Theo Lý thuyết pháp quyền tự nhiên của G.Lôccơ thì quyền lực nhà
nước cũng cần phải phân tách thành những bộ phận độc lập với nhau; việc
soạn thảo và người soạn thảo pháp luật cần phải được tách độc lập với
người thực hiện và xét xử theo pháp luật. Với tư tưởng phân quyền này,
G.Lôccơ đã phản ánh đúng nhu cầu của cuộc đấu tranh giành quyền lực
giữa giai cấp tư sản mới lên và giai cấp quí tộc phong kiến. Với lý thuyết
đó, G.Lôccơ cũng là một trong những nhà tư tưởng triết học đặt nền móng
lý luận cho sự ra đời của lý thuyết tam quyền phân lập tư sản.
Người có công đặc biệt quan trọng trong xây dựng lý thuyết tam
quyền phân lập là nhà triết học khai sáng Pháp – S.Môngtexkiơ. Theo lý
thuyết này, quyền lực tối thượng không thuộc về một người mà là thuộc về
nhân dân. Nhân dân được coi là quốc vương khi họ cầm lá phiếu để xác lập
quyền lực nhà nước, đồng thời họ là thần dân khi tuân thủ quyền lực nhà
nước do chính mình xác lập bằng lá phiếu của mình. Như vậy, quyền lực
nhà nước vốn là của nhân dân. Nhân dân chỉ uỷ quyền cho nhà nước để nhà
nước quản lý và điều hành các hoạt động theo đúng ý chí và lợi ích của
nhân dân.
457 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 895 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình môn Triết học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mình có quyền tự lựa chọn mà là trong
những điều kiện có sẵn do quá khứ để lại. Với những điều kiện ấy, mỗi
người, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục các hoạt động cũ của thế hệ trước trong
những hoàn cảnh mới; một mặt tiếp tục các hoạt động mới của mình để
biến đổi hoàn cảnh cũ. Xét mối quan hệ giữa các thế hệ và hoàn cảnh sống
(6)
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr.200
(1)
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr.476
(2)
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr.41
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
435
của con người thì "Bản thân xã hội sản xuất ra con người như thế nào thì nó
cũng sản xuất ra xã hội như thế"(3).
Như vậy, nhìn chung quá trình phát triển của thế giới hay nhìn riêng
quá trình phát triển của con người thì từ khi con người ra đời cho đến lúc
nào con người còn tồn tại, con người vẫn luôn vừa là sản phẩm của lịch sử,
vừa là chủ thể của lịch sử.
Trong khi khẳng định: "Con người là thực thể sinh vật xã hội" và là
chủ thể của lịch sử", C.Mác đồng thời khẳng định: "Bản chất con người
không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội"(1).
Quan điểm của C.Mác cho thấy:
- Bản chất con người hình thành và thể hiện ở những con người hiện
thực. Đấy là những con người cụ thể, sống trong những điều kiện cụ thể mà
ở đó những mặt khác nhau tạo nên bản chất của con người sẽ được bộc lộ ở
những mức độ cụ thể.
- Tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành nên bản chất
của con người. Các quan hệ này không kết hợp với nhau theo phép tính
cộng mà chúng tổng hoà, nghĩa là chúng có vị trí, vai trò khác nhau nhưng
chúng không tách rời nhau, mà tác động qua lại lẫn nhau, thâm nhập lẫn
nhau.
Có nhiều cách tiếp cận để tìm hiểu về tổng hoà những mối quan hệ
xã hội:
Nếu theo thời gian thì đó là những quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại
và quan hệ tương lai, trong đó suy cho đến cùng thì những quan hệ hiện tại
giữ vai trò quyết định.
Nếu xét theo các loại quan hệ thì đó là những quan hệ vật chất và
những quan hệ tinh thần, trong đó suy cho đến cùng thì những quan hệ vật
chất giữ vai trò quyết định.
Nếu xét theo tính chất đó là những quan hệ trực tiếp, gián tiếp, tất
nhiên, ngẫu nhiên, ổn định, không ổn định, v.v. trong đó suy cho đến cùng
thì những quan hệ trực tiếp, tất nhiên, ổn định giữ vai trò quyết định.
(3)
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.11
(1)
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.11.
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
436
Nếu cụ thể hoá các quan hệ (quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống,
quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị, quan hệ tôn giáo, quan hệ đạo đức, v.v.)
thì con người có bao nhiêu quan hệ sẽ có bấy nhiêu quan hệ góp phần hình
thành nên bản chất của con người, trong đó suy cho đến cùng thì các quan
hệ kinh tế hiện tại, trực tiếp, ổn định giữ vai trò quyết định. Trong quan hệ
kinh tế thì quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất là quan trọng hơn cả.
Khi các quan hệ xã hội thay đổi thì sớm hay muộn bản chất của con
người cũng có sự thay đổi.
Như vậy, bản chất của con người không phải được sinh ra mà được
sinh thành, nó hình thành và thay đổi theo sự hình thành và thay đổi của
các quan hệ xã hội, trong đó trước hết và quan trọng nhất là các quan hệ
thuộc lĩnh vực kinh tế.
2. Quan điểm của triết học Mác-Lênin về giải phóng con ngƣời
a) Vị trí vấn đề giải phóng con người trong triết học Mác-Lênin
Triết học Mác-Lênin là triết học vì con người. Ngay từ năm 1835,
trong "Những suy tư của một chàng trai trong việc lựa chọn nghề nghiệp"
C.Mác đã viết: " kim chỉ nam phải định hướng cho chúng ta trong việc
lựa chọn nghề nghiệp là phúc lợi của loài người, là sự hoàn thiện của chính
chúng ta; kinh nghiệm ca ngợi những ai đem lại hạnh phúc cho một số
lượng người nhiều nhất là người hạnh phúc nhất; bản thân tôn giáo dạy
chúng ta rằng cái lý tưởng mà mọi người hướng tới đã hy sinh bản thân
mình cho nhân loại, vậy ai dám bác bỏ những lời dạy bảo đó?"(1).
Khi viết "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản", C.Mác và Ph.Ăngghen
đã thể hiện tư tưởng cơ bản và chủ đạo của Tuyên ngôn là "vĩnh viễn giải
phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức"(2). Song, "xã hội không
thể nào giải phóng cho mình được, nếu không giải phóng cho mỗi cá nhân
riêng biệt"(3).
