Giáo trình Mô đun Bảo vệ thực vật - Động vật hại cây trồng và nông sản

Mồi tự nhiên: Một số loại thức ăn có thể làm mồi dụ sên vào bẫy, ví dụ nhƣ lõi ngô, hoa quả (dù đã cũ hỏng), mật ong trộn với men rƣợu.159 Muối: Muối sẽ giết chết sên . Nhƣng khi dùng phải cẩn thận, vì cây có thể sẽ chết nếu rắc muối vào gốc cây. Nên rắc muối ở một khoảng cách xa. Giấm: Xịt giấm vào sên để tiêu diệt chúng. Cần để ý xem cây của có phải là loại ƣa axit không. Đồ vật bằng đồng: Sên sẽ không bò qua các đồ vật bằng đồng. Vì đồng tƣơng tác với nhớt của sên và tạo ra hiện tƣợng sốc điện nhỏ. Có thể uốn sợi dây đồng thành vòng tròn bao quanh gốc cây, chú ý không để miếng đồng bị rỉ sét, vì nó sẽ làm mất tác dụng tạo điện. Amoniac: Dùng amoniac pha với nƣớc (dù mùi hơi bị khai) để xịt lên chỗ bị sên gây hại. Nuôi thiên địch: Chim, gà, cóc, ếch, một số loại bọ cánh cứng là kẻ thù của sên. Dùng cát: Cát có tác dụng ngăn sên bò lên, vì chúng không chịu nổi bề mặt ráp. Nên phủ một lớp cát dày quanh gốc cây. Cát có thể ngăn ốc sên dù là cát khô hay cát ƣớt, và lại rất dễ bổ sung khi bị hao hụt. Vỏ cam, bƣởi: Vỏ của họ cam chanh rất hấp dẫn sên. Đặt một nửa quả cam/bƣởi đã vắt ngửa lên trong vƣờn. Đêm hôm sau sẽ thấy có sên trong vỏ quả cam, hãy quẳng chúng đi cho chúng không còn đƣờng trở lại.

pdf162 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Mô đun Bảo vệ thực vật - Động vật hại cây trồng và nông sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tại địa phƣơng đƣợc gọi là "tegogolo" và đƣợc đánh giá nhƣ là một mặt hàng thực phẩm có chất lƣợng cao đƣợc ngƣời dân bản địa và khách du lịch ƣa chuộng, nhƣng loài OBV hiện nay ở Châu Á là loài khác có kính thƣớc nhỏ hơn và không có chất lƣợng thịt ốc tự nhiên nhƣ ở bản địa. Hình 3.1. Thu gom Ốc Bươu Vàng để xuất khầu. Ở phía Đông Bắc Thái Lan OBV đƣợc thu thập và tiêu thụ. Chúng đƣợc bắt bằng tay từ kênh rạch, đầm lầy, ao và ruộng lúa ngập nƣớc lúa trong mùa mƣa. Trong mùa khô khi các con OBV này đƣợc che dấu dƣới lớp bùn khô, dùng thuổng để cạo bùn để tìm thấy chúng. Những con OBV thƣờng đƣợc thu nhặt bởi phụ nữ và trẻ em. Sau khi thu thập, ốc đƣợc làm sạch luộc. Sau đó lấy ruột ốc ra khỏi vỏ và làm sạch trong nƣớc muối. Tiếp theo là xào, nấu hoặc bóp gỏi, sẽ có những món ăn từ OBV thay vì thịt cá còn thiết hụt. Lƣu ý, Ký sinh trùng trong ốc bƣơu vàng Ở Trung Quốc và Đông Nam Á, tiêu thụ OBV Pomacea canaliculata sống hoặc nấu chƣa đủ chín đã bị nhiểm ký sinh trùng Angiostrongylus cantonensis trong thịt OBV và gây ra chứng bệnh nhiễm trùng angiostrongyliasis ở ngƣời. 120 Ký sinh trùng này có thể lây nhiễm sang con ngƣời nếu con ốc sên đang ăn chƣa đƣợc nấu chín kỹ lƣỡng. Khoảng 1,0% OBV Pomacea canaliculata bán trên thị trƣờng địa phƣơng ở Thành phố Đại Lý, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc đã đƣợc tìm thấy bị nhiễm ký sinh trùng Angiostrongylus cantonensis trong năm 2009. Hình 3.2. Ốc Bươu Vàng làm thức ăn Sử dụng OBV như vật nuôi để làm cảnh và lấy thịt. Trong những năm 1980s, OBV Pomacea canaliculata đã đƣợc giới thiệu tới Đài Loan để bắt đầu một ngành công nghiệp thủy sản mới. Ngƣời Đài Loan nghĩ rằng loài thực phẩm mới này có thể cung cấp thêm nguồn đạm đang thiếu hụt trong dân do họ chủ yếu dùng gạo làm nguồn thực phẩm chính. Nhƣng OBV không cung cấp thêm nguồn đạm cho họ đƣợc bao nhiêu mà chúng đã tấn công ngay trên ruộng lúa của ngƣời nông dân Đài Loan làm cho họ thêm gian nan vất vả để phòng trừ loài dịch hại mới này. 121 Cũng từ con đƣờng vấp ngã đó của Đài Loan, sau đó tiếp theo là Philipines, Việ Nam và hàng loạt các nƣớc Đông Nam Á khác cũng rƣớc loài “ thủy quái” này về gây họa cho đất nƣớc mình. Không những chỉ ở những nƣớc Châu Á mê OBV trong những thập kỷ 1980s, 1990s mà ngay tại Hawai, một bang giữa Thái Bình Dƣơng của Mỹ cũng mang loài dịch hại mới này về gây hại cho loài cây môn nƣớc, vốn là loài cây trồng chính tại Bang đảo này. Hiện nay OBV đƣợc xem là 1 trong top 100 của "Thế giới của các loài xâm lấn tồi tệ nhất từ nƣớc ngoài". Sử dụng OBV như tác nhân kiểm soát sinh học Một số loài OBV chịu đựng đƣợc những loài ký sinh trung trùng và chúng có cơ chế nhƣ chung sống hòa bình với những loài OBV này. Trái lại những ký sinh trùng từ loài OBV có thể lây nhiểm và tiêu diệt các loài ốc địa phƣơng nhƣ đã đề cập ở trên. Qua phát hiện này các nhà khoa học đã táo bạo dùng OBV nhƣ tác nhân kiểm soát sinh học để diệt các loài ốc bản địa gây ra nhiều bệnh tật ở Châu Phi. Sự việc là tại Châu Phi có nhiều loài ốc trong Họ Planorbidae nhƣ loài ốc Bulinus và loài ốc Biophalaria tại địa phƣơng là vật chủ trung gian mang ký sinh trùng trematoda làm ô nhiểm hầu hết nguồn nƣớc mặt ở Châu Phi và chúng gây bệnh cho khoảng 200 triệu ngƣời Châu Phi khi họ tắm rửa, sinh hoạt và làm việc trong nguồn nƣớc đã bị ô nhiểm ký sinh trùng trầm trọng này. Để diệt đƣợc các loài ốc địa phƣơng đã mang mầm bệnh ký sinh trùng đã lây lan cho ngƣời bằng mọi biện pháp rất khó. Do đó ngành y tế cho nhập từ Nam Mỹ các loài OBV thuộc Chi Pomacea và Chi Marisa loài đã đƣợc nhập nội vào Châu Á và Châu Phi để thả vào môi trƣờng để loài ký sinh trùng trong OBV tiêu diệt các loài ốc địa phƣơng hoang dại ở Châu Phi từ đó làm giảm các loài ốc địa phƣơng mang mầm gây bệnh cho ngƣời, làm chặn đứng các dịch bệnh ký sinh trùng do các loài ốc địa phƣơng gây ra. Đây là một thành công trong kiểm soát sinh học và cũng là con dao hai lƣỡi thật nguy hiểm: Trƣớc mắt các loài ốc địa phƣơng ở Châu Phi sẽ bị tiêu diệt, làm 122 mất đi sự đa dạng sinh học và ngay những loài OBV cũng mang nguồn ký sinh gây bệnh cho ngƣời dù chúng chƣa gây bệnh truyền nhiểm hàng loại. Loài ốc chủ yếu dùng trong kiểm soát sinh học là loài OBV Marisa cornuarietis chứ không phải loài OBV Pomacea canaliculata ở Châu Á nhƣ hiện nay. Sử dụng OBV làm nguồn thức ăn chăn nuôi Ở Việt Nam, OBV đƣợc dùng làm thức ăn cho tôm, cá và gia súc và có thể chế biến thành nhiều món ăn ngon. OBV là nguồn thức ăn tự nhiên rẽ tiền đối với nghề nuôi vịt chạy đồng ở ĐBSCL. Vịt đẻ thả đồng ăn OBV có chất lƣợng trứng tốt hơn vịt đẻ nuôi nhốt cho thức ăn công nghiệp. (theo phản ảnh tù nông dân). Ốc đƣợc du nhập vào Việt Nam với ý tƣởng để nuôi làm thực phẩm và xuất khẩu vào khoảng năm 1988. Sau đó chúng thoát ra ngoài tự nhiên và gặp điều kiện sinh sống thích hợp nên đã phát triển