Dự thảo Luật sử dụng một số cụm từ
như: “các quy định khác của pháp luật có
liên quan; các luật khác có liên quan; các
quy định của pháp luật có liên quan.” là
chưa bảo đảm nguyên tắc xây dựng, ban
hành văn bản quy phạm pháp luật về tính dễ
tiếp cận, dễ thực hiện và tính khả thi của văn
bản quy phạm pháp luật4. Bên cạnh đó,
nhiều quy định của Dự thảo Luật chưa cụ
thể, chưa thống nhất, cách diễn đạt chưa rõ
ràng5. Ví dụ, các quy định: Các dự án đầu tư
sử dụng diện tích đất, mặt nước lớn và có
ảnh hưởng xấu đến môi trường; dự án lớn
khác thuộc loại hình công nghiệp có nguy cơ
gây ô nhiễm môi trường.; tác động xấu đối
với môi trường; tác động xấu tới môi trường
và sức khỏe con người; ô nhiễm đặc biệt
nghiêm trọng; sự cố đặc biệt nghiêm trọng.;
cảnh quan thiên nhiên quan trọng; thực hiện
nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật;
vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp
luật về bảo vệ môi trường; có dấu hiệu ô
nhiễm môi trường không khí xung quanh bất
thường. Để bảo đảm tính minh bạch, rõ
ràng, thống nhất của Dự thảo Luật, cần rà
soát chỉnh sửa những quy định nêu trên.
Ngoài ra, quy định của Dự thảo Luật về
quy chuẩn kỹ thuật môi trường như: “vượt
quá giá trị giới hạn cho phép; vượt giới hạn
tối đa cho phép; vượt quy chuẩn kỹ thuật
môi trường; vượt quá quy chuẩn kỹ thuật
môi trường; vượt ngưỡng quy định; vượt
ngưỡng cho phép.”, là chưa thống nhất với
quy định của Điều 235 BLHS năm 20156;
quy định “gây ảnh hưởng xấu đến con người
và sinh vật; gây ảnh hưởng xấu đối với môi
trường; dẫn đến hậu quả xấu đối với môi
trường; gây ô nhiễm, suy thoái môi trường
nghiêm trọng.” chưa thống nhất với quy
định “gây hậu quả nghiêm trọng” được quy
định tại điểm e khoản 2 Điều 235 BLHS
năm 2015.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 228 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Góp ý hoàn thiện dự thảo luật bảo vệ môi trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
29Số 13 (413) - T7/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
Để tiếp tục hoàn thiện Dự thảo Luật Bảo
vệ môi trường (sửa đổi) kèm theo Tờ trình
số 252/TTr-CP ngày 23/5/2020 của Chính
phủ (Dự thảo Luật), tác giả tập trung phân
tích, góp ý về một số vấn đề sau:
1. Về cấp giấy phép môi trường
Điểm d khoản 9 Điều 48 Dự thảo Luật
quy định: “Giấy phép môi trường được điều
chỉnh, đình chỉ hiệu lực một phần, tước
quyền sử dụng, thu hồi hoặc cấp lại trong
các trường hợp sau: Thu hồi giấy phép môi
trường trong trường hợp cấp không đúng
thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân vi phạm
nghiêm trọng các quy định của pháp luật về
bảo vệ môi trường nhưng không phải là tội
phạm về môi trường”.
1 Chính phủ (2020), Dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) kèm theo Tờ trình số 252/TTr-CP ngày
23/5/2020 của Chính phủ.
GÓP Ý HOÀN THIỆN
DỰ THẢO LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG (SỬA ĐỔI)
Lò Thị Việt Hà*
Đỗ Đức Hồng Hà**
*ThS. Trường Trung cấp Luật Tây Bắc.
