cùng, thƣờng có một chiếc nắp nhỏ (nơi ra vào của con
vật). Điểm xuất phát của vòng xoáy, đƣợc gọi là đỉnh (hoặc rốn) cũng là điểm bắt
đầu của những đƣờng vân trên vỏ ốc. Có hai loại vân: vân ngang và vân dọc.
140
2. Đặc điểm sinh vật học và sinh thái học
Hình 4.2. Đặc điểm của Ốc Sên
l. Miệng; 2. Hạch miệng; 3. Hạch chân; 4. Lỗ sinh dục; 5. Penis; 6. Âm đạo; 7.
Túi gai giao phối; 8. Hậu môn; 9. Tuyến nhầy; 10. Chân; ll. Ống dẫn trứng; 12.
Ống dẫn tinh; 13. Ruột; 14. Túi nhận tinh; 15. Tuyến albumin; 16. Ống dẫn lưỡng
tính; 17. Tuyến tiêu hóa; 18. Tuyến lưỡng tính; 19. Thận; 20. Khoang bao tim; 21.
Tâm thất; 22. Tâm nhĩ; 23. Tĩnh mạch phổi; 24. Khoang áo; 25. Tuyến nước bọt;
26. Diều; 27. Hạch não; 28. Mắt; 29. Tua đầu; 30. Ống dẫn tuyến nước bọt; 31.
Lỗ thở; 32. Bờ vạt áo; 33. Vỏ
2.1. Đặc điểm sinh trƣởng
141
Đặc điểm hình thái: Cả ốc sên và nhớt đều giống nhau về cấu trúc và sinh
học, ngoài trừ ốc sên có vỏ bên ngoài. Ốc sên và nhớt vận chuyển bằng hệ cơ
( hình 4.2).
Sên nhớt đều hoạt động về đêm, gần sáng.
Con trƣởng thành ốc sên đẻ trứng bao bởi bọng, trứng màu trắng ngọc tập
trung trên mặt đất.
Hình 4.3. Ốc Sên
2.2. Đặc điểm sinh sản
Ốc sên là loài lƣỡng tính, mang đồng thời cơ quan sinh dục cái và đực trên
cơ thể. Khi giao phối, hai ốc tiến lại gần nhau, cơ quan giao phối thụ tinh chéo cho
nhau, sau cuộc giao hoan cả hai đều mang thai.
Trứng thƣờng đƣợc ốc đẻ ra ở những nơi ẩm ƣớt. Sau khi đẻ trứng, ốc bỏ đi
và không hề chăm sóc.
Sau 10 – 30 ngày tuỳ loài thì ốc con nở ra và chúng liền ăn ngay những cái
trứng không đƣợc nở gần đó, điều này đƣợc các nhà khoa học giải thích nhƣ là một
142
biện pháp bổ sung canxi giúp cho cái vỏ mềm non nớt của ốc con nhanh chóng
cứng cáp để chống lại kẻ thù.
Đa số các loài ốc đều đẻ trứng, nhƣng ở một vài loài những con ốc mới sinh
đƣợc sinh ra dƣới dạng con. Ốc và ốc sên thƣờng để lại sau mình những vệt ƣớt lấp
lánh. Điều này cho phép chúng dạo chơi đƣợc và giữ nguyên đƣợc độ ẩm. Vào
mùa đông chất nhớt này khô đi bịt kín vỏ ốc lại. Ốc thƣờng ngủ đông ở những khe
nứt hay những ao đầm.
Hình 4.4. Ốc Sên đẻ trứng
Hình 4.4. Ốc Sên giao phối
143
2.3. Nơi ở và sự phân bố
Ốc sên thƣờng sống ở những nơi ẩm ƣớt. Vào mùa hè nóng bức, nó co mình
trong vỏ để tránh nóng và ngủ. Khi đó, nó tiết ra một chất dính, bịt kín miệng ốc.
Đến mùa thu mát mẻ, chúng thức dậy, kiếm ăn.
Cuối thu se lạnh, nó bắt đầu dọn nhà đến khe đá, ngách tƣờng, vùi mình
trong đất, cũng lại tiết ra chất dính đóng kín cửa nhà, chống lại thời tiết giá lạnh và
ngủ đông đến tháng 2.
Ốc sên nhịn đói rất giỏi. Thí nghiệm cho thấy, nó có thể nhịn đói 4 năm mà
vẫn sống.
2.4. Vai trò của yếu tố thức ăn
Thức ăn ƣa thích của con ốc sên là những loại lá cây mềm nhƣ lá cây dâm
bụt, lá cây đu đủ, các mầm cây non. Nó cũng rất thích ăn các loại lá cây đã mục và
chất thải của động vật. Khứu giác của ốc sên rất nhạy bén. Nên những loại lá cây
nó thích ăn thƣờng là loại lá có mùi thơm, ví dụ nhƣ lá gừng, lá mùi tàu, lá rau cải.