thành loài động vật gây hại trầm trọng cho lúa ở hầu hết các tỉnh phía Nam. Có thể nói, hiện OBV vẫn là loài động vật gây hại bậc nhất đối với nền nông nghiệp Việt Nam do OBV sinh trƣởng chủ yếu vào vụ hè thu, đặc biệt là mùa nƣớc nổi. 2. Đặc điểm sinh vật học và sinh thái học 2.1. Đặc điểm sinh trƣởng 123 Hình 3.3. Vòng đời của Ốc Bươu Vàng Vòng đời: Trƣởng thành: 26-59 ngày, trứng: 7-14 ngày, ốc non: 15-25 ngày Trƣởng thành: màu vàng nâu, khi sống ở ao tù có màu nâu đậm. Ốc non: Vỏ rất mềm, hình cầu, màu vàng hoặc nâu đen. Ốc đực bé hơn ốc cái, hình cầu, nắp miệng vồng lên, vỏ miệng loe. Ốc cái hình bầu dục, nắp miệng lõm xuống, vỏ miệng thẳng Trứng: hình cầu hoặc ô van, dài 2-3 mm, màu hồng tƣơi đƣợc đẻ thành ổ trên thân lúa, cây cỏ, ven ruộng, mƣơng máng ...; mỗi ổ có 25-500 quả. Sắp nở chuyển sang màu hồng nhạt. Đợt nuôi Thời gian phát dục (ngày) Độ nhiệt ( 0 C) Trứng Ốc non Vòng đời 1 9,8 + 0,19 62,6 + 1,32 74,05 + 1,29 28,9 2 9,3 + 0,22 61,85 + 1,38 72,6 + 1,48 29,2 3 10,5 + 0,24 67,15 + 1,98 79,45 + 1,96 27,9 4 11,3 + 0,22 72,0 + 1,56 84,8 +1,50 27,1 TB 10,23 + 0,21 65,9 + 1,56 77,73 + 1,56 28,3 Bảng 4.1. Thời gian các pha phát triển của Ốc Bươu Vàng 2.2. Đặc điểm sinh sản OBV có sức đẻ trứng lớn, mỗi con cái đẻ đƣợc 10 - 13 ổ trứng (khoảng 1000 - 1200 trứng/tháng). Thời gian đẻ trứng kéo dài từ 70 - 90 ngày. Ốc non mới nở rơi từ ổ trứng xuống nƣớc, nổi lập lờ trên mặt nƣớc hoặc bám vào cành cây. Trong 2-3 ngày đầu không ăn, từ ngày thứ 4-5 trở đi bắt đầu ăn các chất nổi trên mặt nƣớc và động vật phù du. Lớn hơn ăn rong rêu, lá cây mềm. Ốc phàm ăn và lớn rất nhanh. Ốc bƣơu vàng có thể sống từ 2 - 6 năm. 124 2.3. Đặc điểm cấu tạo của Ốc Bƣơu Vàng 2.3.1. Đặc điểm bên ngoài Hình 3.4. Cấu tạo ngoài của Ốc Bươu Vàng 1. Đỉnh vỏ; 2. Vòng xoắn, 3. Nắp miệng, 4. Vành miệng, 8. Rãnh xoắn, 10. Trục Ốc, 1- 5 Chiều cao, 7 - 9 Chiều rộng. Vỏ Ốc cuốn quanh một trục tạo thành trục ốc. Trên vỏ có đỉnh vỏ là nơi hình thành các xoắn đầu tiên, thƣờng khó phân biệt đƣoợc bằng mắt thƣờng. Vòng xoắn có 5 - 6 vòng bắt đầu từ đỉnh vỏ đến cuối cùng là lỗ miệng nơi phình to nhất. Giữa các vòng xoắn là rảnh xoắn, những rảnh xoắn của OBV thƣờng sâu hơn rảnh xoắn của ốc khác. Miệng vỏ có nắp hình bầu dục có tâm lệch Con đực bé hơn con cái và có thể phân biệt nhờ 3 đặc điểm sau: Ốc đực Ốc cái Ngoại hình Hình cầu Hình bầu dục Nắp miệng Vồng lên Lõm xuống Miệng Vỏ loe Thẳng Kích cỡ cơ thể 29,0 × 20,0 mm 34,0 × 23,0 mm 125 2.3.2. Đặc điểm cấu tạo của các cơ quan bên trong Cơ quan tiêu hoá: Bên ngoài cùng là cơ quan miệng có răng kitin ở hai bên, giữa là lƣỡi gai. Răng kitin và lƣỡi gai khi hoạt động giống nhƣ cấu tạo cắt xén. Cơ quan hô hấp: OBV thở bằng mang và bằng phổi. Đây là điểm khác biệt lớn với các nhóm khác. Khi ở trong nƣớc chúng dùng ống xi phông nhƣ ống thở của thợ lặn lấy không khí vào để hô hấp . Phổi thông với ống xi phông hút ở bên trái. Còn các dãy lá mang thông với xi phông thoát khí ở bên phải. Do vậy, chúng có thể sống bình thƣờng ở môi trƣờng bẩn hoặc thiếu ôxy nhƣ trong ao tù hoặc mật độ nuôi rất cao hay nhƣ sống ở trên cạn trong điều kiện ẩm ƣớt một vài ngày. Có ống xi phông và mang là ƣu thế của OBV, nhờ đó chúng có thể sống cả ở trên cạn trong khoảng thời gian nhất định và khi ở dƣới nƣớc, ngay cả khi nguồn ôxy rất thấp trong nƣớc. Cơ quan sinh dục của con cái có thể nhìn thấy ổ trứng màu đỏ tƣơi từ bên ngoài lớp vỏ mỏng, còn của con đực là tuyến tinh màu trắng và cơ quan giao phối hình lòng máng có rãnh dẫn tinh. 126 Hình 3.5. Đặc điểm bên trong của Ốc Bươu Vàng Hình 3.6. Xi phông của OBV (Theo Ghesquiere) Trứng: hình cầu hoặc hình ô van, dài 2 - 3 mm, màu hồng tƣơi, đƣợc đẻ thành ổ, mỗi ổ có 25 - 500 quả. Lúc mới đẻ trứng dính vào nhau không thể tách từng quả một nhƣng đến khi sắp nở màu sắc quả trứng chuyển sang màu trắng nhờ, lúc này có thể tách riêng từng quả một do chất nhầy kết dính hết tác dụng. 127 Hình 3.6. Trứng Ốc Bươu Vàng 2.4. Nơi ở và sự phân bố Ốc sống đƣợc trong điều kiện khắc nghiệt, gặp khô hạn chúng chui sâu vào bùn khô và sống trong đó tới 6 tháng; nhiệt độ 38oC ốc vẫn sống và sinh sản đƣợc. Ở nƣớc ta, căn cứ vào mức độ gây hại, có thể chia ra 3 vùng phân bố của ốc bƣơu vàng nhƣ sau: Vùng thƣờng xuyên có nguy cơ gây hại nặng: Là các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, nơi lúa sạ là chủ yếu, nguồn OBV lại rất phong phú do thảm thực vật hoang dại nhiều tại các đầm, kênh rạch, rừng ngập tự nhiên và nguồn ốc trôi dạt sau các đợt lũ. Vùng có nguy cơ gây hại nặng nhƣng không thƣờng xuyên: Chủ yếu là các tỉnh miền Trung, Lạng Sơn, Điện Biên, nơi canh tác lúa gieo thẳng hoặc cấy mạ non là chính. Dịch OBV phụ thuộc vào chế độ tƣới nƣớc và nguồn xâm nhập từ bên ngoài. Vùng ít có nguy cơ bị gây hại: là các tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng và trung du miền núi phía Bắc. Tuy nhiên nếu cấy mạ non hoặc gieo thẳng, mức độ gây hại của OBV sẽ vẫn cao (Nguyễn Trƣờng Thành và CTV, 2004). Nghiên cứu của Nguyễn Trƣờng Thành và CTV (2004) cho biết ngƣỡng phòng trừ OBV đƣờng kính 3 cm cho mạ 10 ngày tuổi là 0,65 con/m2. 2.5. Yếu tố thức ăn Ốc bƣơu vàng ăn tạp và có khả năng ăn thực vật xanh. Thức ăn của chúng là phiêu sinh vật trôi nổi trên mặt nƣớc, rong tảo trong nƣớc và sinh vật đáy gồm động vật nhỏ và chất hữu cơ. Chế độ ăn tùy theo tuổi. Ốc con thƣờng ăn rong tảo và các mảnh vụn, khi có kích thƣớng khoảng 15 cm chúng bắt đầu ăn đƣợc thực vật. Chúng ăn đƣợc xác động vật thối rữa, côn trùng và giun tròn khi chúng bắt đƣợc trên mặt đất và trong nƣớc. Do ăn đƣợc thực vật nên chúng là lài dịch hại trên cây lúa, sen, súng và môn nƣớc. 128 3. Đặc điểm phát sinh gây hại và biện pháp phòng chống 3.1. Triệu chứng tác hại Ốc bƣơu vàng ăn khỏe, ăn tạp. Giai đoạn mạ non là thức ăn ƣa thích của chúng nhƣng đến khi lúa già chúng ăn rất ít. Khi ăn, chúng cắn đứt gốc cây mạ hay lúa non rồi lấy miệng nhai thân hoặc lá non, làm trụi cả đám mạ hay lúa non. Ốc càng lớn tác hại càng mạnh; khi ốc 4 - 5 cm (bằng quả bóng bàn) một ngày có thể ăn hại 11-14 dảnh lúa. Đối với lúa gieo sạ: 7 cặp ốc có thể ăn hết 1 m2 lúa trong 5 ngày. Hình 3.7. Ốc Bươu Vàng hại Lúa 1 3.2. Qui luật phát sinh phát triển và gây hại 3.2.1. Con trưởng thành Loài này, không giống nhƣ hầu hết các ốc khác có có kiểu sinh sản lƣỡng tính, nó có con