**TS. Ủy ban Tư pháp của Quốc hội.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Dự thảo Luật Bảo vệ môi
trường (sửa đổi), Luật Bảo vệ môi
trường năm 2014.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 11/6/2020
Biên tập : 17/6/2020
Duyệt bài : 22/6/2020
Article Infomation:
Keywords: Draft Law on Environmental
Protection (amended); Law on
Environmental Protection of 2014
Article History:
Received : 11 Jun. 2020
Edited : 17 Jun. 2020
Approved : 22 Jun. 2020
Tóm tắt:
Sau hơn 05 năm triển khai thực hiện, Luật Bảo vệ môi trường
năm 2014 đã góp phần tạo chuyển biến tích cực trong công tác
bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, Luật Bảo vệ môi trường hiện hành
đang đứng trước yêu cầu cần phải được nghiên cứu sửa đổi, bổ
sung một cách toàn diện. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập
trung phân tích và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện Dự thảo
Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi)1.
Abstract:
Over five years of enforcement, the Law on Environmental
Protection of 2014 has made a positive significant change in
environmental protection. However, the current Law on
Environmental Protection is facing with a requirement to be
comprehensively reviewed, amended. Within the scope of this
article, the author focuses on analyzing and giving a number of
recommendations to improve the draft Law on Environmental
Protection (amended).
Số 13 (413) - T7/202030
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
Theo tác giả, quy định “vi phạm nghiêm
trọng các quy định của pháp luật về bảo vệ
môi trường nhưng không phải là tội phạm về
môi trường” chưa rõ ràng, chưa cụ thể,
đồng thời mâu thuẫn với quy định của Bộ
luật Hình năm 2015 đã được sửa đổi, bổ
sung năm 2017 (BLHS năm 2015). Theo
quy định của BLHS năm 2015, “vi phạm
nghiêm trọng các quy định của pháp luật về
bảo vệ môi trường” sẽ bị coi là tội phạm. Để
khắc phục hạn chế này, đề nghị bỏ cụm từ
“nghiêm trọng” trong quy định này; theo đó,
điểm d khoản 9 Điều 48 được viết lại như
sau: “Giấy phép môi trường được điều
chỉnh, đình chỉ hiệu lực một phần, tước
quyền sử dụng, thu hồi hoặc cấp lại trong
các trường hợp sau: Thu hồi giấy phép môi
trường trong trường hợp cấp không đúng
thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân vi phạm
các quy định của pháp luật về bảo vệ môi
trường nhưng không phải là tội phạm về môi
trường”.
Ngoài ra, để bảo đám tính thống nhất
giữa tên điều luật với nội dung của điều luật
thì cần sửa tên điều luật này thành “Cấp,
điều chỉnh, đình chỉ hiệu lực một phần, tước
quyền sử dụng, thu hồi hoặc cấp lại giấy
phép môi trường”.
2. Về quan trắc nước thải và quan trắc
bụi, khí thải công nghiệp, quan trắc ô
nhiễm tiếng ồn và độ rung
Điểm đ khoản 1 Điều 117 Dự thảo Luật
quy định: “Cơ sở bị xử phạt vi phạm hành
chính đối với hành vi xả nước thải vượt quy
chuẩn kỹ thuật môi trường mà tái phạm hoặc
vi phạm nhiều lần”; điểm d khoản 1 Điều
118 Dự thảo Luật quy định: “Cơ sở bị xử
phạt vi phạm hành chính đối với hành vi xả
khí thải vượt quy chuẩn kỹ thuật môi trường
mà tái phạm hoặc vi phạm nhiều lần”.
Tuy nhiên, theo quy định tại điểm d
khoản 1 Điều 235 BLHS năm 2015, nếu xả
thải ra môi trường “đã bị xử phạt vi phạm
hành chính về một trong các hành vi quy
định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội
này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”
thì bị coi là tội phạm gây ô nhiễm môi
trường. Do đó, tác giả đề nghị bổ sung thêm
điều kiện để loại trừ các trường hợp bị coi là
phạm tội gây ô nhiễm môi trường được quy
định tại Điều 235 BLHS năm 20152.