Như vậy, cốt lõi của triết học Mác-Lênin nói chung, của triết học về
con người trong triết học Mác-Lênin nói riêng là vấn đề giải phóng con
người, từ giải phóng những con người cụ thể tiến tới giải phóng nhân loại.
Toàn bộ những nội dung trả lời cho các câu hỏi như: Con người là gì?
nguồn gốc con người?, bản chất con người? v.v đều nhằm mục đích hiểu
(1)
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.40, tr.17-18.
(2)
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t.21, tr.11-12.
(3)
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20, tr.406.
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
437
đối tượng giải phóng để xác định đúng đắn những vấn đề liên quan đến vấn
đề giải phóng.
b) Thực chất vấn đề giải phóng con người trong triết học Mác-
Lênin
Triết học Mác-Lênin không phải là triết học đầu tiên đề cập đến vấn
đề giải phóng con người. Lịch sử đã ghi nhận nhiều học thuyết, nhiều quan
điểm về giải phóng con người song do điều kiện lịch sử, do sự ràng buộc về
giai cấp, do cách hiểu về con người, nguồn gốc và bản chất con người, v.v.
khác nhau nên xác định giải phóng con người là giải phóng đối tượng nào?,
giải phóng bằng cách nào?, giải phóng như thế nào? v.v. cũng rất khác
nhau.
Các học thuyết triết học duy tâm và tôn giáo quan niệm giải phóng
con người là giải thoát về mặt tâm linh để con người có thể đạt cuộc sống
cực lạc vĩnh cửu ở kiếp sau trong một thế giới khác ngoài giới tự nhiên.
Với quan niệm như vậy thì "không thể đem lại sự giải phóng con người
một cách hiện thực, mà chỉ là sự giải phóng hư ảo - "thuốc phiện của nhân
dân"
(1)
.
Các nhà duy vật trước Mác hoặc không thấy được tính xã hội ở con
người, không thấy các quan hệ xã hội của con người; hoặc nhận thức về
con người trừu tượng nên vẫn xem những biểu hiện bản chất con người
trong cuộc sống hiện thực như bản tính tự nhiên vốn có, bất biến của con
người. Không hiểu đúng bản chất con người thì không thể xác định đúng
những nội dung cho quá trình giải phóng và tất yếu cũng không thể thực
hiện được quá trình giải phóng.
Lịch sử cũng ghi nhận giai cấp tư sản phương Tây đã thực hiện các
cuộc cách mạng giải phóng con người song do bản chất của chủ nghĩa tư
bản, do mục đích của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa nên đồng
thời với việc giải phóng con người khỏi những ràng buộc của xã hội phong
kiến, giai cấp tư sản đã trói chặt con người bằng ràng buộc khác nghiệt ngã
hơn - ràng buộc về kinh tế, phân hoá xã hội thành hai đối cực: nhà tư bản
bóc lột và người lao động bị bóc lột(2). Đến nay, ngay cả khi đời sống của
người lao động đã được cải thiện thì sự đối cực ấy vẫn không mất đi mà chỉ
tăng lên nhưng dưới những hình thức biểu hiện khác.
(1)
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1, tr.570.
(2)
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.598-600.
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
438
Triết học Mác-Lênin xác định "Bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao
hàm ở chỗ là nó trả thế giới con người, những quan hệ của con người về
với bản thân con người"(3), là giải phóng người lao động thoát khỏi lao
động bị tha hoá(4).
Trong các tác phẩm của mình, C.Mác đã chỉ rõ những biểu hiện của
lao động bị tha hoá, nguyên nhân dẫn đến sự tha hoá; trên cơ sở đó, C.Mác
cũng đã xác định phương thức và những lực lượng có thể thực hiện sự
nghiệp giải phóng con người thoát khỏi tha hoá để tiến tới một xã hội mà
"sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của
tất cả mọi người"(1).
Theo C.Mác lao động bị tha hoá là lao động làm người lao động
đánh mất mình trong "hoạt động người" nhưng lại tìm thấy mình trong
"hoạt động vật".
Lao động là hoạt động người song ở lao động bị tha hoá nó đã "là
một cái gì đó bên ngoài" người lao động. Người lao động thực hiện hoạt
động lao động không phải để thoả mãn nhu cầu lao động mà chỉ vì sự sinh
tồn của thể xác. Đó là lao động cưỡng bức. Điều này tất yếu dẫn đến việc
người lao động chỉ cảm thấy mình hành động tự do trong khi thực hiện
những chức năng con người thì người lao động cảm thấy mình chỉ còn là
con vật. Cái vốn có của súc vật trở thành chức phận của con người, còn cái
có tính người thì biến thành cái vốn có của súc vật. "Tính bị tha hoá của lao
động biểu hiện rõ rệt ở chỗ là một khi không còn sự cưỡng bức lao động về
thể xác hoặc về mặt khác thì người ta trốn tránh lao động như trốn tránh
bệnh dịch hạch vậy"(2).
Lao động bị tha hoá là lao động làm đảo lộn các quan hệ của người
lao động.
Trong lao động, người lao động thực hiện quan hệ với tư liệu sản
xuất là thực hiện quan hệ với đồ vật. Song, vì hoàn toàn phụ thuộc vào tư
liệu sản xuất nên không phải con người sử dụng tư liệu sản xuất mà tư liệu
sản xuất sử dụng con người(3).
(3)
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1, tr.557.
(4)
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1, tr.557.
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.42, tr.168.
(1)
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.628.
(2)
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.42, tr.132-133.
(3)
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23, tr.451.
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
439
Mặt khác, chỉ vì phải có sản phẩm để nhận thù lao mà người lao
động phải lao động nên con người đã bị sản phẩm của chính bàn tay mình
nô dịch(4); người lao động tạo ra sản phẩm song sản phẩm không phải của
người lao động mà của người chủ nên nó trở nên xa lạ đối với người đã tạo
ra nó.
Như vậy, quan hệ giữa con người với đồ vật (trực tiếp là quan hệ với
tư liệu sản xuất, với sản phẩm của quá trình sản xuất) đã trở thành quan hệ
giữa con người với kẻ thống trị xa lạ.