Nó cũng rất thích ăn các loại quả. Bởi vì trong các loại quả có chứa nhiều nƣớc,
chất dinh dƣỡng, và cả mùi thơm. Những loại quả nó thích hơn cả là quả mít, quả
dứa, quả cà chua.
Ốc sên cũng rất thích ăn các loại hạt ngũ cốc nhƣ hạt gạo, hạt ngô, hạt đỗ.
Nó cũng rất thích ăn các loại củ nhƣ củ cà rốt, củ cải, củ khoai lang. Trong điều
kiện nuôi nhốt ốc sên, chúng ta cần bổ xung những loại thức ăn có hàm lƣợng dinh
dƣỡng cao để ốc sên lớn nhanh, đẻ nhiều. Ngoài việc thu hoạch thịt ốc sên, chúng
ta còn có thể thu hoạch trứng ốc sên. Nếu nuôi ốc sên để sử dụng làm thực phẩm
trong gia đình, tốt nhất chúng ta hãy bắt và gây nuôi những con ốc sên vẫn sống tự
nhiên trong các khu vƣờn ở nƣớc ta. Bởi vì loại ốc sên này đã thích nghi hoàn toàn
với điều kiện khí hậu của Việt Nam. Chúng ta có thể tận dụng các loại vỏ trái cây,
rau xanh, các loại cỏ, để làm thức ăn cho ốc sên. Chúng ta cũng có thể chủ động
trồng cây mùi tàu để làm thức ăn cho ốc sên. Ốc sên là loài vật lớn chậm, chúng ta
sẽ thu đƣợc nhiều hơn lợi ích kinh tế từ việc nuôi ốc sên, nếu biết tận dụng các loại
thức ăn có sẵn trong tự nhiên, và trong mỗi gia đình.
Ốc sên con vừa ra đời đã có thể tự kiếm ăn. Thức ăn chính của nó là rau cỏ,
rễ cây, mầm non, quả chín. Bởi vậy, nó là loài động vật gây hại cho mùa màng.
144
3. Đặc điểm phát sinh gây hại và biện pháp phòng chống
3.1. Triệu chứng tác hại
Các lá non bị ốc sên ăn, cành non bị gãy.
Đối với cây Hồ tiêu chúng thƣờng chui trốn trong gốc tiêu, nơi rậm rạp đợi
chiều tối bò ra ăn lá và thân và tạo vết thƣơng nên bệnh dễ xâm nhập gây bệnh cho
cây trồng, có đợt cây nảy mầm lá non vừa nhú thì qua ngày hôm sau bị ốc sên ăn
trụi cây không mọc đƣợc, vì thế việc phòng trừ ốc sên cần quan tâm thƣờng xuyên.
Riêng một số cây ăn trái và cây kiểng lá màu thì hầu nhƣ không thấy chúng tới.
Đối với cây Gừng, Ốc Sên thƣờng chui trốn trong các hốc đất, khe kẽ đợi
chiều tối bò ra ăn lá, ngọn non của cây gừng. Trong quá trình bò, chúng tiết là một
loại dịch làm cho cây Gừng bị hƣ lá và tạo vết thƣơng nên bệnh dễ xâm nhập gây
bệnh cho cây, còn đối với ngƣời trồng rau ăn lá khi gieo hạt trên đất, đợi khi hạt
nảy mầm lá non vừa nhú thì qua ngày hôm sau bị ốc sên ăn trụi cây không mọc
đƣợc.
Hình 4.5. Ốc Sên hại rau Cải bắp
145
Hình 4.6. Ốc Sên hại cam
3.2. Qui luật phát sinh phát triển và gây hại
Ốc sên (ốc ma) có kích thƣớc lớn, vỏ ốc có sọc trắng, có “lƣỡi” dài, phía
đỉnh đầu có 2 cái ăng-ten (mắt) phía trƣớc. Chúng thƣờng sống trong các bụi cây,
hàng rào, xác bã thực vật, Ban đêm, chúng bò ra ăn cành non, ngọn non, nụ
hoa,
3.3. Tập quán sinh sống và gây hại:
Những con gần thành thục và trƣởng thành ăn tất cả các bộ phận của cây. Ốc
sên ăn cả lá, tạo thành lỗ trên lá. Nhớt cũng ăn chồi cây làm năng suất, chất lƣợng
giảm.
3.4. Biện pháp phòng chống
3.4.1. Biện pháp diệt ốc thủ công, không độc hại môi trường.
Bắt bằng tay: Đây là biện pháp rất phổ biến. Tại nhiều vùng ngƣời ta thu
gom làm thức ăn cho ngƣời hoặc nghiền làm thức ăn cho cá. Chúng ta cần đặt vấn
đề phòng ngừa ốc sên hại lan lên hàng đầu hơn là dùng thuốc diệt trừ chúng. Nếu
làm tốt khâu này, thì bạn không cần phải lo lắng nhiều tới việc diệt trừ loài vật gây
hại này. Hoặc có thế hạn chế sự phá hoại của chúng ở mức thấp nhất.
