Cần sửa đổi, bổ sung quy định trách
nhiệm của NLĐ khi đơn phương chấm dứt
HĐLĐ trái pháp luật và gây thiệt hại cho
NSDLĐ. Mặc dù các quy định của pháp luật
hiện nay muốn bảo vệ NLĐ, đảm bảo đảm
quyền tự do làm việc của NLĐ, nhưng cũng
phải đảm bảo quyền, lợi ích của NSDLĐ bị
thiệt hại do hành vi đơn phương chấm dứt
HĐLĐ của NLĐ, dù việc đơn phương chấm
dứt HĐLĐ đó là đúng hay trái quy định của
pháp luật hay thoả thuận của các bên. Bởi vì,
khi tham gia vào QHLĐ, trở thành một bên
của quan hệ này, NSDLĐ cũng rất tốn kém
trong việc đầu tư các chi phí là máy móc,
thiết bị; vốn; dây chuyền, công nghệ; phải
đảm bảo các điều kiện an toàn, vệ sinh lao
động cho NLĐ. Do đó, trường hợp nếu NLĐ
đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật
mà chỉ phải “bồi thường cho NSDLĐ nửa
tháng lương theo HĐLĐ”14 là chưa hợp lý,
không đảm bảo quyền lợi và các chi phí bỏ ra
hình thành nên QHLĐ của NSDLĐ. Vì vậy,
theo chúng tôi, cần xem xét tăng mức bồi
thường thiệt hại từ “nửa tháng tiền lương”
lên một tháng hoặc hai tháng tiền lương theo
HĐLĐ, nhằm ràng buộc mức trách nhiệm
của NLĐ; hạn chế việc đơn phương chấm
dứt HĐLĐ của NLĐ. Ngoài ra, trong một
số trường hợp nếu gây ra thiệt hại lớn, gây
bất ổn trong đơn vị thì ngoài việc phải bồi
thường một, hai tháng tiền lương, còn phải
bồi thường những thiệt hại khác phát sinh
cho NSDLĐ.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 209 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Góp ý dự thảo luật thanh niên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GÓP Ý DỰ THẢO LUẬT THANH NIÊN (SỬA ĐỔI)
Tóm tắt:
Dự thảo Luật Thanh niên (sửa đổi) đang được Quốc hội thảo luận
cho ý kiến. Tuy nhiên, trong Dự thảo luật vẫn còn những hạn chế,
bất cập cần được tiếp tục hoàn thiện, cụ thể: (i) phương pháp tiếp
cận thanh niên như là chủ thể quan hệ pháp luật; là đối tượng thụ
hưởng chính sách, pháp luật về thanh niên; và là chủ thể thực hiện
chính sách, pháp luật về thanh niên; và (ii) quyền và nghĩa vụ của
thanh niên.
Nguyễn Mai Bộ*
* TS. Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội
Abstract
The bill of Law on the Youth (amendment) is being under discussions
and comments by the National Assembly. However, there are still
shortages and shortcomings in the draft Law that need to be further
reviewed for improvements, namely: (i) the approach to the youth
as the subject of legal relations; beneficiaries of youth policies and
laws; and the subject implementing the policies and laws on youth;
and (ii) the rights and obligations of the youth.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Luật thanh niên, quyền và
nghĩa vụ của thanh niên; chính sách
đối với thanh niên
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 17/07/2019
Biên tập : 21/08/2019
Duyệt bài : 26/08/2019
Article Infomation:
Keywords: Law on the youth; rights
and obligations of the youth; policies
for the youth.
Article History:
Received : 17 Jul. 2019
Edited : 21 Aug. 2019
Approved : 26 Aug. 2019
1. Phạm vi điều chỉnh
Việc xác định phạm vi điều chỉnh của
Luật Thanh niên phải căn cứ vào vị trí, vai
trò của thanh niên trong các quan hệ xã hội
với tư cách là chủ thể quan hệ pháp luật;
là đối tượng thụ hưởng chính sách, pháp
luật về thanh niên; và là chủ thể thực hiện
chính sách, pháp luật về thanh niên. Để xây
dựng dự thảo Luật Thanh niên (Dự thảo
Luật), phải xác định vấn đề cốt lõi "chính
sách, pháp luật về thanh niên là gì?". Dự
thảo Luật chưa xác định được vấn đề nêu
1 Xem: Khoản 3 và 4 Điều 5 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
trên nên chưa giải quyết được vấn đề Luật
Thanh niên là luật khung hay luật quy định
chi tiết chính sách, pháp luật về thanh niên.