Cùng với quá trình trên là người lao động phải thực hiện quan hệ với
người chủ. Đây là quan hệ giữa người với người. Song, người lao động
quan hệ với người chủ qua số sản phẩm người chủ thu được và số tiền thù
lao mà người lao động được trả. Cho nên, về bản chất quan hệ giữa người
với người đã trở thành quan hệ giữa người với đồ vật(1).
Lao động bị tha hoá là lao động làm người lao động bị phát triển
què quặt.
Đây là hệ quả của sự phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ và việc
sử dụng thành tựu của nó chỉ vì lợi nhuận. Với mục đích sản xuất vì lợi
nhuận này khoa học, kỹ thuật, công nghệ càng phát triển mạnh thì máy móc
thay thế người lao động càng nhiều, chuyên môn hoá lao động càng sâu, số
người lao động bị máy móc thay thế càng lớn, những người còn lại bước
vào quá trình lao động thuần tuý thực hiện những thao tác mà dây chuyền
sản xuất đã quy định. Vì vậy, nền sản xuất máy móc vì lợi nhuận "đã ném
một bộ phận công nhân trở về với lao động dã man và biến một bộ phận
công nhân thành những cái máy"(2).v.v.
Theo C.Mác cho rằng nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự tha hoá là
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Sự ra đời của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa với chế độ tư hữu tư bản về tư liệu sản xuất đã tập trung
những tư liệu sản xuất cơ bản của xã hội vào trong tay một số nhà tư sản,
một số tập đoàn tư bản làm tuyệt đại đa số người lao động trở thành vô sản.
Nhu cầu sinh tồn đã buộc những con người không có tư liệu sản xuất này tự
nguyện một cách cưỡng bức đến với các nhà tư sản và họ trở thành những
(4)
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23, tr.875.
(1)
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.13, tr.30.
(2)
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.42, tr.131.
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
440
người làm thuê cho nhà tư bản. Và do đó quá trình người bóc lột người đã
diễn ra(3).
Đối với phương thức và lực lượng giải phóng con người, triết học
Mác-Lênin khẳng định:
Giải phóng con người là xoá bỏ tha hoá, xoá bỏ người bóc lột người
để con người trở về với chính mình, phát triển bản tính chân chính của
mình. Song "con người bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội thì do đó con
người chỉ có thể phát triển bản tính chân chính của mình trong xã hội"(4).
Việc giải phóng con người phải được thực hiện trong xã hội loài người.
Nguyên nhân sản sinh ra tha hoá là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
nên “xoá bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu với tính cách là sự khẳng định
sinh hoạt của con người là sự xoá bỏ một cách tích cực mọi sự tha hoá”(1).
Điều này cũng có nghĩa là lực lượng thực hiện nó chính là những
người bị tước đoạt tư liệu sản xuất – những người vô sản. Sức mạnh giải
phóng của họ không phải là sức mạnh của những cá nhân đơn độc mà như
C.Mác chỉ rõ, chỉ khi nào họ nhận thức được và tổ chức được “những lực
lượng của bản thân” thành những lực lượng xã hội – cũng chính là thành
những lực lượng chính trị – thì giải phóng con người mới thực hiện được.
Giải phóng xã hội khỏi sở hữu tư nhân, khỏi sự nô dịch trở thành hình thức
chính trị của sự giải phóng giai cấp vô sản, song ở đây không chỉ là sự giải
phóng cho họ vì sự giải phóng của họ bao hàm sự giải phóng toàn thể nhân
loại(2).
V.I.Lênin nhận định: Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở
chỗ nó làm sáng rõ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người thực
hiện sứ mệnh giải phóng con người(3).
III. TƢ TƢỞNG Ồ C Í MIN VỀ CON NGƢỜI TRONG SỰ NG IỆP
CÁC MẠNG DO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃN ĐẠO
1. Cơ sở hình thành tƣ tƣởng ồ Chí Minh về con ngƣời
(3)
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.598-600.
(4)
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr.200.
(1)
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.42, tr.168.
(2)
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1, tr.557.
C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.42, tr.143.
(3)
Xem V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.23, tr.1.
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
441
Sự ra đời tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là tất yếu lịch sử. Nó
là sản phẩm của sự kết hợp giữa những điều kiện lịch sử – xã hội với phẩm
chất, năng lực cá nhân mà những cơ sở cơ bản để hình thành đó là:
- Nhu cầu khách quan của lịch sử – xã hội.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành
chủ nghĩa đế quốc. Cùng với mâu thuẫn giai cấp vô sản và giai cấp tư sản,
chủ nghĩa đế quốc ra đời đã xuất hiện thêm mâu thuẫn mới: mâu thuẫn giữa
các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc, thực dân.
Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) để chia lại thuộc
địa của các nước đế quốc đã tạo điều kiện cho lý tưởng của chủ nghĩa Mác-
Lênin trở thành hiện thực – cách mạng tháng Mười Nga dưới sự lãnh đạo
của V.I.Lênin và Đảng Bônsêvích thành công năm 1917 mở ra kỷ nguyên
mới – kỷ nguyên từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
toàn thế giới.
Ở trong nước, từ giữa thế kỷ XIX, Việt Nam bị thực dân Pháp xâm
lược. Việt Nam trở thành nước thuộc địa nửa phong kiến dưới ách thống trị
của thực dân Pháp. Các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc đều thất bại.
Cuộc sống của người Việt Nam chìm trong đau khổ và tủi nhục của người
mất nước. Nhu cầu phải tìm ra con đường giải phóng để cứu dân, cứu nước
trở thành một đòi hỏi khách quan đối với mỗi người và đối với cả dân tộc.
Trong điều kiện ấy, Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và Tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người nói riêng từng bước được hình thành.
- Văn hoá và truyền thống của người Việt Nam.