146
Chăm sóc kỹ vƣờn cây: Trong mùa mƣa và những ngày u ám, làm sạch cỏ
dại phía dƣới vƣờn , đặc biệt trong mùa khô. Loại trừ ngay những nơi ẩn nấp của
chúng vào ban ngày nhƣ đống gạch gỗ, những nơi ẩm ƣớt, lá cây rụng trong vƣờn
Tìm và diệt hết ốc thủ công: Vào buổi chiều, tƣới nƣớc vào nơi tình nghi có
ốc sên trú ẩn, vào ban đêm (khoảng 8 giờ tối) dùng đèn để bắt giết khi sên nhớt ra
ăn và vào lúc sáng sớm.
Chặt cánh râm bụt có nhiều lá xanh, để cho héo, đem bỏ từng đống trong
vƣờn vào lúc chiều mát. Tối đến, ốc sên sẽ kéo đến ăn lá râm bụt. Sáng hôm sau sẽ
thu gom dễ dàng.
Lấy một cái hũ, trét lên một lớp mật ong mới lấy còn mùi thơm. Chờ sẩm tối
đêm để ngoài vƣờn. Vị ngọt thơm của mật ong sẽ dẫn dụ ốc sên chui vào hũ rất
nhiều. Sáng ra bạn chỉ cần xử lý chúng là xong.
Bắt vài con cóc nuôi trong vƣờn (số lƣợng cóc nuôi ít hay nhiều tuỳ theo
vƣờn rộng hay hẹp). Đêm đến những con cóc này sẽ ăn hết những con ốc sên và nó
còn ăn những loại sâu bọ, mối, kiến cánhnhƣng không phá hoại cây trồng.
Nuôi vịt thả trong vƣờn, nó sẽ tìm trứng ốc sên ăn hết và tiêu diệt dần những
con ốc sên cắn phá. Tuy nhiên, biện pháp này chỉ thích hợp đối với vƣờn trồng cây
ăn trái lâu năm nhƣ: xoài, thanh long, chuối, nhãn
Dùng Muối: Đây là phƣơng pháp rất hữu hiệu, nhƣng nên suy nghĩ kỹ trƣớc
khi dùng. Thứ nhất là vì muối có thể làm chết hay gây ảnh hƣởng xấu đến các loại
cây, hoa và làm hại độ mầu mỡ của đất. Thứ hai là vì cách nầy rất tàn nhẫn, muối
sẽ khiến ốc sên / sên phải đau đớn quằn quại, sùi bọt trong một thời gian dài trƣớc
khi chết.
Dùng Beer: Đây là phƣơng pháp cũng rất hữu hiệu, ốc sên / sên sẽ chết sau
khi say trong beer : Ngƣời ta chôn một cái chén rộng miệng cạn đáy hay dùng nắp
các hũ rộng miệng đổ gần đầy beer ở mảnh đất nhiều ốc sên / sên. Mùi men bia sẽ
hấp dẫn khiến họ hàng nhà ốc rủ nhau bò vào “nhậu”. Sau đó ốc sẽ chết vì chất
alcohol. Theo kinh nghiệm thực tế, họ nhà ốc rất ƣa chuộng bia hiệu Budweiser,
Bud light, Coors light, Michelob và Old Milwaukee.
147
Hình 4.7. Dùng bia bẫy Ốc Sên
Dùng Men Bánh Mì: Mùi men tỏa ra cũng rất hấp dẫn họ nhà ốc.
Dùng mạt cƣa, vỏ trứng, sợi đồng, lá thông, vỏ thông cedar: Nếu biết chắc
chu vi quanh các gốc cây không có ốc sên / sên, có thể tạo hàng rào bằng cách rắc
mạt cƣa, vỏ trứng đập vụn, sợi đồng, lá thông, vỏ thông cedar, chung quanh gốc
cây cách một khoảng vừa phải. Họ nhà ốc sẽ không muốn vƣợt qua hàng rào vì
không muốn lớp da thịt bên dƣới bị đau. Có thể rắc thêm muối lên mặt hàng rào để
trừng trị những “anh hùng” ốc dám liều lĩnh vƣợt qua ranh giới đã bị cấm.
Dùng các vật dụng làm vƣờn bằng đồng: Họ nhà ốc rất sợ chất đồng. Dùng
các vật dụng làm vƣờn bằng đồng sẽ khiến đất có mùi đồng, giúp xua đuổi nhà ốc.
Có thể tƣới nƣớc có pha đồng (ngâm vật dụng đồng vào nƣớc khoảng 1, 2 ngày rồi
dùng nƣớc để tƣới) vì nghĩ giúp xua đƣợc nhà ốc.
Nuôi ếch nhái: Ốc là món ăn hấp dẫn với ếch nhái
Dùng Long Não (moth balls): Mùi long não sẽ xua đuổi ốc cũng nhƣ một số
loại khác. Có thể may những túi vải mỏng đựng long não đem để ở vƣờn.