Toàn bộ các quy định Điều 39 đến Điều 44
của Chương III "Chính sách đối với thanh
niên" đều được thiết kế theo công thức "Nhà
nước có chính sách...." nhưng chính sách cụ
thể là gì thì không rõ. Với những quy định
như vậy sẽ không bảo đảm nguyên tắc minh
bạch và tính khả thi trong văn bản quy phạm
pháp luật1.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
21Số 16(392) T8/2019
2. Tính logic giữa việc giải thích từ ngữ
với nội dung của Dự thảo Luật
Thứ nhất, nội dung của Điều 1 là quy
phạm định nghĩa nên phải thuộc nội dung
của Điều 4 - giải thích.
Thứ hai, Điều 4 có 5 chủ thể quan hệ
của pháp luật về thanh niên là "Thanh niên
xung phong", "Thanh niên tình nguyện",
"Thanh niên di cư", "Thanh niên có triển
vọng tài năng" và "Thanh niên khuyết tật"
được giải thích theo nghĩa là cá nhân và việc
thực hiện chính sách này phải thông qua
một tổ chức của thanh niên hoặc cơ quan,
doanh nghiệp, nhà trường, cơ sở nghiên cứu
nơi thanh niên làm việc, học tập hoặc nghiên
cứu. Tuy nhiên, với những chính sách quy
định tại các Điều 39, 40, 41, 42 và 44 thì tổ
chức của thanh niên, cơ quan, doanh nghiệp,
nhà trường, cơ sở nghiên cứu nơi thanh niên
làm việc, học tập hoặc nghiên cứu hầu như
không được đề cập tới như một chủ thể bảo
đảm cho thanh niên được thụ hưởng chính
sách, pháp luật về thanh niên.
3. Đối tượng áp dụng
Điều 3 quy định rất nhiều đối tượng
bị áp dụng Luật Thanh niên, bao gồm: các
cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên, các tổ
hội, quỹ, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp,
gia đình, công dân Việt Nam... Theo đó, các
cơ quan, tổ chức này là những chủ thể bảo
đảm cho thanh niên được thụ hưởng chính
sách, pháp luật về thanh niên, tuy nhiên
Chương VI Dự thảo Luật chỉ quy định trách
nhiệm của một số chủ thể (nhà trường, tổ
chức xã hội, tổ chức kinh tế) là chưa bảo
đảm sự thống nhất giữa các điều khoản trong
Dự thảo Luật.
4. Một số quy định cụ thể
Thứ nhất, một số quy định chung
- Điều 5 Dự thảo Luật mới chỉ quy định
"Nguyên tắc bảo đảm thực hiện quyền và
nghĩa vụ của thanh niên" mà không quy định
nguyên tắc thực hiện chính sách, pháp luật về
thanh niên là chưa đầy đủ, bởi lẽ, quyền và
nghĩa vụ của thanh niên chỉ là một bộ phận
của chính sách, pháp luật về thanh niên.
- Tên Điều 8 "Nguồn lực bảo đảm thực
hiện chính sách phát triển thanh niên" không
logic với nội dung được đề cập trong điều
luật. Bởi lẽ, nguồn lực bảo đảm xây dựng và
tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật đối
với thanh niên bao gồm nguồn lực về con
người và nguồn lực vật chất (kinh phí) hoạt
động, nhưng nội dung điều luật mới chỉ quy
định về nguồn lực tài chính. Một nguồn tài
chính rất lớn của Đoàn Thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh là đoàn phí nhưng chưa được
quy định tại Điều luật này.