Ngoài ra, việc hai quy định trên sử dụng
thuật ngữ “Cơ sở bị xử phạt vi phạm hành
chính” là không thống nhất với quy định của
Điều 2 Dự thảo Luật. Theo quy định của
Điều này, đối tượng áp dụng của Luật Bảo
vệ môi trường là “cơ quan, tổ chức, hộ gia
đình và cá nhân”. Vì vậy, để bảo đảm tính
thống nhất giữa các quy định trong Dự thảo
Luật, cần chỉnh lý Dự thảo Luật theo hướng
hoặc bổ sung thêm quy định giải thích thuật
ngữ “cơ sở” vào Điều 3, hoặc liệt kê cụ thể
tên gọi của chủ thể bị xử phạt hành chính tại
điểm đ khoản 1 Điều 117 và điểm d khoản 1
Điều 118 Dự thảo Luật.
3. Về tài chính cho tổ chức ứng phó sự cố
môi trường
Các khoản 1, 2, 5 Điều 134 Dự thảo
Luật quy định: “1. Tổ chức, cá nhân gây ra
sự cố môi trường có trách nhiệm chi trả kịp
thời, toàn bộ các chi phí... 2. Tổ chức, cá
nhân gây ra sự cố môi trường có trách
nhiệm bồi hoàn các chi phí... 5. Cơ quan, tổ
chức, cá nhân và cộng đồng dân cư bị ảnh
hưởng, thiệt hại do sự cố môi trường có
quyền yêu cầu tổ chức, cá nhân gây ra sự cố
môi trường phải bồi thường thiệt hại theo
quy định của pháp luật”.
Quy định này không phù hợp với khoản
36 Điều 3 Dự thảo Luật và Điều 235 BLHS
2 Văn phòng Quốc hội (2017), Văn bản hợp nhất Bộ luật Hình sự số 01/VBHN-VPQH ngày 10/7/2017 của
Văn phòng Quốc hội.
31Số 13 (413) - T7/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
năm 2015. Bởi lẽ, theo quy định của khoản
36 Điều 3 Dự thảo Luật, “Sự cố môi trường là
sự cố..., gây ô nhiễm, suy thoái môi trường
nghiêm trọng”; Điều 235 BLHS năm 2015
quy định: “Tổ chức, cá nhân gây ra sự cố môi
trường” (tức là gây ô nhiễm... môi trường
nghiêm trọng) sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội gây ô nhiễm môi trường.
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự, quyết
định hình phạt, áp dụng biện pháp tư pháp
và việc giải quyết các vấn đề dân sự trong
vụ án hình sự phải được thực hiện theo quy
định của Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự
“...cùng với việc giải quyết vụ án hình sự...
vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà
chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh
hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì
vấn đề dân sự có thể tách ra để giải quyết
theo thủ tục tố tụng dân sự”3. Vì vậy, tác giả
đề nghị chỉnh sửa lại quy định tại các khoản
1, 2 và 5 Điều 134 Dự thảo Luật để bảo đảm
tính thống nhất của hệ thống pháp luật, nhất
là bảo đảm tính thống nhất với các văn bản
luật về tư pháp.
4. Giải quyết bồi thường thiệt hại về môi
trường
Khoản 2 Điều 139 Dự thảo Luật quy
định: “Việc khởi kiện tại Toà án được thực
hiện theo quy định về bồi thường thiệt hại
dân sự ngoài hợp đồng của Bộ luật Tố tụng
dân sự trừ việc chứng minh mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật về
môi trường và thiệt hại xảy ra thuộc trách
nhiệm của tổ chức, cá nhân vi phạm, gây ô
nhiễm về môi trường”.
Quy định nêu trên chưa xác định rõ trình
tự, thủ tục chứng minh mối quan hệ nhân
quả được thực hiện trên cơ sở văn bản nào?
văn bản pháp lý và giá trị của văn bản về kết
quả chứng minh ra sao?. Để bảo đảm tính
khả thi của điều luật, tác giả cho rằng, cần
sửa đổi quy định trên theo hướng bổ sung
vào cuối điều luật cụm từ “theo quy định của
pháp luật”. Theo đó, khoản e Điều 139 được
viết lại như sau: “Việc khởi kiện tại Toà án
được thực hiện theo quy định về bồi thường
thiệt hại dân sự ngoài hợp đồng của Bộ luật
Tố tụng dân sự trừ việc chứng minh
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm
pháp luật về môi trường và thiệt hại xảy ra
thuộc trách nhiệm của tổ chức, cá nhân vi
phạm, gây ô nhiễm về môi trường theo quy
định của pháp luật”.