Sinh ra và lớn lên trong một dân tộc có tinh thần yêu nước, ý chí đấu
tranh để dựng nước, giữ nước, tinh thần nhân nghĩa, truyền thống tương ái
tương thân, lạc quan, yêu đời, cần cù, thông minh, sáng tạo, v.v. Hồ Chí
Minh đã hấp thụ nó ngay từ nền giáo dục của gia đình và ngày càng được
củng cố trong cuộc đời hoạt động. Theo Người “... không phải cái gì cũ
cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng là mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ...
cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì sửa đổi cho hợp lý... cái gì
cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm...”(1). Với tinh thần ấy Hồ Chí Minh đã
trở thành “người Việt Nam hơn bất cứ người Việt Nam nào”, trở thành hình
ảnh của dân tộc Việt Nam hôm qua, hôm nay và mãi mãi(2).
(1)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.94-95.
(2)
Xem Phạm Văn Đồng: Tổ quốc ta, nhân dân ta, sự nghiệp ta và người nghệ sĩ, N xb. Văn học, Hà Nội,
1989, tr.425 và 443.
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
442
- Tinh hoa văn hoá của nhân loại.
Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng nhiều tinh hoa văn hoá của cả phương
Đông lẫn phương Tây.
Đối với văn hoá phương Đông, Hồ Chí Minh đã chắt lọc những tư
tưởng tích cực của Nho giáo và Phật giáo như thương yêu con người, tư
tưởng tu thân dưỡng tính, hành đạo cứu người, đề cao văn hoá, đạo đức,
hiếu học v.v.
Đối với văn hoá phương Tây, quá trình bôn ba tìm đường cứu nước
đã giúp Hồ Chí Minh tiếp cận với nhiều và chịu ảnh hưởng nhiều nền văn
hoá dân chủ và cách mạng phương Tây. Những tư tưởng về quyền của con
người trong “Tuyên ngôn độc lập 1776” của Mỹ, những tư tưởng về tự do,
bình đẳng, bác ái của các nhà Khai sáng như Vônte, Rútxô, Môngtécxkiơ,
v.v. đã đóng vai trò quan trọng về mặt lý luận hình thành tư tưởng dân chủ
của Hồ Chí Minh.
Giữ vai trò quyết định về mặt thế giới quan và phương pháp luận đối
với việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là quan niệm về
con người của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Khác với nhiều người tìm hiểu về chủ nghĩa Mác-Lênin là tìm hiểu
một học thuyết để lý giải những vấn đề về lý luận, Hồ Chí Minh tìm hiểu
chủ nghĩa Mác-Lênin từ nhu cầu thực tiễn là tìm đường giải phóng cho dân
tộc. Trước khi đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề
dân tộc thuộc địa” của Lênin – một tác phẩm phản ánh tập trung nhất tư
tưởng về giải phóng con người của chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện
mới, Hồ Chí Minh vẫn còn chịu ảnh hưởng tư tưởng của Phan Chu Trinh.
Song, bắt đầu từ dự thảo Luận cương này, tư tưởng về giải phóng con
người của Hồ Chí Minh đã được định hướng rõ rệt: “Chỉ có chủ nghĩa cộng
sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc
và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc
làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hoà bình, hạnh phúc...”(1).
Từ đây toàn bộ những tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh tiếp
tục được bổ sung, hoàn thiện trên nền tảng tư tưởng về con người của chủ
nghĩa Mác-Lênin và bối cảnh thực tế của Việt Nam.
2. Nội dung cơ bản của Tƣ tƣởng ồ Chí Minh về con ngƣời
(1)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.1 tr.461.
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
443
Hồ Chí Minh không có tác phẩm lý luận riêng về con người song tất
cả các bài viết và cả cuộc đời của Hồ Chí Minh là vì con người.
Hồ Chí Minh quan niệm “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em,
họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng hơn nữa là cả loài
người(2).
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là tư tưởng về cả cá
nhân, cộng đồng, giai cấp, dân tộc và về cả nhân loại.
Đối với cách mạng Việt Nam, một số nội dung cơ bản nhất về con
người trong Tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện qua Tư tưởng về giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân dân lao động; Tư
tưởng về con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng; Tư
tưởng về phát triển con người toàn diện.
a) Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng nhân dân lao động.
Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân dân lao
động thường xuyên được Hồ Chí Minh đề cập đến qua các bài viết, bài nói
của mình; một số luận điểm cơ bản được thể hiện trong đó là:
- Độc lập, tự do là quyền bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.
Tư tưởng về độc lập và tự do là quyền bất khả xâm phạm của các
dân tộc không phải là tư tưởng được Hồ Chí Minh đề cập đến đầu tiên mà
ngay từ năm 1776 nó đã được người Mỹ nói đến. Hồ Chí Minh đánh giá
đây là tư tưởng bất hủ(1) và phải được áp dụng đối với mọi quốc gia, mọi
dân tộc. Vì vậy khi độc lập, tự do bị xâm phạm thì tất cả các dân tộc đều có
quyền giành lại nó. Ngày 2 tháng 9 năm 1945 – ngày khai sinh ra nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà, thay mặt Chính phủ lâm thời, Hồ Chí Minh đã
khẳng định trước toàn thể nhân dân thế giới rằng: “Nước Việt Nam có
quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do và
độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem hết tinh thần và lực lượng,
tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”(2). Hồ Chí
Minh cũng cho thấy, khi cần dân tộc Việt Nam thà hy sinh tất cả, chứ nhất
định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ(3).
(2)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5 tr.644.
(1)
Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4 tr.1.
(2)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4 tr.4.
(3)
Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4 tr.480.
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
444
Có thể nói “Độc lập, tự do là quyền bất khả xâm phạm của các dân
tộc” là điểm xuất phát cho những tư tưởng khác về giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng nhân dân lao động của Hồ Chí Minh.
- Giải phóng dân tộc trước hết phải do chính các dân tộc thực hiện
Từ việc nghiên cứu cách mạng dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh
rút ra kết luận: giải phóng dân tộc trước hết là quá trình tự giải phóng, là
nhiệm vụ của chính bản thân các dân tộc. Năm 1921, trong Tuyên ngôn của
Hội liên hiệp thuộc địa, Hồ Chí Minh viết: “Hỡi anh em ở các thuộc địa!...
Anh em phải làm thế nào được giải phóng? Vận dụng công thức của Các
Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ
có thể thực hiện được bằng nỗ lực của bản thân anh em(4). Đối với cách
mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng khẳng định “người ta sẽ không làm gì
được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy
nhất của đời sống xã hội của họ”(5).
- Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp, giải
phóng nhân dân lao động.
Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện sâu sắc rằng quyền lợi của dân tộc,
quyền lợi của giai cấp và quyền lợi của nhân dân lao động thống nhất, gắn
bó chặt chẽ với nhau nên giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng nhân dân lao động không tách khỏi nhau. Trong cuộc đấu tranh giải
phóng này giai cấp công nhân chẳng những đấu tranh giải phóng mình mà
còn giải phóng cả loài người khỏi áp bức, bóc lột(1). Cách mạng giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp ở Việt Nam cũng không nằm ngoài mối liên
hệ ấy. Hồ Chí Minh khẳng định: Sự nghiệp của người dân bản xứ gắn mật
thiết với sự nghiệp của giai cấp vô sản trên toàn thế giới; mỗi khi chủ nghĩa
cộng sản giành được thắng lợi cho dù ở một nước nào đó thì nó cũng là
thắng lợi cho cả chúng ta(2).
Như vậy, con đường bảo đảm cho sự thắng lợi của giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân dân lao động là cách mạng vô sản
– cuộc cách mạng sâu sắc nhất, triệt để nhất để xây dựng chủ nghĩa xã hội,
chủ nghĩa cộng sản. Chỉ khi hoàn thành cuộc cách mạng này giai cấp bị bóc
(4)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.2, tr.127-128.
(5)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.1, tr.467.
(1)
Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.9, tr.288.
(2)
Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.1, tr.469.
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
445
lột, các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên toàn thế giới thoát
khỏi ách nô lệ(3).
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng nhân dân lao động là tư tưởng về sự kết hợp giữa dân
tộc với giai cấp, dân tộc với quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Đó là thực chất tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng con người.
b) Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của cách mạng.
Hồ Chí Minh luôn coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của cách mạng. Từ nhận thức “Tất cả những người lao động trên thế giới
đều có một mục đích chung là thoát khỏi ách áp bức bóc lột, được sống
sung sướng tự do, tức là thực hiện chế độ cộng sản”(4), Hồ Chí Minh quan
niệm cuộc sống của nhân dân là mục tiêu của mọi hoạt động cách mạng;
ngay cả “... nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa gì”(1), lợi ích phải là của dân, hạnh phúc phải là của
dân
(2)
.
Quan điểm của Hồ Chí Minh cho thấy độc lập, tự do chưa đủ mà
phải xây dựng một xã hội, một nhà nước của dân, vì dân. Người giải thích:
“Nước ta là một nước dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích của nhân dân
mà làm (...). Khi ai có điều gì oan ức thì có thể do các đoàn thể tố cáo lên
cấp trên. Đó là quyền dân chủ của tất cả công dân Việt Nam(3). Người
thường căn dặn: "Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan Chính phủ từ toàn
quốc cho đến làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc
chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền
thống trị của Pháp, Nhật"(4). Người coi tất cả những hành động làm hại đến
dân là những hành động trái với đạo đức, những hành động xấu xa của con
người(5) và coi những người thực hiện những hành động ấy là những con
sâu, con mọt(6).
(3)
Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.10, tr.128.
(4)
Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr.209.
(1)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr.56.
(2)
Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.698.
(3)
Hồ Chí Minh: Biên niên sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.439.
(4)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr.56.
(5)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.209.
(6)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.435.
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
446
Như vậy, xác định nhân dân lao động là mục tiêu của sự nghiệp cách
mạng và hướng toàn bộ hoạt động của mình nhằm đạt đến mục tiêu đó là
tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá vừa ở góc độ chính trị, tư tưởng, vừa ở góc
độ đạo đức đối với đời sống của mỗi cá nhân, mỗi tổ chức xã hội.
Gắn bó nhất quán với tư tưởng "con người là mục tiêu của cách
mạng" là tư tưởng "con người là động lực của cách mạng".
Hồ Chí Minh quan niệm "... vô luận việc gì đều do người làm ra, và
từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả"(7).
Khi xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam là giải phóng con
người bằng cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh nhấn mạnh
"Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã
hội chủ nghĩa"(8). Chủ nghĩa xã hội không phải từ trên trời rơi xuống, không
phải từ dưới đất mọc lên, cũng không phải là một chế độ xã hội có sẵn để
con người đến ở mà "chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được với sự giác
ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu người"(1). Vì vậy, để
có một xã hội dân chủ, một nhà nước dân chủ, Hồ Chí Minh chỉ rõ:
"Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân"(2).
Có thể nói tư tưởng "con người vừa là mục tiêu của cách mạng" là tư
tưởng sự nghiệp cách mạng, thành quả cách mạng của dân, do dân và vì
dân.
c) Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện
Phát triển con người toàn diện là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong
tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự hưng hay suy của một dân tộc, một quốc gia
không chỉ là dân tộc ấy, quốc gia ấy đã từng giải quyết nhiệm vụ lịch sử đặt
ra cho họ như thế nào mà còn là họ chuẩn bị con người cho tương lai ra
sao. Vì vậy, tại lớp học của giáo viên cấp II, III toàn miền Bắc ngày 13
tháng 9 năm 1958, Hồ Chí Minh dạy: "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng
(7)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.241.
(8) Hồ Chí Minh: Toà n tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.9, tr..303.
(1)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.8, tr..494-495.
(2)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr..698.
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
447
cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người"(3). "Trồng người" là quá trình
xây dựng con người toàn diện - quá trình làm phát triển hoàn toàn những
năng lực sẵn có của con người(4).
Thực hiện quá trình này không phải theo sở thích của mỗi cá nhân,
mỗi tổ chức mà phải xuất phát từ yêu cầu của cách mạng. Từ những yêu
cầu ấy con người xác định mục đích, xác định tiêu chuẩn, xác định nguyên
tắc, v.v. để tất cả các tổ chức, các cá nhân theo đó thực hiện. Hồ Chí Minh
ví "...xây dựng con người cũng phải có ý định rõ ràng như nhà kiến trúc
sư"(5).
Như vậy, mỗi cuộc cách mạng, mỗi một chế độ xã hội sẽ có những
tiêu chuẩn riêng, những mẫu hình riêng về con người toàn diện. Cách mạng
Việt Nam là cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện chế độ dân chủ,
xã hội dân chủ nên những nội dung về phát triển con người toàn diện trong
tư tưởng Hồ Chí Minh cũng hướng đến mục đích này.