Thứ hai, quy định về quyền
- Theo chúng tôi, cần nghiên cứu, rà
soát để bảo đảm đầy đủ các lĩnh vực hoạt
động đặc thù của thanh niên như khi tham
gia tổ chức: Thanh niên xung phong thực
hiện các nhiệm vụ đột xuất, cấp bách có khó
khăn, gian khổ; Thanh niên tình nguyện hoạt
động vì lợi ích của cộng đồng, của xã hội...
- Các quyền đã được quy định trong dự
thảo Luật Thanh niên phải bảo đảm đồng bộ
với các văn bản pháp luật chuyên ngành, như:
+ Quy định về quyền trong học tập
phải đồng bộ với quy định của Luật Giáo
dục, Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục
nghề nghiệp
+ Quy định về quyền trong lao động
việc làm phải đồng bộ với quy định của Bộ
luật Lao động, nhất là quy định tại Chương XI
"Những quy định riêng đối với lao động chưa
thành niên và một số loại lao động khác".
+ Quy định về quyền trong bảo vệ sức
khỏe phải đồng bộ với quy định của Luật
Khám chữa bệnh, Luật Phòng chống HIV/
AIDS.
+ Quy định về quyền trong hoạt động văn
hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao phải đồng bộ
với quy định của Luật Thể dục, thể thao.
+ Quy định về quyền trong hoạt động
khoa học, công nghệ và bảo vệ tài nguyên phải
đồng bộ với quy định của Luật Khoa học, công
nghệ, Luật Bảo vệ tài nguyên, môi trường...
+ Quy định về quyền trong hôn nhân
và gia đình phải đồng bộ với quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bình đẳng
giới, Luật Phòng chống bạo lực gia đình.
(Xem tiếp trang 35)
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
22 Số 16(392) T8/2019
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG
KHI ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
Tóm tắt:
Pháp luật lao động hiện hành quy định trách nhiệm bồi thường thiệt
hại khi người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái
pháp luật tương đối cụ thể cả về căn cứ chấm dứt và thủ tục chấm
dứt. Tuy nhiên, thực tế thực hiện các quy định về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động vẫn còn những vướng mắc, bất cập. Vì thế, việc đưa ra một
số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại khi người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động là rất quan trọng, nhằm đảm bảo việc duy trì quan hệ lao động
và bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng cho mỗi bên.
Lê Văn Đức*
* ThS. Trường Trung cấp luật Đồng Hới, Bộ Tư pháp
Abstract
The applicable law on labor stipulates the liability for the
compensations when the employee unilaterally terminates the labor
contract, specifically, on the aspects of the grounds of and procedures
for termination. However, the practical enforcement of regulations
on liability for compensation due to unilateral termination of
labor contracts still has shortcomings. Therefore, it is important to
review for improvements of the relevant regulations on liability for
compensations when the employees unilaterally terminate the labor
contracts, to ensure the maintenance of labor relations and protect
the rights and legitimate interests of each party.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: pháp luật về lao động;
chấm dứt hợp đồng lao động; bồi
thường thiệt hại
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 27/06/2019
Biên tập : 21/06/2019
Duyệt bài : 27/06/2019
Article Infomation:
Keywords: law on labor; termination
of labor contract; compensations.