Thƣờng xuyên vệ sinh vƣờn tƣợc: Hạn chế bớt chiều cao của cỏ dại bằng
cách cắt cỏ, chỉ để lại chiều cao từ 5-8cm. Cắt tỉa bơt những cành lá già rậm rạp vì
đây là nơi ốc sên dễ dàng trú ngụ phá hoại. Thu gom ốc vào sáng sớm và chiều tối.
Xử lý nếu lƣợng ốc sên nhiều, đập chúng chết và cho vào hũ sành đựng
nƣớc tiểu.
148
Để vài tháng, khi đã hoai, dùng nƣớc này pha với nƣớc lã làm phân tƣới cho
cây trồng rất tốt. Hoặc đem bằm nhỏ, nầu chín làm thức ăn cho nuôi heo, vịt, cá
nhằm tăng thêm thu nhập cho gia đình.
3.4.2. Đặt bẫy bắt ốc sên
Dùng Bẫy là phƣơng pháp bắt sống.
Dùng rau xanh hay cám đặt ở những vị trí có nhiều sên, nhớt để dẫn dụ
chúng ra rồi bắt chúng.
Đặt bẫy ốc sên bằng các mảnh ván, giấy báo nhúng nƣớc, vỏ dƣa, vỏ táo,
cành râm bụt có nhiều lá xanh (nhớ để cho héo), vỏ khóm, sơ mít để dụ chúng
đến ăn và bắt chúng. Cách khác là rắc vôi bột hoặc muối trên mặt đất để diệt ốc
sên và sên trần, nhƣng cần chú ý không đƣợc rắc trên chậu lan.
Quét mật ong loại tốt, còn mùi thơm. Chờ đến tối đặt hủ sành ra ngoài vƣờn, vị
ngọt thơm sẽ dẫn bọn ốc sên vào hủ, sáng hôm sau chỉ việc tiêu huỷ chúng.
Rải vôi bột trên mặt đất, trên kệ kê chậu, trên mặt chậu gần gốc cây, (khi hoa
bắt đầu xổ bao) và rải quanh vƣờn 2 đến 3 tháng 1 lần.
Để bảo vệ cành hoa, khi hoa sắp xổ bao, dùng một túm bông gòn cột chặt
quanh gốc cành hoa, có thể dùng một tờ giấy cứng quấn quanh gốc cành hoa thành
một cái phễu với phần đáy quay lên trên, dùng kim ghim tờ giấy cho chặt. Sên,
nhớt bò lên theo cành hoa và lọt vào đáy phễu, chúng không thể tìm đƣợc cách bò
qua thành phễu để lên phía trên nụ hoa.
Chôn những cái chai chứa petfood khô (loại thơm ngon sẽ hấp dẫn họ nhà ốc
nhiều hơn) nghiêng nghiêng. Miệng chai che phủ sao cho ốc ta chỉ có thể chui vào
mà không chui trở ngƣợc ra ngoài. Mùi petfood sẽ là mồi để dụ họ nhà ốc chui vào
bẫy. Sau đó chỉ cần lấy cái chai mang đi bỏ . Có thể thả ở nơi khác, có thể cho gà
vịt ăn, có thể đạp chết, có thể trấn trong nƣớc xà bông hay ajar, vv tùy theo ý
mỗi ngƣời.
3.4.3. Sử dụng thuốc BVTV diệt trừ ốc sên
Nếu tất cả các biện pháp thủ công đã đƣợc áp dụng, nhƣng ốc sên vẫn sinh
sôi phá hoại vƣờn lan của bạn thì biện pháp sau cùng phải dùng đến là thuốc
BVTV.
149
Dùng các loại hóa chất ở dạng lỏng hay dạng viên. Nhƣng cách này ngày
nay không còn đƣợc ƣa chuộng vì ngoài việc diệt trừ ốc sên / sên, các loại hóa chất
nầy còn làm ảnh hƣởng xấu đến môi trƣờng.
Để diệt trừ ốc, có thể dùng một số loại phân sau: Phun dung dịch Booc-đô
1% vào gốc cây, bẹ lá, nách lá, cuống phát hoa. Chú ý: không phun trực tiếp lên
hoa. Và chỉ nên dùng Booc-đô 1 lần / 1 tháng. Sử dụng các loại thuốc trừ sên,
nhớt nhƣ muối Arsenate, Methaldehyde... thƣờng đƣợc chế tạo thành viên bã độc.
Viên thuốc đƣợc đặt trên chậu gần chồi hoa. Sên, nhớt ăn phải sẽ chết trƣớc khi tấn
công cành hoa. Song cách này không đƣợc khuyến khích, do dùng bã mồi diệt ốc
bằng hoá học sẽ ảnh hƣởng đến sức khoẻ của con ngƣời và vật nuôi quanh nhà
Có thể dùng các loại thuốc dẫn dụ: Bolis ( 6G, 12G) ; Cửu Châu ( 6Gr, 12Gr
) và Pilot (10B, 15B ). Các loại thuốc này thƣờng đƣợc sử dụng dƣới hình thức là
rãi trên mặt đất, hoặc trộn với đất phân khi trồng cây.