Nội dung phát triển con người toàn diện được Hồ Chí Minh đề cập
đến rất cụ thể. Những nội dung cơ bản trong tư tưởng đó là:
- Tiêu chuẩn cơ bản hàng đầu của con người toàn diện là đức và tài.
Đức và tài còn được Hồ Chí Minh dùng là hồng và chuyên. Tuy
quan niệm đây là hai tiêu chuẩn kết hợp hài hoà với nhau nhưng nhìn
chung Hồ Chí Minh nói nhiều đến đức và trong diễn đạt của Người, đức
luôn được đề cập đến trước.
Đức được hiểu là đạo đức song "Đạo đức đó không phải là đạo đức
thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng cá
nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người"(1).
Theo Hồ Chí Minh, những yêu cầu cơ bản của đức là: Trung với
nước, hiếu với dân; yêu thương con người; cần, kiệm, liêm, chính, chí
công, vô tư; có tinh thần quốc tế vô sản(2).
(3)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.9, tr.222.
(4)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.4, tr..32.
(5)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.12, tr.551.
(1)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.202.
(2)
Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr.632, 636, 640, 641, 643,
648.
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
448
Tài được hiểu là năng lực của con người để giải quyết nhiệm vụ
được giao phó. Năng lực ấy thể hiện tập trung ở trình độ văn hoá, khoa học,
kỹ thuật và lý luận(3).
- Nguyên tắc cơ bản để xây dựng con người toàn diện là tu dưỡng,
rèn luyện trong hoạt động thực tiễn và thực hiện đồng bộ quá trình giáo
dục và tự giáo dục.
Hồ Chí Minh quan niệm phẩm chất, năng lực của con người không
phải có sẵn, cũng không phải "từ trên trời sa xuống" mà "Nó do đấu tranh,
rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố"(4). Quá trình đấu
tranh, rèn luyện ấy cũng chính là quá trình giáo dục, tự giáo dục trong hoạt
động thực tiễn.
Theo Hồ Chí Minh, giáo dục là công việc của toàn xã hội và đối với
toàn xã hội. Người đặc biệt nhấn mạnh đến tầm quan trọng của giáo dục
đối với thế hệ trẻ vì thế hệ này còn trong sạch như tấm lụa trắng chưa màu,
nhuộm xanh nó sẽ xanh, nhuộm đỏ nó sẽ đỏ, xã hội cần những con người
như thế nào thì thông qua giáo dục thế hệ này sẽ phát triển theo hướng
ấy(1).
Hồ Chí Minh cũng cho rằng tự giáo dục là quá trình mình giáo dục
mình, mình cải tạo mình, mình thực hiện cuộc cách mạng trong chính bản
thân mình. Thực hiện cuộc cách mạng ngoài xã hội khó khăn như thế nào
thì thực hiện cuộc cách mạng trong bản thân mình cũng khó khăn như thế
vậy. Song, không thể thực hiện được cuộc cách mạng ngoài xã hội nếu
không thực hiện được cuộc cách mạng trong bản thân mình và cũng không
thể thực hiện được cuộc cách mạng trong bản thân mình nếu không thực
hiện được cuộc cách mạng ngoài xã hội(2).
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện liên quan
đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đến mỗi cá nhân và mỗi cộng
đồng.
Mẫu hình con người toàn diện với những tiêu chuẩn chung nhất
trong toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh được đề cập đến không nhiều mà Hồ
(3)
Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.8, tr.221; t.4, tr.36.
(4)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.9, tr.293.
(1)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.5, tr1202.
(2)
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.7, tr.148; t.9, tr.293, 303.
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
449
Chí Minh thường nói về đến từng đối tượng cụ thể (công nhân, nông dân,
bộ đội, công an, thanh niên, nhi đồng v.v.) trong từng hoàn cảnh cụ thể
tương ứng với yêu cầu của cách mạng trong hoàn cảnh ấy. Điều này không
chỉ phản ánh biện chứng của quá trình phát triển con người toàn diện trong
hiện thực mà còn phản ánh con người toàn diện được phát triển biện chứng
trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
IV. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG CON NGƢỜI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN IỆN
NAY
1. Con ngƣời Việt Nam trong lịch sử
a) Điều kiện lịch sử hình thành con người Việt Nam
Con người Việt Nam hình thành dưới sự tác động đa dạng của các
điều kiện tự nhiên và xã hội, song trước hết phải kể đến: - Sự tác động của
môi trường - địa lý; - Đời sống kinh tế; - Lịch sử giữ nước; - Sự tác động
của môi trường văn hoá.
- Sự tác động của môi trường - địa lý.
Nơi khai sinh lập nghiệp của tổ tiên người Việt là vùng đất mới được
bồi đắp, nằm giữa một bên là núi và một bên là biển nên hệ thống sông
ngòi thoát nước chằng chịt. Nhiều nghìn năm sống trên vùng đất này, dấu
vết sông nước đã in đậm nét trong cách tư duy và văn hoá người Việt.
Phù sa của sông ngòi, nắng lắm, mưa nhiều của vùng nhiệt đới vừa là
điều kiện lý tưởng cho trồng trọt và chăn nuôi trên những mảnh đất đã bị
sông ngòi giới hạn, vừa là những thử thách đối với con người qua dông,
bão, lũ, lụt. Những điều kiện ấy từng bước hình thành cuộc sống tiểu nông
lúa nước với tư duy tiểu nông lúa nước, văn hoá tiểu nông lứa nước cùng
những phẩm chất, năng lực cần có để chống thiên tai, gìn giữ thành quả lao
động của người Việt.
Về địa lý, Việt Nam nằm ở Đông Nam Châu Á - khu vực vừa có vị
trí chiến lược, vừa là nơi giao thoa của nhiều nền văn hoá nên nhiều thế lực
muốn chiếm để sử dụng như một căn cứ quân sự và người Việt Nam chịu
ảnh hưởng của nhiều luồng tư tưởng khác nhau.