đực và con cái phân biệt rõ ràng. 129 Khi OBV qua 45-50 thì đến giai đoạn trƣởng thành và có khả năng giao phối và con cái đẻ trứng đƣợc. Khi đó chúng đạt kích thƣớc khoảng 2 cm trở lên. Sau khi giao phối con cái lƣu giữ lại tinh trùng của con đực, chỉ một lần giao phối sau đó con cái đẻ nhiều lần với những ổ trứng có thời gian cách xa nhƣng trứng vẩn đƣợc thụ tinh bình thƣờng. Trong môi trƣờng sống ở những vùng mới du nhập, OBV đực và cái có thể giao phối với ốc bƣơu địa phƣơng nhƣng chƣa đƣợc chứng minh khoa học là có dạng con lai. Bởi vì OBV còn khác xa với các loài ốc bƣơu địa phƣơng về mặt di truyền. Điểm khác biệt về cấu trúc cơ thể điển hình là: OBV vừa có mang vừa có phổi, trong khi đó ốc bƣơu địa phƣơng sống dƣới nƣớc chỉ có mang mà thôi. 3.2.2. Trứng Do giàu carotenoid nên vỏ trứng có màu đỏ đậm hơi tím. Các trứng gắn với nhau thành khối và ổ trứng đƣợc đẻ trên các giá thể cách mặt nƣớc 20-80 cm, kích thƣớc mỗi quả trứng từ 0,5-1 mm. Hình dạng của ổ trứng thay đổi tùy vào địa thế nơi đẻ. Một ổ trứng của OBV có từ 200-600 trứng. Nơi con cái chọn đặt ổ trứng luôn luôn khi nở ốc con rơi ngay vào mặt nƣớc, không có những ổ trứng mà đƣờng thẳng đứng của nó để rơi vào đất cạn. Trứng nở sau khi đẻ 10-20 ngày thì nở, tỷ lệ nở rất cao. Có lẽ ổ trứng OBV đƣợc tẩm hóa chất bảo vệ nên ít bị côn trùng, chim và ngay cả vịt đẻ cũng không muốn ăn ổ trứng ốc dù chúng rất bổ dƣỡng và có mà sắc hấp dẫn. 3.2.3. Ấu trùng Giai đoạn ấu trùng (ốc con) của OBV khoảng 45-50 ngày. Trong giai đoạn này chúng ăn phiêu sinh vật trôi nổi trong nƣớc và sinh vật đáy ở mặt đất, chƣa có khả năng ăn đƣợc các loại thực vật bậc cao. Ấu trùng OBV di chuyển chủ yếu nhờ vào dòng chảy của mặt nƣớc. Qua giai đoạn ấu trùng OBV bắt đầu gây hại thực vật thủy sing sống trong nƣớc và cây lúa (mầm, mạ non và chồi non). Tuổi thọ của OBV là 3-4 năm. Trƣởng thành sinh sản đạt đƣợc trong 3 tháng đến 2 năm, tùy thuộc vào chế độ nhiệt độ môi trƣờng xung quanh. 130 3.3. Biện pháp phòng chống 3.3.1. Bắt bằng tay Đây là biện pháp rất phổ biến. Tại nhiều vùng ngƣời ta thu gom làm thức ăn cho ngƣời hoặc nghiền làm thức ăn cho cá. Hình 3.8. Bắt Ốc Bươu Vàng bằng tay 3.3.2. Sử dụng thuốc hoá học Hình 3.8. Nông dân xã Danh Thắng (Hiệp Hòa- Bắc Giang) phun thuốc trừ ốc bươu vàng ( Theo Sở KH - CN Bắc Giang 131 Một số loại thuốc thƣờ ng đƣợc sử dụng là Endosulfan, Sulphát đồng, Metaldehyde, Padan... Các loại thuốc hoá học có hạn chế lớ n nhất là rất độc đối với cá và động vật thuỷ sinh (Endosulfan) và đắt tiền (Metaldehyde). Vì vậy khi sử dụng phải đƣợc cân nhắc kỹ lƣỡng. Mới đây, Viện Bảo vệ thực vật đã nghiên cứu thành công 2 loại thuốc thảo mộc tr ừ OBV có triể n vọng tốt là CE-02 (10 kg/ha) và CH-01 (15 lít/ha), có thể diệt trừ 79,2 - 85,4% OBV trong khi không ảnh hƣởng đến cá (Nguyễn Trƣờng Thành và CTV, 2004). 3.3.3. Những giải pháp sinh học trong kiểm soát OBV Giải pháp thả Ba ba trơn để bảo vệ lúa hoang ở Trung Quốc Lúa hoang, Zizania latifolia Turcz, còn gọi là cây Niễng đƣợc sử dụng để làm một trong các loại rau thủy sản quan trọng đƣợc trồng khai thác phần chồi ngầm để làm rau và đƣợc liệu. Gần đây, OBV Pomacea canaliculata (Lamarck) đã đƣợc tìm thấy là một dịch hại tấn công xâm nhập lớn vào cây Z. latifolia. Do loài này là cây trồng trầm thủy lƣu niên nên rất khó bảo vệ thiệt hại do OBV, hơn nữ đây là loài rau sạch và là cây thuốc nên không cho phép dùng thuốc hóa học để diệt ốc. Để kiểm soát có hiệu quả với OBV trong môi trƣờng này các nhà khoa học Trung Quốc đã thả loài Ba ba trơn vỏ mềm Trung Quốc (Pelodiscus sinensis) vào ruộng lúa hoang để kiểm soát OBV. Cách làm là thả 30-50 con Ba ba vừa mới lớn vào ruộng lúa . Kết quả cho thấy chúng kiểm soát OBV non rất tốt, đƣợc nông dân chấp nhận là giải pháp có hiệu quả và rẽ tiền vì loài Ba ba này rất háo ăn OBV con và chỉ cần tốn tiền làm rào kẽm chung quanh khu vực cần bảo vệ 1 lần có thể bảo vệ loài cây quí hiếm này trong nhiều vụ. Các nhà khoa học ghi nhận rằng Ba ba nhỏ diệt OBV nhỏ và Ba ba già diệt cả OBV trƣởng thành rất có hiệu quả. Bên cạnh thả Ba ba, các nhà khoa học còn thử nghiệm thả cá chép thƣờng (Cyprinuscarpio) để kiểm soát OBV trong các ao trồng sen cũng rất có hiệu quả. 132 Hành vi này cho ăn cũng đƣợc tìm thấy trong cá chép thƣờng Cyprinuscarpio (Teo, 2006). Có thể kết luận rằng P. sinensis là một trong những hy vọng hầu hết các tác nhân sinh học cho GAS bởi vì họ không chỉ mồi ốc trẻ, mà còn tấn công những ngƣời trƣởng thành một cách hiệu quả. 3.3.4. Phòng trừ tổng hợp Ốc Bươu Vàng Hình 3.10. Chăn thả Vịt để bắt Ốc Bươu Vàng Hình 3.11. Làm rảnh thu Ốc bươu vàng 133 Hình 3.12. Làm phên ngăn và cắm cọc bắt trứng Ốc Bươu Vàng 3.3.4.1. Biện pháp thủ công. Dùng lưới chắn ốc: Nên dùng lƣới nilon có lỗ nhỏ che chắn kỹ những chỗ có đƣờng nƣớc chảy tự nhiên từ ngoài kênh vào ruộng hoặc những vị trí bơm nƣớc vào ruộng để ngăn chặn ốc từ kênh mƣơng vào ruộng lúa. Thu gom ốc và ổ trứng thường xuyên: Để hạn chế số lƣợng ốc ở đầu vụ, bà con cần tổ chức thu gom ốc và ổ trứng trên đồng ruộng, xung quanh các ao hồ, kênh rạch nội đồng trƣớc khi cấy hoặc gieo sạ lúa. Cắm cọc nhử ốc đến đẻ trứng: Dùng cây, que cắm ở những chỗ có nhiều ốc tập trung, “dụ” cho ốc leo lên đẻ rồi thu gom trứng để tiêu huỷ; Kết hợp với việc thƣờng xuyên thu gom trứng trên bờ cỏ và trên thân cây lúa định kỳ khoảng 5-7 ngày/1lần trƣớc khi trứng kịp nở ra ốc con rơi xuống nƣớc phát tán gây hại. 3.3.4.2. Biện pháp canh tác: Bà con nên gieo cấy lúa theo băng, mỗi băng rộng khoảng 2m, giữa 2 băng để một đƣờng canh tác (rãnh) rộng 25cm. Đƣờng canh tác sẽ là lối đi trong quá trình chăm sóc, bón phân, phun thuốc phòng trừ sâu bệnh cho ruộng lúa. Mặt khác, tại các đƣờng canh tác bà con có thể đặt các mồi nhử nhằm thu hút OBV đến ăn 134 giúp cho việc thu bắt chúng sẽ dễ dàng và đỡ tốn kém hơn. Có thể sử dụng các loại lá mà OBV ƣa thích nhƣ lá chuối tƣơi, lá đu đủ, khoai lang, rau muống, Điều tiết chế độ nƣớc bằng cách rút nƣớc định kỳ, giữ mực nƣớc thấp 2 - 3 cm sau khi cấy nhằm hạn chế ốc di chuyển, phá hại. Có thể thả vịt nhỏ vào ruộng lúa ăn ốc non và trứng ốc khi lúa giai đoạn đẻ nhánh, thu lƣợm ốc bƣơu vàng trƣởng thành để làm thức ăn cho cá, vịt.... 3.3.4.3. Biện pháp hóa học: Những ruộng có mật độ ốc cao, gây hại nhiều, bà con có thể sử dụng thuốc hóa học đƣợc khuyến cáo phòng trừ ốc của ngành BVTV, trên địa bàn tỉnh có thể tham khảo 1 số loại thuốc sau: BAYKIDE 70WP, VINICLO 70WP, MILAX 100GB, pha phun hoặc rắc theo hƣớng dẫn trên bao bì vào giai đoạn ngay sau khi gieo cấy. Lƣu ý: Khi rải hoặc phun thuốc trừ ốc, mực nƣớc ruộng phải đạt mức 3 - 5 cm và phải giữ mực nƣớc này khoảng 4 - 5 ngày để hiệu quả diệt ốc đạt cao nhất; Có thể trộn thuốc với phân hay cát để rải đều trên bề mặt ruộng. 