3.4.4. Thời điểm trong ngày sử dụng các loại thuốc diệt ốc
Đối với thuốc rải, nên rải lúc chiều mát, hay sau cơn mƣa chiều, rải nhẹ trên
mặt chậu hoặc xung quanh cây trồng, tối ốc sên bò ra ăn phải bả mồi sẽ bị chết
hàng loạt.
Khi sử dụng bả mồi nên chia làm 2-3 đợt để tiêu diệt số lƣợng ốc còn lại. Ốc
sên sinh sản rất nhanh nên sau cơn mƣa phải đi kiểm tra nếu thấy ốc sên xuất hiện
trở lại thì rải thuốc tiếp tục.
150
NỘI DUNG GHI NHỚ BÀI 4
Ốc sên (còn gọi là ốc ma) và sên dẹp (sên không vỏ, có nơi gọi là sâu nhớt)
thuộc loài sống trên cạn. Đây là loài sống hoang dại, ban ngày chúng ẩn kín trong
các hốc, bụi cây hoặc chui xuống đất. Khi đêm xuống, chúng xuất hiện và phá hoại
cây cối, hoa màu; nhất là ăn phần non của cành, hoa, lá, mầm, trái thanh long. Đặc
biệt, chúng phát triển mạnh trong mùa mƣa và những vƣờng cây đƣợc tƣới nƣớc
thƣờng xuyên trong mùa nắng. Ốc sên thuộc họ (Achatinidae) có nhiều loại, phổ
biến là ốc sên hoa (Achatinafulica). là loài động vật thân mềm sống ở nhiều nơi
trên đất nƣớc ta. Ốc sên ăn thực vật mà món khoái khẩu của chúng là các đọt lá
non trong các họ cây lấy củ và rau màu.
Thức ăn ƣa thích của con ốc sên là những loại lá cây mềm nhƣ lá cây dâm
bụt, lá cây đu đủ, các mầm cây non. Nó cũng rất thích ăn các loại lá cây đã mục và
chất thải của động vật. Khứu giác của ốc sên rất nhạy bén. Nên những loại lá cây
nó thích ăn thƣờng là loại lá có mùi thơm, ví dụ nhƣ lá gừng, lá mùi tàu, lá rau cải.
Nó cũng rất thích ăn các loại quả. Bởi vì trong các loại quả có chứa nhiều nƣớc,
chất dinh dƣỡng, và cả mùi thơm. Những loại quả nó thích hơn cả là quả mít, quả
dứa, quả cà chua.
Ốc sên con vừa ra đời đã có thể tự kiếm ăn. Thức ăn chính của nó là rau cỏ,
rễ cây, mầm non, quả chín. Bởi vậy, nó là loài động vật gây hại cho mùa màng.
151
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Trình bày các biện pháp phòng chống Ốc sên ?
2. Trình bày đặc điểm hình thái và đặc điểm sinh trƣởng của Ốc sên ?
152
BÀI 5: NHỚT ( SÊN TRẦN) VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG
MÃ BÀI: MĐ 18 - 05
Giới thiệu: Sên trần là mối nguy hại của các nhà làm vƣờn; loài chân bụng nhỏ bé
này thƣờng lén lút trƣờn ra ngoài vào ban đêm, ăn lá và quả trên cây.
Mục tiêu của bài: Sau khi học xong bài này ngƣời học
- Trình bày đƣợc khái niệm và đặc điểm của nhớt.
- Quan sát đƣợc, nhận định đƣợc và đƣa đƣợc phƣơng hƣớng phòng chống nhớt
hại.
Nội dung
1. Vai trò, vị trí phân loại và đặc điểm hình thái
1.1 Lịch sử nghiên cứu, vị trí phân loại
Sên trần Agriolimax agrestis Lin. (Limax agrestis Lin.) còn gọi là sên, là loài
động vật thân mềm không vỏ thuộc lớp Chân bụng (Gastropoda), bộ Mắt đỉnh
(Stylommatophora), họ Sên trần Arionae
1.2. Tầm quan trọng và đặc điểm hình thái
Sên trần A. agrestis thân thể mềm, nhẵn bóng, không vỏ, có màu xám đậm
hoặc màu xanh đen. Con trƣởng thành cơ thể dài từ 40-50 mm, phần trƣớc cơ thể
có một đôi râu thịt, đầu râu có mắt.
Sên trần A. agrestis đực cái cùng cơ thể, có thể sinh sản theo kiểu đực cái dị
thể và cũng có thể sinh sản đực cái đồng cơ thể.
2. Đặc điểm sinh vật học và sinh thái học
2.1. Đặc điểm sinh trƣởng
Vòng đời của sên trần A. agrestis khoảng 250 ngày. Sên trần A. agrestis phát
triển tốt nhất ở điều kiện ẩm độ cao, nhiệt độ từ 15-25oC, hàm lƣợng nƣớc trong
đất từ 20-30%.