Article History:
Received : 27 Jun 2019
Edited : 21 Jun 2019
Approved : 27 Jun 2019
Bồi thường thiệt hại (BTTH) là một
biện pháp kinh tế thông dụng, được áp dụng
với nhiều loại quan hệ xã hội nhằm mục
đích bù đắp một khoản vật chất, tinh thần và
sức khoẻ cho chủ thể bị thiệt hại. Theo đó,
trách nhiệm BTTH trong quan hệ lao động
(QHLĐ) là trách nhiệm pháp lý phát sinh khi
một bên trong QHLĐ có hành vi trực tiếp
hay gián tiếp vi phạm nghĩa vụ, gây thiệt hại
cho bên kia nhằm khôi phục tình trạng tài
sản, bù đắp tổn thất về tinh thần, sức khỏe
cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm này có
thể được pháp luật quy định hoặc do các bên
thoả thuận. Theo quy định của pháp luật lao
động, bên cạnh vấn đề BTTH về tính mạng,
sức khỏe cho người lao động (NLĐ); BTTH
của người sử dụng lao động (NSDLĐ) khi
chấm dứt hợp đồng lao động (HĐLĐ) vì lý
do thay đổi cơ cấu, công nghệ hay lý do kinh
tế cho NLĐ thì vấn đề BTTH do NLĐ đơn
phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật cũng
là nội dung luôn được quan tâm.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
23Số 16(392) T8/2019
1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người lao động đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động
HĐLĐ là cơ sở pháp lý làm phát sinh
QHLĐ cá nhân giữa NLĐ và NSDLĐ. Sau
khi ký kết HĐLĐ, những thoả thuận về
quyền và nghĩa vụ mà các bên đã ký kết sẽ có
giá trị ràng buộc đối với mỗi bên. Tuy nhiên,
trong quá trình thực hiện, do những lỗi chủ
quan, khách quan; cố ý, vô ý khác nhau có
thể có những hành vi vi phạm HĐLĐ, diễn
ra không theo đúng những thoả thuận mà các
bên đã cam kết trước đó dẫn đến phải BTTH.
Khi giao kết HĐLĐ, mỗi bên có quyền tự do
thỏa thuận theo ý chí mong muốn của mình
trong khuôn khổ pháp luật quy định, nên khi
HĐLĐ đã có hiệu lực, NLĐ và NSDLĐ phải
tuân theo những quy định của pháp luật lao
động và những thỏa thuận trong HĐLĐ. Vì
vậy, khi thực hiện HĐLĐ, nếu NLĐ vi phạm
đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật
thì phải có nghĩa vụ bồi thường những thiệt
hại tương ứng mức độ vi phạm.
Bộ luật Lao động (BLLĐ) năm 2012
quy định về các trường hợp đơn phương
chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật. Theo đó,
“đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật
là các trường hợp chấm dứt HĐLĐ không
đúng quy định tại Điều 37, Điều 38, Điều
39 Bộ luật này”1. Theo quy định này, NLĐ
đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật
là trường hợp đơn phương chấm dứt không
đúng căn cứ chấm dứt hoặc vi phạm thời
gian báo trước. Theo đó, NLĐ đơn phương
chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật được hiểu là
trường hợp NLĐ chấm dứt HĐLĐ không
tuân thủ các căn cứ chấm dứt HĐLĐ hoặc
không tuân thủ thủ tục chấm dứt HĐLĐ.
Như vậy, khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ,
1 Điều 41, Bộ luật Lao động năm 2012.
2 Điều 15, Luật Tiêu chuẩn lao động Hàn Quốc năm 2009.
3 Điều 8, Luật Hợp đồng lao động Trung Quốc năm 2007.
4 Điều 130, Luật Tiêu chuẩn lao động Nhật Bản năm 1976.
5 Điều 123, Luật Hợp đồng lao động của Trung Quốc năm 2007.
NLĐ phải đáp ứng đồng thời hai điều kiện
là vừa phải có căn cứ chấm dứt HĐLĐ đúng
pháp luật, vừa phải thực hiện thủ tục báo
trước đúng pháp luật. Nếu vi phạm các quy
định đó, việc chấm dứt HĐLĐ bị coi là trái
pháp luật và phải thực hiện nghĩa vụ BTTH.
Mục đích của việc đưa ra quy định này là
nhằm đảm bảo cho hoạt động lao động luôn
được duy trì, tránh thiệt hại cho NSDLĐ khi
NLĐ nghỉ việc.