135 NỘI DUNG GHI NHỚ BÀI 3 Vòng đời: Trƣởng thành: 26-59 ngày, trứng: 7-14 ngày, ốc non: 15-25 ngày Trƣởng thành: màu vàng nâu, khi sống ở ao tù có màu nâu đậm. Ốc non: Vỏ rất mềm, hình cầu, màu vàng hoặc nâu đen. Ốc đực bé hơn ốc cái, hình cầu, nắp miệng vồng lên, vỏ miệng loe. Ốc cái hình bầu dục, nắp miệng lõm xuống, vỏ miệng thẳng. Trứng: Hình cầu hoặc hình ô van, dài 2 - 3 mm, màu hồng tƣơi, đƣợc đẻ thành ổ, mỗi ổ có 25 - 500 quả. Lúc mới đẻ trứng dính vào nhau không thể tách từng quả một nhƣng đến khi sắp nở màu sắc quả trứng chuyển sang màu trắng nhờ, lúc này có thể tách riêng từng quả một do chất nhầy kết dính hết tác dụng. Ốc bƣơu vàng ăn khỏe, ăn tạp. Giai đoạn mạ non là thức ăn ƣa thích của chúng nhƣng đến khi lúa già chúng ăn rất ít. Khi ăn, chúng cắn đứt gốc cây mạ hay lúa non rồi lấy miệng nhai thân hoặc lá non, làm trụi cả đám mạ hay lúa non. Ốc càng lớn tác hại càng mạnh; khi ốc 4 - 5 cm (bằng quả bóng bàn) một ngày có thể ăn hại 11-14 dảnh lúa. 136 CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Trình bày đặc điểm sinh trƣởng và đặc điểm sinh sản của Ốc Bƣơu Vàng ? 2. Trình bày biện phòng trừ tổng hợp Ốc Bƣơu Vàng ? 3. Trình bày đặc điểm phát sinh gây hại của Ốc Bƣơu Vàng ? 137 BÀI 4: ỐC SÊN VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG MÃ BÀI: MĐ 18 - 04 Giới thiệu: Ốc sên (còn gọi là ốc ma) và sên dẹp (sên không vỏ, có nơi gọi là sâu nhớt) thuộc loài sống trên cạn. Đây là loài sống hoang dại, ban ngày chúng ẩn kín trong các hốc, bụi cây hoặc chui xuống đất. Khi đêm xuống, chúng xuất hiện và phá hoại cây cối, hoa màu; nhất là ăn phần non của cành, hoa, lá, mầm, trái thanh long. Đặc biệt, chúng phát triển mạnh trong mùa mƣa và những vƣờng cây đƣợc tƣới nƣớc thƣờng xuyên trong mùa nắng. Ốc sên thuộc họ (Achatinidae) có nhiều loại, phổ biến là ốc sên hoa (Achatinafulica). là loài động vật thân mềm sống ở nhiều nơi trên đất nƣớc ta. Ốc sên ăn thực vật mà món khoái khẩu của chúng là các đọt lá non trong các họ cây lấy củ và rau màu. Mục tiêu của bài: Sau khi học xong bài này ngƣời học - Trình bày đƣợc khái niệm và đặc điểm ốc sên hại. - Quan sát đƣợc, nhận định đƣợc và đƣa đƣợc phƣơng hƣớng phòng chống ốc sên hại. Nội dung 1. Vai trò, vị trí phân loại và đặc điểm hình thái 1.1. Lịch sử nghiên cứu, vị trí phân loại Ốc sên hay ốc sên hoa (danh pháp khoa học: Achatina fulica) Là loài động vật thân mềm sống trên cạn, thuộc họ Achatinidae. 1.2. Tầm quan trọng và đặc điểm hình thái Tại Việt nam ốc sên bị coi là loại sâu bọ gây hại cho hoa màu và cây trồng, ngƣời dân không ăn ốc sên mà còn giết bỏ chúng. Theo nghiên cứu của các nhà sinh học ốc sên có giá trị dinh dƣỡng rất cao, Ốc sên màu vàng-nâu châu Á thịt chứa chất đạm (protein) cơ thể con ngƣời dễ hấp thụ, ít chất béo (phần lớn không no) ngoài ra còn có một chút magiê, canxin, kali và kẽm. Nhu cầu hằng năm về thịt ốc sên toàn cầu là 400.000 T, Mỹ mỗi năm phải nhập 3,1 tỷ USD. Thế giới mỗi năm tiêu thụ 400.000 tấn ốc sên. Pháp vẫn là nƣớc 138 tiệu thụ nhiều nhất, chỉ riêng ở Paris, mỗi ngày ăn hết 210T ốc sên. Pháp hằng năm phải nhập từ 50.000 – 60.000 tấn ốc thịt, trong đó có 80% đƣợc nhập từ hơn 30 nƣớc. Pháp, Anh, Ý, Tây ban Nha, Ban Lan, Hungary là những nƣớc châu Âu có truyền thống nuôi ốc sên lâu đời. Bƣớc sang đầu thiên niên kỷ, sau khi gia nhập EU, Ba Lan và Hungary đã nhanh chóng công nghiệp hóa, sản lƣợng ốc sên giảm mạnh, Bulgaria đã nhân cô hội trỗi dậy trở thành cƣờng quốc xuất khẩu ốc sên, chủ yếu sang Pháp. Hằng năm, nƣớc này đã xuất 800 - 900 tấn ốc sên và sản phẩm từ ốc sên, tuy chƣa nhiều, nhƣng đã nhanh chóng thay đổi bộ mặt lạc hậu ở nông thôn. Hình 4.1. Nuôi Ốc Sên làm thức ăn Bulgaria cũng đang bắt đầu xuất khẩu một loại ốc sên mới -- ốc sên ăn cà rốt, chủng đột biến từ ốc sên Địa Trung Hải. Những con ốc này trông rất lạ mắt vì nó màu vàng cam chúng có giá tới 80 euro/kg. Ở châu Á, Đài Loan vào những năm 60 của thế kỷ trƣớc, đã phát triển mạnh nghề nuôi ốc sên, sản lƣợng gấp 10 lần Trung Quốc và bỏ xa nƣớc nuôi truyền thống Indonesia. Năm 1985, nhờ phát hiện dạng đột biến của ốc sên mã não-- ốc sên bạch ngọc, Trung Quốc đã vƣơn lên 139 thành nƣớc xuất khẩu thịt ốc sên lớn nhất thế giới. chủ yếu xuất sang thị trƣờng Hoa Kỳ. Dù ngành nông nghiệp ở Bulgaria và châu Âu đã suy giảm trong 20 năm qua nhƣng nghề nuôi ốc sên - cung cấp một món ăn đặc biệt phổ biến ở Pháp và Italy, đã trở thành một nghề phát triển năng động tại đất nƣớc nghèo nhất Liên minh châu Âu (EU) này. Ốc sên đƣợc nuôi theo mô hình khép kín đảm bảo nguồn giống và thức ăn sạch. Các mặt hàng xuất bán chủ yếu là thịt ốc sên làm sạch đã đƣợc hấp chín. Sản phẩm đã đƣợc chứng nhận đủ điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm của chi cục an toàn thực phẩm trực thuộc sở y tế chi cục an toàn vệ sinh thực phẩm TP Hồ Chí Minh. Đặc điểm hình thái: Ốc sên có hai bộ phận chính: Phần mềm và phần vỏ. Cấu tạo phần thân mềm giống nhƣ phần lớn các loài chân bụng khác. Phần vỏ (từ vài mm đến vài dm). Khác với các loài thân mềm khác nhƣ chân đầu (vỏ trong phân khoang), vỏ ốc chỉ có một van duy nhất không phân khoang. Các loài ốc vỏ xoắn khi trƣởng thành, dạng xoắn thƣờng, nón hoặc ống trụ(còn có các loài ốc không có vỏ hoặc vỏ rất nhỏ, ví dụ ốc sên trần). Đặc điểm chung là có vỏ cứng bằng đá vôi, tạo thành ống rỗng, cuộn vòng quanh trục chính thành các vòng xoắn, thƣờng theo chiều thuận với chiều kim đồng hồ. Ở vòng xoáy cuối cùng, thƣờng có một chiếc nắp nhỏ (nơi ra vào của con vật). Điểm xuất phát của vòng xoáy, đƣợc gọi là đỉnh (hoặc rốn) cũng là điểm bắt đầu của những đƣờng vân trên vỏ ốc. Có hai loại vân: vân ngang và vân dọc. 140 2. Đặc điểm sinh vật học và sinh thái học Hình 4.2. Đặc điểm của Ốc Sên l. Miệng; 2. Hạch miệng; 3. Hạch chân; 4. Lỗ sinh dục; 5. Penis; 6. Âm đạo; 7. Túi gai giao phối; 8. Hậu môn; 9. Tuyến nhầy; 10. Chân; ll. Ống dẫn trứng; 