- Đời sống kinh tế
Môi trường - địa lý đã quyết định nền kinh tế tiểu nông của người
Việt. Thích ứng với nền sản xuất này là những đơn vị sản xuất gia đình và
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
450
những cộng đồng làng xã để hợp lực chống thiên tai, giúp nhau trong sản
xuất cũng như trong cơn hoạn nạn.
Gắn liền với cộng đồng làng xã là nền dân chủ làng xã biểu thị tập
trung qua lệ làng, hương ước. Mỗi cộng đồng có lệ làng, hương ước riêng
để bảo vệ lợi ích và sự ổn định trật tự của mình.
Nền kinh tế tiểu nông và kết cấu kinh tế, tổ chức hành chính làng xã
đã hình thành ở người Việt Nam nhiều phẩm chất đạo đức, năng lực, quan
điểm, quan niệm và tầm nhìn tương ứng.
- Lịch sử giữ nước
Việt Nam là một trong những quốc gia bị nhiều thế lực lớn, mạnh
hơn về tiềm lực kinh tế và quân sự xâm chiếm, đô hộ. Chỉ tính riêng Trung
Quốc, từ khi nhà Trần ra đời cho đến nhà Thanh, không một triều đại nào
lại không thực hiện chiến tranh thôn tính Việt Nam. Trong lịch sử, người
Việt Nam bị nhiều thế lực ngoại bang đô hộ mà có thời gian sự đô hộ kéo
dài liên tục hơn mười thế kỷ.
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã hình thành nên những phẩm chất và
năng lực của những con người thường xuyên phải chiến đấu trong thế trận
không cân sức để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và sự sống của mình.
- Môi trường văn hoá
Từ hoàn cảnh địa lý và lịch sử giữ nước, người Việt chịu ảnh hưởng
nhiều nền văn hoá của các dân tộc khác nhau trên thế giới trong đó nổi lên
là Trung Quốc, Ấn Độ, Pháp. Có những hệ tư tưởng của các dân tộc này đã
từng là quốc giáo Việt Nam như Nho giáo, Phật giáo.
Đầu thế kỷ XX, qua hoạt động của Nguyễn ái Quốc, người Việt Nam
tiếp cận với Chủ nghĩa Mác-Lênin và từ khi Đảng cộng sản Việt Nam được
thành lập thì Chủ nghĩa Mác-Lênin đã trở thành hệ tư tưởng định hướng
cho cách mạng Việt Nam.
Môi trường văn hoá đa dạng đã đem đến sự đa dạng trong đời sống
tinh thần của người Việt Nam nói riêng, toàn bộ đời sống của người Việt
Nam nói chung trên nền kinh tế - văn hoá tiểu nông lúa nước.
b) Mặt tích cực và hạn chế của người Việt Nam trong lịch sử
Phẩm chất và năng lực của người Việt Nam hình thành trong môi
trường tự nhiên mà người Việt Nam sinh sống, trong những điều kiện kinh
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
451
tế - chính trị - văn hoá - xã hội và những yêu cầu của nó đặt ra trong từng
giai đoạn lịch sử. Hiện nay cách mạng Việt Nam có những yêu cầu mới. Từ
những yêu cầu này nhìn lại, người Việt Nam có nhiều mặt tích cực nhưng
cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế.
Những mặt tích cực của người Việt Nam trong lịch sử được Đảng
Cộng sản Việt Nam coi là bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững,
những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua
hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là: Lòng yêu nước
nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc; Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng
gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; Lòng nhân ái, khoan dung,
trọng nghĩa tình, đạo lý; Đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; Tinh tế
trong ứng xử, giản dị trong lối sống(1).
Những mặt hạn chế của người Việt Nam trong lịch sử bộc lộ qua:
+ Truyền thống dân chủ làng xã.
Truyền thống dân chủ làng xã là sản phẩm tất yếu của cộng đồng
làng xã mà cuộc sống tiểu nông tự cung, tự cấp đã tạo ra. Cùng việc hình
thành tinh thần đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau trong cuộc sống, cộng
đồng làng xã đã sản sinh dân chủ làng xã. Đây là hình thức dân chủ sơ khai
thể hiện hình thức tự quản, các thành viên trong cộng đồng giám sát nhau
chủ yếu qua dư luận của cộng đồng. Điều này thường dẫn đến cục bộ dòng
họ, làng xã; tư tưởng bình quân chủ nghĩa; hay can thiệp vào cuộc sống
riêng tư, can thiệp vào quá trình phát triển của cá thể; thiếu tinh thần tự
giác khi dư luận cộng đồng không còn được coi trọng nên dễ hành động tự
do, tuỳ tiện; coi thường luật pháp bởi "phép vua thua lệ làng" v.v.
+ Tập quán sản xuất tiểu nông.
Tập quán sản xuất tiểu nông là sản phẩm của môi trường và địa lý.
Tập quán này dẫn đến khả năng hạch toán kinh tế kém cỏi, nặng về lợi ích
trước mắt nên dễ bỏ qua lợi ích lâu dài; thiếu chuẩn xác về thời gian, kỹ
thuật; tâm lý cầu an, cầu may; thích bình quân, không chấp nhận sự phân
hoá trong cuộc sống; v.v.
+ Đề cao kinh nghiệm
Đề cao đến mức gần như tuyệt đối hoá vai trò của kinh nghiệm là sản
phẩm của nền sản xuất nông nghiệp lúa nước, đặc biệt là nền sản xuất nhỏ,
(1)
Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.56.
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
452
manh mún. Nền sản xuất này có quy trình ổn định và chủ yếu chịu sự chi
phối có tính ổn định của tự nhiên nên kinh nghiệm được đánh giá rất cao.
Điều này dẫn đến việc xem thường lý luận; xem thường tuổi trẻ; quyền lực
thuộc về những người lâu năm, nhiều tuổi, "sống lâu lên lão làng"; v.v.
+ Tính hai mặt của một số truyền thống
Một số truyền thống của người Việt Nam cũng bộc lộ tính hai mặt
của nó như sống giản dị, ghét cầu kì, xa hoa là phẩm chất tốt song dễ dẫn
đến sự hạ thấp nhu cầu, trong khi nhu cầu là một trong những động lực phát
triển của xã hội; truyền thống cần cù; giỏi chịu đựng gian khổ cũng là phẩm
chất tốt nhưng cũng dễ dẫn đến sự cam chịu, thoả mãn, bằng lòng với cái
hiện có; v.v.