Nhiệt độ cao hơn 30oC không thích hợp cho sên phát triển. Sên ban ngày ẩn
nấp, tối mới ra hoạt động (khi hoàng hôn xuống sên bắt đầu bò ra khỏi chỗ trú ẩn
153
và hoạt động mạnh nhất từ 22 - 23 giờ, từ sau giữa đêm tới sáng sên hoạt động
giảm dần cho tới 6 giờ sáng hôm sau chúng tìm lại về chỗ ẩn nấp. Vào những ngày
trời mƣa, sên chui ra hoạt động cả ngày.
2.2. Đặc điểm sinh sản
Sên thƣờng đẻ trứng vào trong đất tại những nơi có độ ẩm cao, kín đáo.
Chúng đẻ mạnh nhất vào tháng 4, tháng 9 và tháng 10. Mỗi sên trƣởng thành có thể
đẻ tới vài trăm trứng.
2.3. Nơi ở và sự phân bố
Chúng thƣờng sống ở những nơi rậm rạp hoặc sống trong đất
2.4. Vai trò của yếu tố thức ăn
3. Đặc điểm phát sinh gây hại và biện pháp phòng chống
3.1. Triệu chứng tác hại
Gây hại các loại rau và các cây trồng nông nghiệp khác. Các cây non, mầm
non, lá non thƣờng bị gây hại nặng hơn. Sên trần gây hại để lại các lỗ thủng tròn
trên lá. Những chỗ sên trần bò qua thƣờng để lại một vạch chất nhớt.
Hình 5.1. Sên trần hại rau
154
3.2. Qui luật phát sinh phát triển và gây hại
Sên trần, có cơ thể thuôn dài, mềm mại, có màu nâu xám đến nâu đen,
thƣờng tiết ra chất nhờn bao quanh cơ thể và gây hại vào ban đêm trên đọt non,
bông và quả.
Hình 5.2. Sên nhớt hại cây
3.3. Biện pháp phòng chống
3.3.1. Dùng bẫy bia hoặc rượu đối với những cây quan trọng.
155
Hình 5.3. Dùng bia bẫy Sên trần
Sên trần sẽ chỉ chú ý những bẫy cách chúng khoảng 1 mét, vì vậy cách này
đƣợc dùng hiệu quả nhất đối với vƣờn nhỏ hoặc khu vực quan trọng. Đặt bẫy theo
hƣớng dẫn sau:
- Chôn một chiếc cốc cao với mặt dốc bên trong đất. Chừa lại 1 cm miệng
cốc, để ngăn bẫy loài bọ cánh cứng săn sên.
- Đổ bia hoặc sữa đến nửa cốc.
- Thay cốc vài ngày một lần. Nếu sên chui ra, thay bằng hỗn hợp mật ong,
men, và một ít nƣớc, đun sôi cho đến khi dính lại.
3.3.2. Nhử mồi sên trần bằng bẫy nhân đạo:
Sên trần tập trung ở nơi tối và ẩm ƣớt, nhƣ bên dƣới ván gỗ, chậu hoa, hay
hộp các tông. Đặt bẫy và kiểm tra mỗi ngày để tập trung và loại bỏ chúng ra xa nhà
của bạn. Để đạt kết quả tốt nhất, hãy dụ chúng bằng một trong những thức ăn cho
sên dƣới đây.
- Lá bắp cải
- Vỏ cam chanh đƣợc ngâm nƣớc
- Thức ăn khô cho thú cƣng
3.3.3. Đi săn sên vào ban đêm:
Dùng đèn pin và bao tay, xiên sên bằng que hoặc bỏ chúng vào xô nƣớc xà
phòng.Nếu có đèn đội đầu thì việc đi săn sẽ dễ dàng hơn.
- Kiểm tra bên dƣới lá.
- Lần theo các vết nhờn mà bạn thấy
3.3.4. Giữ vườn được khô:
Sẽ không thấy kết quả ngay, nhƣng giữ vƣờn luôn khô ráo là phƣơng pháp
tốt nhất để kiểm soát sên lâu dài. Dƣới đây là một số chiến lƣợc giúp làm cho
khu vƣờn của bạn kém thân thiện với những loài côn trùng thích ẩm ƣớt
- Tƣới cây vào giữa buổi sáng, vì vậy đất sẽ khô trƣớc khi trời tối.
- Lắp đặt hệ thống tƣới nhỏ giọt để hạn chế việc sử dụng nƣớc.
- Giữ sân không có mảnh vụn, và cắt cỏ thƣờng xuyên.
156
- Tránh dùng lớp phủ hữu cơ, nhƣ rơm hoặc cỏ đã cắt.
- Đặt khoảng cách giữa các cây đủ xa để không khí lƣu thông xung quanh.
3.3.5. Trồng loại cây ngăn chặn được sên trần:
Các loại cây cụ thể khiến sên trần tránh xa do vị, cấu trúc, hoặc chất độc của
cây. Trồng chúng thành hàng rào xung quanh toàn bộ khu vƣờn, hoặc trồng xen kẽ
với cây khác.