12. Ống dẫn tinh; 13. Ruột; 14. Túi nhận tinh; 15. Tuyến albumin; 16. Ống dẫn lưỡng tính; 17. Tuyến tiêu hóa; 18. Tuyến lưỡng tính; 19. Thận; 20. Khoang bao tim; 21. Tâm thất; 22. Tâm nhĩ; 23. Tĩnh mạch phổi; 24. Khoang áo; 25. Tuyến nước bọt; 26. Diều; 27. Hạch não; 28. Mắt; 29. Tua đầu; 30. Ống dẫn tuyến nước bọt; 31. Lỗ thở; 32. Bờ vạt áo; 33. Vỏ 2.1. Đặc điểm sinh trƣởng 141 Đặc điểm hình thái: Cả ốc sên và nhớt đều giống nhau về cấu trúc và sinh học, ngoài trừ ốc sên có vỏ bên ngoài. Ốc sên và nhớt vận chuyển bằng hệ cơ ( hình 4.2). Sên nhớt đều hoạt động về đêm, gần sáng. Con trƣởng thành ốc sên đẻ trứng bao bởi bọng, trứng màu trắng ngọc tập trung trên mặt đất. Hình 4.3. Ốc Sên 2.2. Đặc điểm sinh sản Ốc sên là loài lƣỡng tính, mang đồng thời cơ quan sinh dục cái và đực trên cơ thể. Khi giao phối, hai ốc tiến lại gần nhau, cơ quan giao phối thụ tinh chéo cho nhau, sau cuộc giao hoan cả hai đều mang thai. Trứng thƣờng đƣợc ốc đẻ ra ở những nơi ẩm ƣớt. Sau khi đẻ trứng, ốc bỏ đi và không hề chăm sóc. Sau 10 – 30 ngày tuỳ loài thì ốc con nở ra và chúng liền ăn ngay những cái trứng không đƣợc nở gần đó, điều này đƣợc các nhà khoa học giải thích nhƣ là một 142 biện pháp bổ sung canxi giúp cho cái vỏ mềm non nớt của ốc con nhanh chóng cứng cáp để chống lại kẻ thù. Đa số các loài ốc đều đẻ trứng, nhƣng ở một vài loài những con ốc mới sinh đƣợc sinh ra dƣới dạng con. Ốc và ốc sên thƣờng để lại sau mình những vệt ƣớt lấp lánh. Điều này cho phép chúng dạo chơi đƣợc và giữ nguyên đƣợc độ ẩm. Vào mùa đông chất nhớt này khô đi bịt kín vỏ ốc lại. Ốc thƣờng ngủ đông ở những khe nứt hay những ao đầm. Hình 4.4. Ốc Sên đẻ trứng Hình 4.4. Ốc Sên giao phối 143 2.3. Nơi ở và sự phân bố Ốc sên thƣờng sống ở những nơi ẩm ƣớt. Vào mùa hè nóng bức, nó co mình trong vỏ để tránh nóng và ngủ. Khi đó, nó tiết ra một chất dính, bịt kín miệng ốc. Đến mùa thu mát mẻ, chúng thức dậy, kiếm ăn. Cuối thu se lạnh, nó bắt đầu dọn nhà đến khe đá, ngách tƣờng, vùi mình trong đất, cũng lại tiết ra chất dính đóng kín cửa nhà, chống lại thời tiết giá lạnh và ngủ đông đến tháng 2. Ốc sên nhịn đói rất giỏi. Thí nghiệm cho thấy, nó có thể nhịn đói 4 năm mà vẫn sống. 2.4. Vai trò của yếu tố thức ăn Thức ăn ƣa thích của con ốc sên là những loại lá cây mềm nhƣ lá cây dâm bụt, lá cây đu đủ, các mầm cây non. Nó cũng rất thích ăn các loại lá cây đã mục và chất thải của động vật. Khứu giác của ốc sên rất nhạy bén. Nên những loại lá cây nó thích ăn thƣờng là loại lá có mùi thơm, ví dụ nhƣ lá gừng, lá mùi tàu, lá rau cải. Nó cũng rất thích ăn các loại quả. Bởi vì trong các loại quả có chứa nhiều nƣớc, chất dinh dƣỡng, và cả mùi thơm. Những loại quả nó thích hơn cả là quả mít, quả dứa, quả cà chua. Ốc sên cũng rất thích ăn các loại hạt ngũ cốc nhƣ hạt gạo, hạt ngô, hạt đỗ. Nó cũng rất thích ăn các loại củ nhƣ củ cà rốt, củ cải, củ khoai lang. Trong điều kiện nuôi nhốt ốc sên, chúng ta cần bổ xung những loại thức ăn có hàm lƣợng dinh dƣỡng cao để ốc sên lớn nhanh, đẻ nhiều. Ngoài việc thu hoạch thịt ốc sên, chúng ta còn có thể thu hoạch trứng ốc sên. Nếu nuôi ốc sên để sử dụng làm thực phẩm trong gia đình, tốt nhất chúng ta hãy bắt và gây nuôi những con ốc sên vẫn sống tự nhiên trong các khu vƣờn ở nƣớc ta. Bởi vì loại ốc sên này đã thích nghi hoàn toàn với điều kiện khí hậu của Việt Nam. Chúng ta có thể tận dụng các loại vỏ trái cây, rau xanh, các loại cỏ, để làm thức ăn cho ốc sên. Chúng ta cũng có thể chủ động trồng cây mùi tàu để làm thức ăn cho ốc sên. Ốc sên là loài vật lớn chậm, chúng ta sẽ thu đƣợc nhiều hơn lợi ích kinh tế từ việc nuôi ốc sên, nếu biết tận dụng các loại thức ăn có sẵn trong tự nhiên, và trong mỗi gia đình. Ốc sên con vừa ra đời đã có thể tự kiếm ăn. Thức ăn chính của nó là rau cỏ, rễ cây, mầm non, quả chín. Bởi vậy, nó là loài động vật gây hại cho mùa màng. 144 3. Đặc điểm phát sinh gây hại và biện pháp phòng chống 3.1. Triệu chứng tác hại Các lá non bị ốc sên ăn, cành non bị gãy. Đối với cây Hồ tiêu chúng thƣờng chui trốn trong gốc tiêu, nơi rậm rạp đợi chiều tối bò ra ăn lá và thân và tạo vết thƣơng nên bệnh dễ xâm nhập gây bệnh cho cây trồng, có đợt cây nảy mầm lá non vừa nhú thì qua ngày hôm sau bị ốc sên ăn trụi cây không mọc đƣợc, vì thế việc phòng trừ ốc sên cần quan tâm thƣờng xuyên. Riêng một số cây ăn trái và cây kiểng lá màu thì hầu nhƣ không thấy chúng tới. Đối với cây Gừng, Ốc Sên thƣờng chui trốn trong các hốc đất, khe kẽ đợi chiều tối bò ra ăn lá, ngọn non của cây gừng. Trong quá trình bò, chúng tiết là một loại dịch làm cho cây Gừng bị hƣ lá và tạo vết thƣơng nên bệnh dễ xâm nhập gây bệnh cho cây, còn đối với ngƣời trồng rau ăn lá khi gieo hạt trên đất, đợi khi hạt nảy mầm lá non vừa nhú thì qua ngày hôm sau bị ốc sên ăn trụi cây không mọc đƣợc. Hình 4.5. Ốc Sên hại rau Cải bắp 145 Hình 4.6. Ốc Sên hại cam 3.2. Qui luật phát sinh phát triển và gây hại Ốc sên (ốc ma) có kích thƣớc lớn, vỏ ốc có sọc trắng, có “lƣỡi” dài, phía đỉnh đầu có 2 cái ăng-ten (mắt) phía trƣớc. Chúng thƣờng sống trong các bụi cây, hàng rào, xác bã thực vật, Ban đêm, chúng bò ra ăn cành non, ngọn non, nụ hoa, 3.3. Tập quán sinh sống và gây hại: Những con gần thành thục và trƣởng thành ăn tất cả các bộ phận của cây. Ốc sên ăn cả lá, tạo thành lỗ trên lá. Nhớt cũng ăn chồi cây làm năng suất, chất lƣợng giảm. 3.4. Biện pháp phòng chống 3.4.1. Biện pháp diệt ốc thủ công, không độc hại môi trường. Bắt bằng tay: Đây là biện pháp rất phổ biến. Tại nhiều vùng ngƣời ta thu gom làm thức ăn cho ngƣời hoặc nghiền làm thức ăn cho cá. Chúng ta cần đặt vấn đề phòng ngừa ốc sên hại lan lên hàng đầu hơn là dùng thuốc diệt trừ chúng. Nếu làm tốt khâu này, thì bạn không cần phải lo lắng nhiều tới việc diệt trừ loài vật gây hại này. Hoặc có thế hạn chế sự phá hoại của chúng ở mức thấp nhất. 146 Chăm sóc kỹ vƣờn cây: Trong mùa mƣa và những ngày u ám, làm sạch cỏ dại phía dƣới vƣờn , đặc biệt trong mùa khô. Loại trừ ngay những nơi ẩn nấp của chúng vào ban ngày nhƣ đống gạch gỗ, những nơi ẩm ƣớt, lá cây rụng trong vƣờn Tìm và diệt hết ốc thủ công: Vào buổi chiều, tƣới nƣớc vào nơi tình nghi có ốc sên trú ẩn, vào ban đêm (khoảng 8 giờ tối) dùng đèn để bắt giết khi sên nhớt ra ăn và vào lúc sáng sớm. Chặt cánh râm bụt có nhiều lá xanh, để cho héo, đem bỏ từng đống trong vƣờn vào lúc chiều mát. Tối