Về căn cứ chấm dứt, pháp luật lao
động của một số nước rất coi trọng và đưa ra
quy định rất chặt chẽ, nếu không đảm bảo sẽ
bị coi là trái pháp luật “khi một HĐLĐ đưa
ra các điều kiện làm việc không đáp ứng các
tiêu chuẩn trong luật thì quy định đó không
có hiệu lực” và “Trong trường hợp điều
kiện làm việc thông báo khi giao kết HĐLĐ
không thống nhất với các điều kiện thực tế
thì NLĐ có quyền yêu cầu NSDLĐ đền bù
thiệt hại do vi phạm hoặc có thể chấm dứt
HĐLĐ ngay lập tức”2; “Khi giao kết HĐLĐ,
doanh nghiệp phải thông báo cho NLĐ về
công việc, những rủi ro phòng tránh trong
nghề nghiệp, điều kiện an toàn sản xuất, trả
công lao động và các vấn đề khác mà NLĐ
muốn biết”3; và “Nếu những điều kiện
làm việc được nêu rõ không đúng với thực
tế thì NLĐ có thể huỷ bỏ HĐLĐ mà không
cần báo trước và NSDLĐ phải chịu tiền phí
tổn đi lại cho NLĐ trong vòng 14 ngày sau
khi HĐLĐ bị huỷ bỏ”4.
Về thủ tục chấm dứt, đây cũng là nội
dung được đặt ra làm cơ sở cho việc xác
định trách nhiệm BTTH của NLĐ khi tham
gia QHLĐ. Vì vậy, pháp luật của các quốc
gia cũng rất coi trọng nội dung này: “NLĐ
có thể huỷ bỏ HĐLĐ bằng cách báo trước
30 ngày bằng văn bản cho doanh nghiệp”5;
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
24 Số 16(392) T8/2019
“HĐLĐ có thể huỷ bỏ bất cứ lúc nào theo
sự thoả thuận của hai bên ký kết HĐLĐ”,
nhưng “NLĐ phải báo trước bằng văn bản
cho NSDLĐ ít nhất 02 tuần lễ” và có thể
“chưa được thực hiện nếu NSDLĐ chưa
tuyển được người thay thế”6; “NLĐ có thể
chấm dứt mối quan hệ chủ - thợ mà không
cần lý do xác đáng bằng một văn bản thông
báo cho NSDLĐ trước ít nhất một tháng.
Nếu không có thông báo đó thì NSDLĐ có
thể bắt NLĐ chịu trách nhiệm về các thiệt
hại”7. Có thể nói rằng, ở các quốc gia, quy
định về thủ tục chấm dứt của NLĐ về thời
gian, hình thức thực hiện là khác nhau. Đặc
biệt có quốc gia rất coi trọng nội dung này
khi yêu cầu NLĐ phải tiếp tục thực hiện
nếu “NSDLĐ chưa tuyển được người thay
thế”. Quy định này nhằm mục đích duy trì
ổn định được QHLĐ, nâng cao được ý thức
trách nhiệm của NLĐ trong thực hiện công
việc và hạn chế được những thiệt hại cho
NSDLĐ nếu NLĐ đơn phương chấm dứt
HĐLĐ.
2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng lao động của người lao động ở
Việt Nam
Về căn cứ chấm dứt HĐLĐ. Có nhiều
nguyên nhân dẫn tới việc đơn phương chấm
dứt HĐLĐ của NLĐ như: điều kiện làm
việc; công việc được giao; tiền lương được
trả; quyền được nghỉ ngơi; hưởng bảo hiểm
xã hội và nhất là việc đảm bảo điều kiện lao
động trong lao động. Theo các căn cứ chấm
dứt được quy định tại Điều 37, BLLĐ năm
2012, có một số nội dung chưa được làm rõ
như: “không được bảo đảm điều kiện làm
việc đã thoả thuận trong HĐLĐ”. Có quan
điểm cho rằng “không được bảo đảm điều
kiện làm việc” là không được trang bị các
6 Điều 77, Luật lao động Liên bang Nga năm 2001.
7 Điều 284, Luật lao động Philippin năm 1974.