2. Con ngƣời Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
a) Cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay và những vấn đề đặt ra
đối với con người Việt Nam
Cách mạng Việt Nam đang diễn ra trong những biến đổi sâu sắc,
phức tạp của thế giới; trên những thành tựu lớn lao mà dân tộc Việt Nam đã
đạt được và trước những cơ hội và những thách thức mà người Việt Nam
phải nắm bắt và phải vượt qua.
Trên thế giới, cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ
đưa nhân loại vào nền văn minh trí tuệ với hai đặc trưng cơ bản là xã hội
hoá thông tin và kinh tế tri thức đã tạo cơ sở vật chất cho quá trình toàn cầu
hoá dẫn đến xu hướng liên kết, hợp tác ngay cả giữa các quốc gia có chế độ
chính trị khác nhau trong cuộc cạnh tranh để tồn tại và phát triển.
Cục diện chính trị thế giới thay đổi bởi sự thoái trào của chủ nghĩa xã
hội; sự phân hoá của các quốc gia độc lập và khả năng tự điều chỉnh của
chủ nghĩa tư bản.
Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, chạy đua vũ trang, xung đột
dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, diễn ra ở
nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp.
Khu vực Đông Nam Á - Thái Bình Dương đang phát triển nhưng vẫn
tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định.
Tuy vậy, hoà bình, hợp tác và phát triển đang trở thành xu thế lớn
của thời đại hiện nay.
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
453
Ở trong nước, trải qua quá trình đổi mới, cơ sở vật chất - kỹ thuật
của nền kinh tế được tăng cường. Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn
định. Môi trường hoà bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích
cực trên thế giới tạo điều kiện để người Việt Nam tiếp tục phát huy nội lực
và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
Đồng thời bốn nguy cơ (tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham
nhũng và tệ quan liêu; "diễn biến hoà bình" do các thế lực thù địch gây ra)
đối với người Việt Nam đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen,
tác động lẫn nhau. Tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân. Việt Nam vẫn còn là
nước kinh tế kém phát triển, mức sống nhân dân còn thấp, trong khi đó
cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt(1).
Từ tình hình thực tế của đất nước và thế giới, từ mục tiêu chung là
"độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh"(2), nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay là: "Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa"(1).
Thực tiễn đang đòi hỏi người Việt Nam phải đạt được những yêu cầu
mới để thực hiện nhiệm vụ của giai đoạn trong mục tiêu chung trước những
diễn biến đa dạng, phức tạp của thế giới, trước những cơ hội và thử thách
của chính mình.
b) Xây dựng con người Việt Nam đáp ứng của giai đoạn cách
mạng hiện nay.
Đồng thời với việc kiên trì đấu tranh chống thoái hoá, biến chất, xây
dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là hình thành và phát
triển ở con người những đức tính cơ bản:
(1)
Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IXĩ, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2001, tr.66-67.
(2)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IXĩ, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2001, tr.85-86.
(1)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứIXĩ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2001, tr.60.
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
454
" - Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo
nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực,
nhân nghĩa tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý
thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng
tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn,
trình độ thẩm mỹ và thể lực"(2).
Để đạt được điều này người Việt Nam đã và đang tập trung đầu tư
vào những lĩnh vực chủ yếu nhất của xã hội như:
- Trên lĩnh vực kinh tế: Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa(3).
Đây là vận dụng một trong những quy luật nền tảng xây dựng con
người mới là: Xây dựng con người phải thông qua cơ chế lao động. Việc
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa
không chỉ tạo công ăn việc làm cho mọi người mà còn thông qua cơ chế thị
trường với những đòn bẩy kinh tế để kích thích năng lực lao động làm việc
cho mình và cho xã hội.
- Trên lĩnh vực chính trị: Khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội trên nền tảng của chủ nghĩa nhằm nâng cao tính tích cực chính trị của
nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia nhiều hơn vào quản lý nhà
nước, quản lý xã hội(1).
(2)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII. Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr58-59.
(3)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2001, tr.86.
(1)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2001, tr. 83, 113.
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
455
- Trên lĩnh vực xã hội: Giải phóng con người khỏi sự thao túng của
các quan hệ xã hội cũ đã lỗi thời, kế thừa truyền thống tốt đẹp, xây dựng hệ
thống những chuẩn mực quan hệ mới(2).
- Trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo - khoa học, công nghệ
Giáo dục và đào tạo - khoa học, công nghệ được coi là "quốc sách
hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài"(3),
"là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước"(4).
- Trên lĩnh vực văn hoá: "Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc được coi vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động của văn hoá nhằm xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất,
năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn
trọng nghĩa tình, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội"(5).
Có thể nói xây dựng con người đang được người Việt Nam thực hiện
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những lĩnh vực khác nhau có
những trọng tâm khác nhau nhưng đều hỗ trợ nhau để hình thành cuộc sống
mới với những con người mới.
MỤC LỤC
Trang
Chương I. Khái luận về triết học và Lịch sử triết học 1
Chương II. Khái lược Lịch sử triết học Phương Đông 15
Chương III. Khái lược Lịch sử triết học Phương Tây 69
(2)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2001, tr.115-116.
(3)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2001, tr.114.
(4)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2001, tr.112.
(5)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2001, tr.114.
Sƣu tập Tô Thành Lê
Email: lethanhto@gmail.com
456
Chương IV. Khái lược Lịch sử triết học Mác - Lênin 151
Chương V. Chủ nghĩa Duy vật biện chứng - cơ sở lý luận
của thế giới quan khoa học
224
Chương VI. Phép biện chứng duy vật - Phương pháp luận
nhận thức khoa học và thực tiễn
247
Chương VII. Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
của triết học Mác - Lênin
305
Chương
VIII.
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội với con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
327
Chương IX. Giai cấp, dân tộc, nhân loại trong thời đại hiện
nay và vận dụng vào xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam
355
Chương X. Lý luận về Nhà nước và Nhà nước Pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
387
Chương XI. Quan điểm của Triết học Mác - Lênin về con
người và vấn đề xây dựng con người Việt Nam
hiện nay
415
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_triet_hoc_cho_hoc_vien_cao_hoc_6354.pdf