đến, ốc sên sẽ kéo đến ăn lá râm bụt. Sáng hôm sau sẽ thu gom dễ dàng. Lấy một cái hũ, trét lên một lớp mật ong mới lấy còn mùi thơm. Chờ sẩm tối đêm để ngoài vƣờn. Vị ngọt thơm của mật ong sẽ dẫn dụ ốc sên chui vào hũ rất nhiều. Sáng ra bạn chỉ cần xử lý chúng là xong. Bắt vài con cóc nuôi trong vƣờn (số lƣợng cóc nuôi ít hay nhiều tuỳ theo vƣờn rộng hay hẹp). Đêm đến những con cóc này sẽ ăn hết những con ốc sên và nó còn ăn những loại sâu bọ, mối, kiến cánhnhƣng không phá hoại cây trồng. Nuôi vịt thả trong vƣờn, nó sẽ tìm trứng ốc sên ăn hết và tiêu diệt dần những con ốc sên cắn phá. Tuy nhiên, biện pháp này chỉ thích hợp đối với vƣờn trồng cây ăn trái lâu năm nhƣ: xoài, thanh long, chuối, nhãn Dùng Muối: Đây là phƣơng pháp rất hữu hiệu, nhƣng nên suy nghĩ kỹ trƣớc khi dùng. Thứ nhất là vì muối có thể làm chết hay gây ảnh hƣởng xấu đến các loại cây, hoa và làm hại độ mầu mỡ của đất. Thứ hai là vì cách nầy rất tàn nhẫn, muối sẽ khiến ốc sên / sên phải đau đớn quằn quại, sùi bọt trong một thời gian dài trƣớc khi chết. Dùng Beer: Đây là phƣơng pháp cũng rất hữu hiệu, ốc sên / sên sẽ chết sau khi say trong beer : Ngƣời ta chôn một cái chén rộng miệng cạn đáy hay dùng nắp các hũ rộng miệng đổ gần đầy beer ở mảnh đất nhiều ốc sên / sên. Mùi men bia sẽ hấp dẫn khiến họ hàng nhà ốc rủ nhau bò vào “nhậu”. Sau đó ốc sẽ chết vì chất alcohol. Theo kinh nghiệm thực tế, họ nhà ốc rất ƣa chuộng bia hiệu Budweiser, Bud light, Coors light, Michelob và Old Milwaukee. 147 Hình 4.7. Dùng bia bẫy Ốc Sên Dùng Men Bánh Mì: Mùi men tỏa ra cũng rất hấp dẫn họ nhà ốc. Dùng mạt cƣa, vỏ trứng, sợi đồng, lá thông, vỏ thông cedar: Nếu biết chắc chu vi quanh các gốc cây không có ốc sên / sên, có thể tạo hàng rào bằng cách rắc mạt cƣa, vỏ trứng đập vụn, sợi đồng, lá thông, vỏ thông cedar, chung quanh gốc cây cách một khoảng vừa phải. Họ nhà ốc sẽ không muốn vƣợt qua hàng rào vì không muốn lớp da thịt bên dƣới bị đau. Có thể rắc thêm muối lên mặt hàng rào để trừng trị những “anh hùng” ốc dám liều lĩnh vƣợt qua ranh giới đã bị cấm. Dùng các vật dụng làm vƣờn bằng đồng: Họ nhà ốc rất sợ chất đồng. Dùng các vật dụng làm vƣờn bằng đồng sẽ khiến đất có mùi đồng, giúp xua đuổi nhà ốc. Có thể tƣới nƣớc có pha đồng (ngâm vật dụng đồng vào nƣớc khoảng 1, 2 ngày rồi dùng nƣớc để tƣới) vì nghĩ giúp xua đƣợc nhà ốc. Nuôi ếch nhái: Ốc là món ăn hấp dẫn với ếch nhái Dùng Long Não (moth balls): Mùi long não sẽ xua đuổi ốc cũng nhƣ một số loại khác. Có thể may những túi vải mỏng đựng long não đem để ở vƣờn. Thƣờng xuyên vệ sinh vƣờn tƣợc: Hạn chế bớt chiều cao của cỏ dại bằng cách cắt cỏ, chỉ để lại chiều cao từ 5-8cm. Cắt tỉa bơt những cành lá già rậm rạp vì đây là nơi ốc sên dễ dàng trú ngụ phá hoại. Thu gom ốc vào sáng sớm và chiều tối. Xử lý nếu lƣợng ốc sên nhiều, đập chúng chết và cho vào hũ sành đựng nƣớc tiểu. 148 Để vài tháng, khi đã hoai, dùng nƣớc này pha với nƣớc lã làm phân tƣới cho cây trồng rất tốt. Hoặc đem bằm nhỏ, nầu chín làm thức ăn cho nuôi heo, vịt, cá nhằm tăng thêm thu nhập cho gia đình. 3.4.2. Đặt bẫy bắt ốc sên Dùng Bẫy là phƣơng pháp bắt sống. Dùng rau xanh hay cám đặt ở những vị trí có nhiều sên, nhớt để dẫn dụ chúng ra rồi bắt chúng. Đặt bẫy ốc sên bằng các mảnh ván, giấy báo nhúng nƣớc, vỏ dƣa, vỏ táo, cành râm bụt có nhiều lá xanh (nhớ để cho héo), vỏ khóm, sơ mít để dụ chúng đến ăn và bắt chúng. Cách khác là rắc vôi bột hoặc muối trên mặt đất để diệt ốc sên và sên trần, nhƣng cần chú ý không đƣợc rắc trên chậu lan. Quét mật ong loại tốt, còn mùi thơm. Chờ đến tối đặt hủ sành ra ngoài vƣờn, vị ngọt thơm sẽ dẫn bọn ốc sên vào hủ, sáng hôm sau chỉ việc tiêu huỷ chúng. Rải vôi bột trên mặt đất, trên kệ kê chậu, trên mặt chậu gần gốc cây, (khi hoa bắt đầu xổ bao) và rải quanh vƣờn 2 đến 3 tháng 1 lần. Để bảo vệ cành hoa, khi hoa sắp xổ bao, dùng một túm bông gòn cột chặt quanh gốc cành hoa, có thể dùng một tờ giấy cứng quấn quanh gốc cành hoa thành một cái phễu với phần đáy quay lên trên, dùng kim ghim tờ giấy cho chặt. Sên, nhớt bò lên theo cành hoa và lọt vào đáy phễu, chúng không thể tìm đƣợc cách bò qua thành phễu để lên phía trên nụ hoa. Chôn những cái chai chứa petfood khô (loại thơm ngon sẽ hấp dẫn họ nhà ốc nhiều hơn) nghiêng nghiêng. Miệng chai che phủ sao cho ốc ta chỉ có thể chui vào mà không chui trở ngƣợc ra ngoài. Mùi petfood sẽ là mồi để dụ họ nhà ốc chui vào bẫy. Sau đó chỉ cần lấy cái chai mang đi bỏ . Có thể thả ở nơi khác, có thể cho gà vịt ăn, có thể đạp chết, có thể trấn trong nƣớc xà bông hay ajar, vv tùy theo ý mỗi ngƣời. 3.4.3. Sử dụng thuốc BVTV diệt trừ ốc sên Nếu tất cả các biện pháp thủ công đã đƣợc áp dụng, nhƣng ốc sên vẫn sinh sôi phá hoại vƣờn lan của bạn thì biện pháp sau cùng phải dùng đến là thuốc BVTV. 149 Dùng các loại hóa chất ở dạng lỏng hay dạng viên. Nhƣng cách này ngày nay không còn đƣợc ƣa chuộng vì ngoài việc diệt trừ ốc sên / sên, các loại hóa chất nầy còn làm ảnh hƣởng xấu đến môi trƣờng. Để diệt trừ ốc, có thể dùng một số loại phân sau: Phun dung dịch Booc-đô 1% vào gốc cây, bẹ lá, nách lá, cuống phát hoa. Chú ý: không phun trực tiếp lên hoa. Và chỉ nên dùng Booc-đô 1 lần / 1 tháng. Sử dụng các loại thuốc trừ sên, nhớt nhƣ muối Arsenate, Methaldehyde... thƣờng đƣợc chế tạo thành viên bã độc. Viên thuốc đƣợc đặt trên chậu gần chồi hoa. Sên, nhớt ăn phải sẽ chết trƣớc khi tấn công cành hoa. Song cách này không đƣợc khuyến khích, do dùng bã mồi diệt ốc bằng hoá học sẽ ảnh hƣởng đến sức khoẻ của con ngƣời và vật nuôi quanh nhà Có thể dùng các loại thuốc dẫn dụ: Bolis ( 6G, 12G) ; Cửu Châu ( 6Gr, 12Gr ) và Pilot (10B, 15B ). Các loại thuốc này thƣờng đƣợc sử dụng dƣới hình thức là rãi trên mặt đất, hoặc trộn với đất phân khi trồng cây. 3.4.4. Thời điểm trong ngày sử dụng các loại thuốc diệt ốc Đối với thuốc rải, nên rải lúc chiều mát, hay sau cơn mƣa chiều, rải nhẹ trên mặt chậu hoặc xung quanh cây trồng, tối ốc sên bò ra ăn phải bả mồi sẽ bị chết hàng loạt. Khi sử dụng bả mồi nên chia làm 2-3 đợt để tiêu diệt số lƣợng ốc còn lại. Ốc sên sinh sản rất nhanh nên sau cơn mƣa phải đi kiểm tra nếu thấy ốc sên xuất hiện trở lại thì rải thuốc tiếp tục. 150 NỘI DUNG GHI NHỚ BÀI 4 Ốc sên (còn gọi là ốc ma) và sên dẹp (sên không vỏ, có nơi gọi là sâu nhớt) thuộc loài sống trên cạn. Đây là loài sống hoang dại, ban ngày chúng ẩn