8 Trang 93, Bình luận khoa học BLLĐ, Nxb. Lao động, năm 2015.
đồ dùng, dụng cụ, phương tiện làm việc
tối thiểu theo yêu cầu của công việc; quan
điểm khác được hiểu là không đảm bảo môi
trường làm việc an toàn, vệ sinh cho NLĐ
thì NLĐ có thể chấm dứt HĐLĐ. Tuy nhiên,
không đơn giản để làm rõ được trong các
trường hợp cụ thể như: thiếu các dụng cụ,
phương tiện làm việc; các dụng cụ, thiết bị
lúc thực hiện không đảm bảo yêu cầu; môi
trường làm việc không đảm bảo an toàn, vệ
sinh; những điều kiện lao động không được
quy định trong HĐLĐ, nội quy lao động của
đơn vị sử dụng lao động thì NLĐ không
dễ để chấm dứt. Đó là chưa kể đến trường
hợp NLĐ không hiểu biết pháp luật, ngại
va chạm và đang cần việc làm để có thu
nhập nuôi sống bản thân và gia đình. Đối
với vấn đề “bị ngược đãi” được giải thích
là “bị NSDLĐ đánh đập hoặc có lời nói,
hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng
đến sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự”8. Còn
“cưỡng bức lao động” thì chưa được làm rõ
mà chỉ đưa ra cách hiểu tương đối về thuật
ngữ này là nếu NSDLĐ dùng vũ lực hoặc
đe doạ dùng vũ lực hoặc sử dụng các biện
pháp khác cưỡng ép về tinh thần, tạo sự lệ
thuộc để buộc NLĐ phải làm việc trái với ý
muốn của họ thì có thể được xem là NLĐ
đã “bị cưỡng bức lao động” và được chấm
dứt HĐLĐ. Ngoài ra, việc quy định hành
vi “quấy rối tình dục tại nơi làm việc” cũng
không được làm rõ. Thực tế, hành vi quấy
rối tình dục tại nơi làm việc không nên hiểu
đó chỉ là hành vi của người quản lý, mà có
thể là hành vi của chính những NLĐ cùng
làm việc với nhau; do đó, để chứng minh
bị quấy rối tình dục trên là rất phức tạp khi
chứng minh các chứng cứ phải tiến hành
thu thập, cung cấp chứng cứ Trong khi,
hiện nay không có quy định cụ thể thế nào
là quấy rối tình dục lại càng khó để làm rõ.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
25Số 16(392) T8/2019
Về thủ tục chấm dứt HĐLĐ. Thủ tục
duy nhất mà NLĐ phải thực hiện khi đơn
phương chấm dứt HĐLĐ là thủ tục báo
trước cho NSDLĐ trước khi chấm dứt
HĐLĐ. Thời hạn báo trước được quy định
tuỳ thuộc vào căn cứ chấm dứt HĐLĐ hoặc
loại HĐLĐ mà NLĐ chấm dứt. Theo đó,
NLĐ khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ cũng
phải thực hiện đúng thời hạn mà pháp luật
quy định tùy từng trường hợp có thể là 03
ngày, 30 ngày hoặc 45 ngày.
Trong trường hợp NLĐ vi phạm quy
định về căn cứ hoặc thủ tục chấm dứt, NLĐ
phải chịu một số hậu quả pháp lý như:
không được hưởng trợ cấp thôi việc và phải
bồi thường cho NSDLĐ nửa tháng tiền
lương theo HĐLĐ; nếu vi phạm quy định về
thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho
NSDLĐ một khoản tiền tương ứng với tiền
lương của NLĐ trong những ngày không
báo trước; phải hoàn trả chi phí đào tạo cho
NSDLĐ theo quy định của pháp luật đối với
những NLĐ đã được NSDLĐ đài thọ chi phí
đào tạo với cam kết làm việc cho NSDLĐ sau
khi học xong, nhưng khi chấm dứt HĐLĐ
lại chưa thực hiện xong cam kết về thời gian
làm việc. Mức bồi hoàn có thể là một phần
hoặc toàn bộ chi phí đào tạo tuỳ theo thoả
thuận của các bên khi giao kết hợp đồng đào
tạo nghề. Như vậy, về mức bồi thường trong
trường hợp NLĐ chấm dứt HĐLĐ trái pháp
luật hiện nay bộc lộ một hạn chế đó là: nếu
NLĐ vi phạm về căn cứ chấm dứt thì không
được hưởng trợ cấp thôi việc; còn nếu NLĐ
vi phạm thủ tục chấm dứt thì vừa không
được hưởng trợ cấp thôi việc, vừa phải bồi
thường tiền lương tương ứng với thời gian
không báo trước. Điều này cho thấy số tiền
mà NLĐ bồi thường trong trường hợp vi
phạm thủ tục chấm dứt HĐLĐ còn nhiều
9 Khoản 3, Điều 37 BLLĐ năm 2012.
10 Trang 95, Bình luận khoa học BLLĐ, NXB Lao động, năm 2015.
11 Điều 12, Luật Lao động Lào năm 2007.