Những cây này không loại bỏ đƣợc 100%, nhƣng chúng sẽ ngăn đƣợc nhiều
sên mà không cần phải cố gắng bên cạnh những cây trồng ban đầu. Thử trồng
những giống cây sau:
- Thảo mộc: gừng, tỏi, rau thơm, bạc hà, và rau diếp xoăn.
- Rau: rau vị đắng thƣờng ít thu hút sên hơn rau vị ngọt. Thử trồng cải xoăn,
bắp cải mùa xuân, hoặc mầm bông cải xanh.
- Giống cây hosta có lá xanh dƣơng sẽ ngăn chặn tốt hơn.
- Hoa ƣa bóng hoàn toàn: Astilbe, Dicentra, Digitalis (mao địa
hoàng), Lobelia, Viola(một số hoa păng-xê và hoa violet). Còn
có Ranunculus (mao lƣơng) và Vinca, nhƣng chúng mọc rất nhanh.
- Hoa ƣa bóng một phần: Trúc đào, hoa chuông, hoa hiên. Cũng nhƣ bạc hà
Âu, nhƣng giống này mọc rất nhanh.
3.3.6. Dựng hàng rào bằng phương pháp dân gian.
Dƣới đây là những phƣơng pháp tại nhà hiệu quả nhất, nhƣng có thể không
ngăn chặn hết 100% sên trần:
- Bã cà phê có thể có ảnh hƣởng nhẹ đến sức khỏe khu vƣờn của bạn.
- Cát thô, sắc làm xƣớc sên trần, nhƣng có thể không ngăn chặn hoàn toàn.
- Tảo biển không hiệu quả bằng muối hột, nhƣng có lẽ an toàn hơn cho đất.
Nếu bạn tìm đƣợc thì thức ăn rong biển chứa canxi sẽ tốt hơn
3.3.7. Xem xét việc dùng hàng rào mạnh hơn (nhưng nguy hiểm hơn).
Có rất nhiều vật liệu có thể diệt sên trần khi tiếp xúc. Chúng có thể đƣợc
dùng làm hàng rào hiệu quả để ngăn sự di chuyển của sên, nhƣng chúng nên đƣợc
dùng cẩn thận và giữ khô ráo. Sử dụng không đúng có thể gây hại cho khu vƣờn
157
của bạn (thậm chí cho ngƣời và động vật sử dụng chúng). Hãy chắc rằng sử dụng
những nguyên liệu này ở bề mặt không có đất ngoại trừ những lƣu ý sau:
Cảnh báo an toàn: Không hít những chất này hoặc xử lý bằng tay không.
Chúng có thể không thích hợp cho khu vƣờn có trẻ em và thú cƣng chơi đùa.
Diatomit: Có thể gây hại cho các loài côn trùng có ích.
Tro gỗ: Tăng độ pH trong đất, đem lại hiệu quả cao.
Vôi tôi: Tăng độ pH trong đất rất nhiều. Có thể làm đất không trồng cây
đƣợc.
Phun 1% cafein: Phun trực tiếp lên cây bạn muốn bảo vệ; diệt sên khi chúng
ăn phải. Có thể ảnh hƣởng không tốt đến cây theo những cách không thể lƣờng
trƣớc đƣợc.
3.3.8. Các biện pháp khác
Vỏ trứng: Sên là loại thân mềm, vì vậy chúng không thích bò lên những vật
sắc nhọn nhƣ vỏ trứng (đã giẫm nát). Hãy rắc vỏ trứng xung quanh gốc cây của
bạn và lũ sên sẽ tránh xa chúng. Hơn nữa, khi phân hủy, vỏ trứng cũng cung cấp
thêm dinh dƣỡng cho cây.
Hình 5.4. Dùng vỏ trứng đuổi Sên trần
158
Giấy nhám: Cũng nhƣ vỏ trứng, giấy nhám với bề mặt thô ráp cũng khiến
cho sên tránh xa.
Rong biển: Rong biển không chỉ là một loại phân bón cực tốt cho đất mà còn
là thành phần đuổi sên tự nhiên. Phủ một lớp rong biển xung quanh gốc cây hoặc
luống rau. Rong biển mặn nên sên rất sợ. Tuy nhiên không nên để rong biển tiếp
xúc trực tiếp với gốc cây để tránh làm xót cây. Trong thời tiết nóng, khi rong biển
khô đi, nó cũng trở nên rất giòn sắc và khiến lũ sên tránh xa.
Trồng cây đồng hành: Một số loại cây có khả năng khiến sên tránh xa, ví dụ
nhƣ hƣơng thảo, thìa là, ngải cứu, hồi Trồng những loại cây này trong vƣờn,
hoặc cạnh những loại cây dễ bị sên phá hoại.
Bã cà phê: Bã cà phê có tác dụng đuổi sên và một số loại động vật gây
hại khác. Phủ một lớp bã cà phê dƣới gốc cây, vừa làm phân bón, vừa khiến sên
phải tránh xa.