kín trong các hốc, bụi cây hoặc chui xuống đất. Khi đêm xuống, chúng xuất hiện và phá hoại cây cối, hoa màu; nhất là ăn phần non của cành, hoa, lá, mầm, trái thanh long. Đặc biệt, chúng phát triển mạnh trong mùa mƣa và những vƣờng cây đƣợc tƣới nƣớc thƣờng xuyên trong mùa nắng. Ốc sên thuộc họ (Achatinidae) có nhiều loại, phổ biến là ốc sên hoa (Achatinafulica). là loài động vật thân mềm sống ở nhiều nơi trên đất nƣớc ta. Ốc sên ăn thực vật mà món khoái khẩu của chúng là các đọt lá non trong các họ cây lấy củ và rau màu. Thức ăn ƣa thích của con ốc sên là những loại lá cây mềm nhƣ lá cây dâm bụt, lá cây đu đủ, các mầm cây non. Nó cũng rất thích ăn các loại lá cây đã mục và chất thải của động vật. Khứu giác của ốc sên rất nhạy bén. Nên những loại lá cây nó thích ăn thƣờng là loại lá có mùi thơm, ví dụ nhƣ lá gừng, lá mùi tàu, lá rau cải. Nó cũng rất thích ăn các loại quả. Bởi vì trong các loại quả có chứa nhiều nƣớc, chất dinh dƣỡng, và cả mùi thơm. Những loại quả nó thích hơn cả là quả mít, quả dứa, quả cà chua. Ốc sên con vừa ra đời đã có thể tự kiếm ăn. Thức ăn chính của nó là rau cỏ, rễ cây, mầm non, quả chín. Bởi vậy, nó là loài động vật gây hại cho mùa màng. 151 CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Trình bày các biện pháp phòng chống Ốc sên ? 2. Trình bày đặc điểm hình thái và đặc điểm sinh trƣởng của Ốc sên ? 152 BÀI 5: NHỚT ( SÊN TRẦN) VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG MÃ BÀI: MĐ 18 - 05 Giới thiệu: Sên trần là mối nguy hại của các nhà làm vƣờn; loài chân bụng nhỏ bé này thƣờng lén lút trƣờn ra ngoài vào ban đêm, ăn lá và quả trên cây. Mục tiêu của bài: Sau khi học xong bài này ngƣời học - Trình bày đƣợc khái niệm và đặc điểm của nhớt. - Quan sát đƣợc, nhận định đƣợc và đƣa đƣợc phƣơng hƣớng phòng chống nhớt hại. Nội dung 1. Vai trò, vị trí phân loại và đặc điểm hình thái 1.1 Lịch sử nghiên cứu, vị trí phân loại Sên trần Agriolimax agrestis Lin. (Limax agrestis Lin.) còn gọi là sên, là loài động vật thân mềm không vỏ thuộc lớp Chân bụng (Gastropoda), bộ Mắt đỉnh (Stylommatophora), họ Sên trần Arionae 1.2. Tầm quan trọng và đặc điểm hình thái Sên trần A. agrestis thân thể mềm, nhẵn bóng, không vỏ, có màu xám đậm hoặc màu xanh đen. Con trƣởng thành cơ thể dài từ 40-50 mm, phần trƣớc cơ thể có một đôi râu thịt, đầu râu có mắt. Sên trần A. agrestis đực cái cùng cơ thể, có thể sinh sản theo kiểu đực cái dị thể và cũng có thể sinh sản đực cái đồng cơ thể. 2. Đặc điểm sinh vật học và sinh thái học 2.1. Đặc điểm sinh trƣởng Vòng đời của sên trần A. agrestis khoảng 250 ngày. Sên trần A. agrestis phát triển tốt nhất ở điều kiện ẩm độ cao, nhiệt độ từ 15-25oC, hàm lƣợng nƣớc trong đất từ 20-30%. Nhiệt độ cao hơn 30oC không thích hợp cho sên phát triển. Sên ban ngày ẩn nấp, tối mới ra hoạt động (khi hoàng hôn xuống sên bắt đầu bò ra khỏi chỗ trú ẩn 153 và hoạt động mạnh nhất từ 22 - 23 giờ, từ sau giữa đêm tới sáng sên hoạt động giảm dần cho tới 6 giờ sáng hôm sau chúng tìm lại về chỗ ẩn nấp. Vào những ngày trời mƣa, sên chui ra hoạt động cả ngày. 2.2. Đặc điểm sinh sản Sên thƣờng đẻ trứng vào trong đất tại những nơi có độ ẩm cao, kín đáo. Chúng đẻ mạnh nhất vào tháng 4, tháng 9 và tháng 10. Mỗi sên trƣởng thành có thể đẻ tới vài trăm trứng. 2.3. Nơi ở và sự phân bố Chúng thƣờng sống ở những nơi rậm rạp hoặc sống trong đất 2.4. Vai trò của yếu tố thức ăn 3. Đặc điểm phát sinh gây hại và biện pháp phòng chống 3.1. Triệu chứng tác hại Gây hại các loại rau và các cây trồng nông nghiệp khác. Các cây non, mầm non, lá non thƣờng bị gây hại nặng hơn. Sên trần gây hại để lại các lỗ thủng tròn trên lá. Những chỗ sên trần bò qua thƣờng để lại một vạch chất nhớt. Hình 5.1. Sên trần hại rau 154 3.2. Qui luật phát sinh phát triển và gây hại Sên trần, có cơ thể thuôn dài, mềm mại, có màu nâu xám đến nâu đen, thƣờng tiết ra chất nhờn bao quanh cơ thể và gây hại vào ban đêm trên đọt non, bông và quả. Hình 5.2. Sên nhớt hại cây 3.3. Biện pháp phòng chống 3.3.1. Dùng bẫy bia hoặc rượu đối với những cây quan trọng. 155 Hình 5.3. Dùng bia bẫy Sên trần Sên trần sẽ chỉ chú ý những bẫy cách chúng khoảng 1 mét, vì vậy cách này đƣợc dùng hiệu quả nhất đối với vƣờn nhỏ hoặc khu vực quan trọng. Đặt bẫy theo hƣớng dẫn sau: - Chôn một chiếc cốc cao với mặt dốc bên trong đất. Chừa lại 1 cm miệng cốc, để ngăn bẫy loài bọ cánh cứng săn sên. - Đổ bia hoặc sữa đến nửa cốc. - Thay cốc vài ngày một lần. Nếu sên chui ra, thay bằng hỗn hợp mật ong, men, và một ít nƣớc, đun sôi cho đến khi dính lại. 3.3.2. Nhử mồi sên trần bằng bẫy nhân đạo: Sên trần tập trung ở nơi tối và ẩm ƣớt, nhƣ bên dƣới ván gỗ, chậu hoa, hay hộp các tông. Đặt bẫy và kiểm tra mỗi ngày để tập trung và loại bỏ chúng ra xa nhà của bạn. Để đạt kết quả tốt nhất, hãy dụ chúng bằng một trong những thức ăn cho sên dƣới đây. - Lá bắp cải - Vỏ cam chanh đƣợc ngâm nƣớc - Thức ăn khô cho thú cƣng 3.3.3. Đi săn sên vào ban đêm: Dùng đèn pin và bao tay, xiên sên bằng que hoặc bỏ chúng vào xô nƣớc xà phòng.Nếu có đèn đội đầu thì việc đi săn sẽ dễ dàng hơn. - Kiểm tra bên dƣới lá. - Lần theo các vết nhờn mà bạn thấy 3.3.4. Giữ vườn được khô: Sẽ không thấy kết quả ngay, nhƣng giữ vƣờn luôn khô ráo là phƣơng pháp tốt nhất để kiểm soát sên lâu dài. Dƣới đây là một số chiến lƣợc giúp làm cho khu vƣờn của bạn kém thân thiện với những loài côn trùng thích ẩm ƣớt - Tƣới cây vào giữa buổi sáng, vì vậy đất sẽ khô trƣớc khi trời tối. - Lắp đặt hệ thống tƣới nhỏ giọt để hạn chế việc sử dụng nƣớc. - Giữ sân không có mảnh vụn, và cắt cỏ thƣờng xuyên. 156 - Tránh dùng lớp phủ hữu cơ, nhƣ rơm hoặc cỏ đã cắt. - Đặt khoảng cách giữa các cây đủ xa để không khí lƣu thông xung quanh. 3.3.5. Trồng loại cây ngăn chặn được sên trần: Các loại cây cụ thể khiến sên trần tránh xa do vị, cấu trúc, hoặc chất độc của cây. Trồng chúng thành hàng rào xung quanh toàn bộ khu vƣờn, hoặc trồng xen kẽ với cây khác. Những cây này không loại bỏ đƣợc 100%, nhƣng chúng sẽ ngăn đƣợc nhiều sên mà không cần phải cố gắng bên cạnh những cây trồng ban đầu. Thử trồng những giống cây sau: - Thảo mộc: gừng, tỏi, rau thơm, bạc hà, và rau diếp xoăn. - Rau: rau vị đắng thƣờng ít thu hút sên hơn rau vị ngọt. Thử trồng cải xoăn, bắp cải mùa xuân, hoặc mầm bông cải xanh. - Giống cây hosta có lá xanh dƣơng sẽ ngăn chặn tốt hơn. - Hoa ƣa bóng hoàn toàn: Astilbe, Dicentra, Digitalis (mao địa hoàng), Lobelia, Viola(một số hoa păng-xê và hoa violet). Còn có Ranunculus (mao lƣơng) và Vinca, nhƣng chúng mọc rất nhanh. - Hoa ƣa bóng một phần: Trúc đào, hoa chuông, hoa hiên. Cũng nhƣ bạc hà Âu, nhƣng giống này mọc rất nhanh. 