12 Điều 22, Luật Hợp đồng lao động Trung Quốc năm 2007.
hơn so với trường hợp NLĐ vi phạm căn
cứ chấm dứt HĐLĐ. Hơn nữa, trong trường
hợp NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái
pháp luật, mức bồi thường thiệt hại theo quy
định của pháp luật lao động là nửa tháng tiền
lương chưa đủ sức răn đe, giáo dục ý thức
NLĐ. Quy định này, mặc dù mang ý nghĩa
nhân văn là bảo vệ NLĐ, nhưng lại chưa
đảm bảo được quyền lợi chính đáng và sự
công bằng cho NSDLĐ, tạo điều kiện cho
NLĐ dễ dàng chấm dứt HĐLĐ, không đảm
bảo duy trì ổn định QHLĐ.
Ngoài ra, khác với HĐLĐ xác định
thời hạn, HĐLĐ theo mùa vụ hoặc theo một
công việc nhất định có thời hạn dưới 12
tháng; đối với HĐLĐ không xác định thời
hạn NLĐ có quyền có quyền đơn phương
chấm dứt HĐLĐ mà không cần đưa ra lý
do chấm dứt “nhưng phải báo trước cho
NSDLĐ biết trước ít nhất 45 ngày”9. Quy
định này của pháp luật nhằm mục đích bảo
vệ NLĐ, tránh sự ràng buộc vĩnh viễn giữa
NLĐ với NSDLĐ trong suốt cuộc đời lao
động của họ, “có thể tạo nên tình trạng nô
lệ trá hình trong lao động”10. Tuy nhiên, ở
một số quốc gia lại không chấp nhận việc
chấm dứt “dễ dàng” như vậy, mà muốn đơn
phương chấm dứt HĐLĐ đều phải có lý do
cụ thể, như: “HĐLĐ có thời hạn hoặc không
có thời hạn có thể huỷ bỏ theo sự thoả thuận
của hai bên. Một bên HĐLĐ có thể huỷ
bỏ hợp đồng không có thời hạn nếu lý do
đầy đủ và phải báo cho bên kia biết trước 3
tháng”11. Tương tự, “Bộ luật này quy định
để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của NLĐ
nhưng vẫn quy định việc đơn phương chấm
dứt HĐLĐ của NLĐ là phải có lý do”12
và: “NSDLĐ không được sa thải một NLĐ
đang bị thương hoặc đang ốm trong khi làm
nhiệm vụ trong thời kỳ đang điều trị và 30
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
26 Số 16(392) T8/2019
ngày sau đó; cũng không được sa thải một
phụ nữ có thai hoặc vừa mới đẻ trong thời
kỳ được nghỉ đẻ theo Điều 65 và trong 30
ngày sau đó. Nhưng, điểm này sẽ không áp
dụng khi NSDLĐ trả số tiền đền bù tồn tích
lại theo Điều 81 hoặc khi xí nghiệp không
thể tiếp tục điều hành được nữa do thiên tai
hoặc vì một nguyên nhân không thể tránh
khỏi nào khác. 2. Trong trường hợp của
phần cuối của đoạn trên, NSDLĐ phải được
sự chấp thuận của cơ quan hành chính đối
với lý do nêu ra”13.