Hình 5.5. Dùng bã cà phê đuổi Sên trần
Mồi tự nhiên: Một số loại thức ăn có thể làm mồi dụ sên vào bẫy, ví dụ nhƣ
lõi ngô, hoa quả (dù đã cũ hỏng), mật ong trộn với men rƣợu...
159
Muối: Muối sẽ giết chết sên . Nhƣng khi dùng phải cẩn thận, vì cây có thể
sẽ chết nếu rắc muối vào gốc cây. Nên rắc muối ở một khoảng cách xa.
Giấm: Xịt giấm vào sên để tiêu diệt chúng. Cần để ý xem cây của có phải là
loại ƣa axit không.
Đồ vật bằng đồng: Sên sẽ không bò qua các đồ vật bằng đồng. Vì đồng
tƣơng tác với nhớt của sên và tạo ra hiện tƣợng sốc điện nhỏ. Có thể uốn sợi dây
đồng thành vòng tròn bao quanh gốc cây, chú ý không để miếng đồng bị rỉ sét, vì
nó sẽ làm mất tác dụng tạo điện.
Amoniac: Dùng amoniac pha với nƣớc (dù mùi hơi bị khai) để xịt lên chỗ
bị sên gây hại.
Nuôi thiên địch: Chim, gà, cóc, ếch, một số loại bọ cánh cứng là kẻ thù của
sên.
Dùng cát: Cát có tác dụng ngăn sên bò lên, vì chúng không chịu nổi bề mặt
ráp. Nên phủ một lớp cát dày quanh gốc cây. Cát có thể ngăn ốc sên dù là cát khô
hay cát ƣớt, và lại rất dễ bổ sung khi bị hao hụt.
Vỏ cam, bƣởi: Vỏ của họ cam chanh rất hấp dẫn sên. Đặt một nửa quả
cam/bƣởi đã vắt ngửa lên trong vƣờn. Đêm hôm sau sẽ thấy có sên trong vỏ quả
cam, hãy quẳng chúng đi cho chúng không còn đƣờng trở lại.
Hình 5.5. Dùng vỏ cam đuổi Sên trần
160
NỘI DUNG GHI NHỚ BÀI 5
Gây hại các loại rau và các cây trồng nông nghiệp khác. Các cây non, mầm
non, lá non thƣờng bị gây hại nặng hơn. Sên trần gây hại để lại các lỗ thủng tròn
trên lá. Những chỗ sên trần bò qua thƣờng để lại một vạch chất nhớt.
Vòng đời của sên trần A. agrestis khoảng 250 ngày. Sên trần A. agrestis phát
triển tốt nhất ở điều kiện ẩm độ cao, nhiệt độ từ 15-25oC, hàm lƣợng nƣớc trong
đất từ 20-30%.
Nhiệt độ cao hơn 30oC không thích hợp cho sên phát triển. Sên ban ngày ẩn
nấp, tối mới ra hoạt động (khi hoàng hôn xuống sên bắt đầu bò ra khỏi chỗ trú ẩn
và hoạt động mạnh nhất từ 22 - 23 giờ, từ sau giữa đêm tới sáng sên hoạt động
giảm dần cho tới 6 giờ sáng hôm sau chúng tìm lại về chỗ ẩn nấp. Vào những ngày
trời mƣa, sên chui ra hoạt động cả ngày.
161
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Trình bày các biện pháp phòng chống Sên trần ?
2. Trình bày đặc điểm hình thái và đặc điểm sinh trƣởng của Sên trần ?
162
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thị Bình. Điều tra nghiên cứu sâu hại cam quýt ở tỉnh Hà Giang và biện
pháp phòng trừ. Luận án Tiến sỹ nông nghiệp, Viện Khoa học kỹ thuật Nông
nghiệp Việt Nam. Hà Nội.
2. Phạm văn Biên (chủ biên). Chuột hại lúa ở Việt Nam và phòng trừ tổng hợp.
NXB Nông nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, 63 trang. 1998.
3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Tuyển tập “Tiêu chuẩn nông nghiệp
Việt Nam”. Quyển I trang 153 - 157. 2001.
4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Danh mục thuốc bảo vệ thực vật được
phép, hạn chế và cấm sử dụng ở Việt Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.
2003.
5. Cục bảo vệ thực vật. Phương pháp điều tra phát hiện sâu bệnh hại cây trồng.
Nhà xuất bản Nông nghiệp. Hà Nội. 147 trang
6. Nguyễn Văn Cảm, Phạm Văn Lầm, Đinh Thị Thảo, Nguyễn Văn Liêm, Nguyễn
Hồng Yến, Trần Thị Hƣờng, Nguyễn Thị Hiền. “Nghiên cứu sử dụng dầu khoáng
trong phòng trừ tổng hợp sâu hại cây có múi ở nông trường Cao Phong tỉnh Hoà
Bình”. Tuyển tập công trình nghiên cứu BVTV, Viện BVTV 1996 - 2000, tr. 269 -
275
Các file đính kèm theo tài liệu này:
giao_trinh_mo_dun_bao_ve_thuc_vat_dong_vat_hai_cay_trong_va.pdf