3.3.6. Dựng hàng rào bằng phương pháp dân gian. Dƣới đây là những phƣơng pháp tại nhà hiệu quả nhất, nhƣng có thể không ngăn chặn hết 100% sên trần: - Bã cà phê có thể có ảnh hƣởng nhẹ đến sức khỏe khu vƣờn của bạn. - Cát thô, sắc làm xƣớc sên trần, nhƣng có thể không ngăn chặn hoàn toàn. - Tảo biển không hiệu quả bằng muối hột, nhƣng có lẽ an toàn hơn cho đất. Nếu bạn tìm đƣợc thì thức ăn rong biển chứa canxi sẽ tốt hơn 3.3.7. Xem xét việc dùng hàng rào mạnh hơn (nhưng nguy hiểm hơn). Có rất nhiều vật liệu có thể diệt sên trần khi tiếp xúc. Chúng có thể đƣợc dùng làm hàng rào hiệu quả để ngăn sự di chuyển của sên, nhƣng chúng nên đƣợc dùng cẩn thận và giữ khô ráo. Sử dụng không đúng có thể gây hại cho khu vƣờn 157 của bạn (thậm chí cho ngƣời và động vật sử dụng chúng). Hãy chắc rằng sử dụng những nguyên liệu này ở bề mặt không có đất ngoại trừ những lƣu ý sau: Cảnh báo an toàn: Không hít những chất này hoặc xử lý bằng tay không. Chúng có thể không thích hợp cho khu vƣờn có trẻ em và thú cƣng chơi đùa. Diatomit: Có thể gây hại cho các loài côn trùng có ích. Tro gỗ: Tăng độ pH trong đất, đem lại hiệu quả cao. Vôi tôi: Tăng độ pH trong đất rất nhiều. Có thể làm đất không trồng cây đƣợc. Phun 1% cafein: Phun trực tiếp lên cây bạn muốn bảo vệ; diệt sên khi chúng ăn phải. Có thể ảnh hƣởng không tốt đến cây theo những cách không thể lƣờng trƣớc đƣợc. 3.3.8. Các biện pháp khác Vỏ trứng: Sên là loại thân mềm, vì vậy chúng không thích bò lên những vật sắc nhọn nhƣ vỏ trứng (đã giẫm nát). Hãy rắc vỏ trứng xung quanh gốc cây của bạn và lũ sên sẽ tránh xa chúng. Hơn nữa, khi phân hủy, vỏ trứng cũng cung cấp thêm dinh dƣỡng cho cây. Hình 5.4. Dùng vỏ trứng đuổi Sên trần 158 Giấy nhám: Cũng nhƣ vỏ trứng, giấy nhám với bề mặt thô ráp cũng khiến cho sên tránh xa. Rong biển: Rong biển không chỉ là một loại phân bón cực tốt cho đất mà còn là thành phần đuổi sên tự nhiên. Phủ một lớp rong biển xung quanh gốc cây hoặc luống rau. Rong biển mặn nên sên rất sợ. Tuy nhiên không nên để rong biển tiếp xúc trực tiếp với gốc cây để tránh làm xót cây. Trong thời tiết nóng, khi rong biển khô đi, nó cũng trở nên rất giòn sắc và khiến lũ sên tránh xa. Trồng cây đồng hành: Một số loại cây có khả năng khiến sên tránh xa, ví dụ nhƣ hƣơng thảo, thìa là, ngải cứu, hồi Trồng những loại cây này trong vƣờn, hoặc cạnh những loại cây dễ bị sên phá hoại. Bã cà phê: Bã cà phê có tác dụng đuổi sên và một số loại động vật gây hại khác. Phủ một lớp bã cà phê dƣới gốc cây, vừa làm phân bón, vừa khiến sên phải tránh xa. Hình 5.5. Dùng bã cà phê đuổi Sên trần Mồi tự nhiên: Một số loại thức ăn có thể làm mồi dụ sên vào bẫy, ví dụ nhƣ lõi ngô, hoa quả (dù đã cũ hỏng), mật ong trộn với men rƣợu... 159 Muối: Muối sẽ giết chết sên . Nhƣng khi dùng phải cẩn thận, vì cây có thể sẽ chết nếu rắc muối vào gốc cây. Nên rắc muối ở một khoảng cách xa. Giấm: Xịt giấm vào sên để tiêu diệt chúng. Cần để ý xem cây của có phải là loại ƣa axit không. Đồ vật bằng đồng: Sên sẽ không bò qua các đồ vật bằng đồng. Vì đồng tƣơng tác với nhớt của sên và tạo ra hiện tƣợng sốc điện nhỏ. Có thể uốn sợi dây đồng thành vòng tròn bao quanh gốc cây, chú ý không để miếng đồng bị rỉ sét, vì nó sẽ làm mất tác dụng tạo điện. Amoniac: Dùng amoniac pha với nƣớc (dù mùi hơi bị khai) để xịt lên chỗ bị sên gây hại. Nuôi thiên địch: Chim, gà, cóc, ếch, một số loại bọ cánh cứng là kẻ thù của sên. Dùng cát: Cát có tác dụng ngăn sên bò lên, vì chúng không chịu nổi bề mặt ráp. Nên phủ một lớp cát dày quanh gốc cây. Cát có thể ngăn ốc sên dù là cát khô hay cát ƣớt, và lại rất dễ bổ sung khi bị hao hụt. Vỏ cam, bƣởi: Vỏ của họ cam chanh rất hấp dẫn sên. Đặt một nửa quả cam/bƣởi đã vắt ngửa lên trong vƣờn. Đêm hôm sau sẽ thấy có sên trong vỏ quả cam, hãy quẳng chúng đi cho chúng không còn đƣờng trở lại. Hình 5.5. Dùng vỏ cam đuổi Sên trần 160 NỘI DUNG GHI NHỚ BÀI 5 Gây hại các loại rau và các cây trồng nông nghiệp khác. Các cây non, mầm non, lá non thƣờng bị gây hại nặng hơn. Sên trần gây hại để lại các lỗ thủng tròn trên lá. Những chỗ sên trần bò qua thƣờng để lại một vạch chất nhớt. Vòng đời của sên trần A. agrestis khoảng 250 ngày. Sên trần A. agrestis phát triển tốt nhất ở điều kiện ẩm độ cao, nhiệt độ từ 15-25oC, hàm lƣợng nƣớc trong đất từ 20-30%. Nhiệt độ cao hơn 30oC không thích hợp cho sên phát triển. Sên ban ngày ẩn nấp, tối mới ra hoạt động (khi hoàng hôn xuống sên bắt đầu bò ra khỏi chỗ trú ẩn và hoạt động mạnh nhất từ 22 - 23 giờ, từ sau giữa đêm tới sáng sên hoạt động giảm dần cho tới 6 giờ sáng hôm sau chúng tìm lại về chỗ ẩn nấp. Vào những ngày trời mƣa, sên chui ra hoạt động cả ngày. 161 CÂU HỎI ÔN TẬP 1. Trình bày các biện pháp phòng chống Sên trần ? 2. Trình bày đặc điểm hình thái và đặc điểm sinh trƣởng của Sên trần ? 162 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trần Thị Bình. Điều tra nghiên cứu sâu hại cam quýt ở tỉnh Hà Giang và biện pháp phòng trừ. Luận án Tiến sỹ nông nghiệp, Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam. Hà Nội. 2. Phạm văn Biên (chủ biên). Chuột hại lúa ở Việt Nam và phòng trừ tổng hợp. NXB Nông nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, 63 trang. 1998. 3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Tuyển tập “Tiêu chuẩn nông nghiệp Việt Nam”. Quyển I trang 153 - 157. 2001. 4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép, hạn chế và cấm sử dụng ở Việt Nam. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. 2003. 5. Cục bảo vệ thực vật. Phương pháp điều tra phát hiện sâu bệnh hại cây trồng. Nhà xuất bản Nông nghiệp. Hà Nội. 147 trang 6. Nguyễn Văn Cảm, Phạm Văn Lầm, Đinh Thị Thảo, Nguyễn Văn Liêm, Nguyễn Hồng Yến, Trần Thị Hƣờng, Nguyễn Thị Hiền. “Nghiên cứu sử dụng dầu khoáng trong phòng trừ tổng hợp sâu hại cây có múi ở nông trường Cao Phong tỉnh Hoà Bình”. Tuyển tập công trình nghiên cứu BVTV, Viện BVTV 1996 - 2000, tr. 269 - 275

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgiao_trinh_mo_dun_bao_ve_thuc_vat_dong_vat_hai_cay_trong_va.pdf
Tài liệu liên quan