3. Một số ý kiến nhằm hoàn thiện pháp
luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động trái pháp luật của người lao động
- Cần sửa đổi, bổ sung quy định trách
nhiệm của NLĐ khi đơn phương chấm dứt
HĐLĐ trái pháp luật và gây thiệt hại cho
NSDLĐ. Mặc dù các quy định của pháp luật
hiện nay muốn bảo vệ NLĐ, đảm bảo đảm
quyền tự do làm việc của NLĐ, nhưng cũng
phải đảm bảo quyền, lợi ích của NSDLĐ bị
thiệt hại do hành vi đơn phương chấm dứt
HĐLĐ của NLĐ, dù việc đơn phương chấm
dứt HĐLĐ đó là đúng hay trái quy định của
pháp luật hay thoả thuận của các bên. Bởi vì,
khi tham gia vào QHLĐ, trở thành một bên
của quan hệ này, NSDLĐ cũng rất tốn kém
trong việc đầu tư các chi phí là máy móc,
thiết bị; vốn; dây chuyền, công nghệ; phải
đảm bảo các điều kiện an toàn, vệ sinh lao
động cho NLĐ. Do đó, trường hợp nếu NLĐ
đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật
mà chỉ phải “bồi thường cho NSDLĐ nửa
tháng lương theo HĐLĐ”14 là chưa hợp lý,
không đảm bảo quyền lợi và các chi phí bỏ ra
hình thành nên QHLĐ của NSDLĐ. Vì vậy,
theo chúng tôi, cần xem xét tăng mức bồi
thường thiệt hại từ “nửa tháng tiền lương”
lên một tháng hoặc hai tháng tiền lương theo
13 Điều 130, Luật Lao động Nhật Bản năm 1976.
14 Điều 43, BLLĐ năm 2012.
15 Khoản 3, Điều 37 BLLĐ năm 2012.
HĐLĐ, nhằm ràng buộc mức trách nhiệm
của NLĐ; hạn chế việc đơn phương chấm
dứt HĐLĐ của NLĐ. Ngoài ra, trong một
số trường hợp nếu gây ra thiệt hại lớn, gây
bất ổn trong đơn vị thì ngoài việc phải bồi
thường một, hai tháng tiền lương, còn phải
bồi thường những thiệt hại khác phát sinh
cho NSDLĐ.
- Cần bổ sung quy định NLĐ làm
việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn
muốn chấm dứt HĐLĐ phải có lý do. Theo
đó, đối với trường hợp “NLĐ làm việc theo
HĐLĐ không xác định thời hạn có quyền
đơn phương chấm dứt HĐLĐ nhưng phải
báo trước cho NSDLĐ biết trước ít nhất 45
ngày”15. Quy định này của pháp luật lao
động nhằm mục đích bảo vệ NLĐ, đảm bảo
quyền tự do việc làm, tự do lao động cho
NLĐ, tránh sự ràng buộc vĩnh viễn giữa
NLĐ với NSDLĐ trong suốt cuộc đời lao
động; nhưng quy định vô hình trung lại gây
khó khăn cho NSDLĐ, gây bất ổn cho việc
duy trì QHLĐ; làm ảnh hưởng đến hoạt
động sản xuất, kinh doanh; đặc biệt là việc
tuyển dụng, đào tạo và sử dụng NLĐ mới
vào làm việc, thay thế cho NLĐ nghỉ việc,
nhất là NLĐ đó lại là người có kinh nghiệm
làm việc, giữ vài trò quan trọng và nắm bắt
được các thông tin quan trọng trong đơn
vị. Bởi vì, việc cho phép NLĐ có thể “dễ
dàng” chấm dứt hợp đồng không xác định
thời hạn mà không cần nêu lý do mà chỉ cần
báo trước 45 ngày, đã tạo ra tình trạng chấm
dứt HĐLĐ tùy tiện, gây tâm lý bất ổn cho
những NLĐ khác và ảnh hưởng hoạt động
sản xuất, kinh doanh của đơn vị. Việc chấm
dứt này của NLĐ làm cho NSDLĐ rất lúng
túng, bị động trong điều hành sản xuất; phân
công, điều chuyển và tìm NLĐ phù hợp cả
chuyên môn, kinh nghiệm thay thế những
NLĐ nghỉ việc trong nhiều trường hợp rất
(Xem tiếp trang 64)
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
27Số 16(392) T8/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gop_y_du_thao_luat_thanh_nien.pdf