5. Xử lý vi phạm
Khoản 1 Điều 175 Dự thảo Luật quy
định: “Tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật
về bảo vệ môi trường, gây ô nhiễm, suy
thoái, sự cố môi trường, gây thiệt hại cho
Nhà nước, tổ chức và cá nhân khác, có trách
nhiệm khắc phục ô nhiễm, phục hồi môi
trường, bồi thường thiệt hại và bị xử lý theo
quy định của Luật này và pháp luật có liên
quan”. Quy định này chưa bảo đảm phân
hóa tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường, chưa thể hiện rõ các chế tài nghiêm
khắc cần áp dụng để trừng trị, giáo dục, răn
đe tổ chức, cá nhân vi phạm. Để khắc phục
hạn chế này, cần bổ sung cụm từ “tùy theo
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường, tổ chức, cá nhân vi phạm có thể bị
xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu
trách nhiệm hình sự” thay thế cho cụm từ
3 “Điều 30. Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự
Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự.
Trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng
minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự có thể tách ra để giải quyết
theo thủ tục tố tụng dân sự”.
Số 13 (413) - T7/202032
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
“...và bị xử lý theo quy định của Luật này và
pháp luật có liên”. Theo đó, khoản 1 Điều
175 được viết lại như sau: “Tổ chức, cá nhân
vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, gây
ô nhiễm, suy thoái, sự cố môi trường, gây
thiệt hại cho nhà nước, tổ chức và cá nhân
khác, có trách nhiệm khắc phục ô nhiễm,
phục hồi môi trường, bồi thường thiệt hại.
Tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ
môi trường, tổ chức, cá nhân vi phạm có thể
bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy
cứu trách nhiệm hình sự”.
Khoản 3 Điều 175 Dự thảo Luật quy
định: “Xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường được thực hiện
theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành
chính và các trường hợp quy định đặc thù
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường sau: a)
Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường là 05 năm”.
Về cơ bản, tác giả đồng tình với quy
định này, bởi lẽ việc chứng minh hành vi vi
phạm pháp luật về môi trường và hậu quả
của hành vi đó là rất khó, đòi hỏi phải có đủ
thời gian vật chất. Hơn nữa, quy định này
còn bảo đảm thực hiện nguyên tắc “mọi vi
phạm pháp luật về môi trường đều phải được
xử lý nghiêm minh”, không bỏ lọt vi phạm,
góp phần bảo vệ và giữ gìn có hiệu quả môi
trường cho Nhân dân, thúc đẩy phát triển
bền vững kinh tế, xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, để đạt được mục đích này,
cần bổ sung nguyên tắc và trách nhiệm xử lý
kịp thời, nhanh chóng mọi hành vi vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường; đồng thời, cần phân hóa thời hiệu xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo
vệ môi trường trên cơ sở phân loại tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường theo hướng: tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường càng
cao thì thời hạn để áp dụng thời hiệu xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường càng dài.
Ngoài ra, để bảo đảm tính thống nhất và
đồng bộ giữa Dự thảo Luật với Luật Xử lý
vi phạm hành chính (Luật XLVPHC), cần bổ
sung thêm quy định viện dẫn đến khoản 1
Điều 6 Luật XLVPHC về (i) áp dụng thời
hiệu trong trường hợp xử phạt vi phạm hành
chính đối với cá nhân, pháp nhân thương
mại do cơ quan tiến hành tố tụng chuyển
đến; (ii) thời điểm để tính thời hiệu xử phạt
vi phạm hành chính trong trường hợp thông
thường và (iii) thời điểm để tính thời hiệu
trong trường hợp đặc biệt4.
4 “Điều 6. Thời hiệu xử lý vi phạm hành chính
1. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được quy định như sau:
a) Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm, trừ các trường hợp sau:
Vi phạm hành chính về kế toán; thủ tục thuế; phí, lệ phí; kinh doanh bảo hiểm; quản lý giá; chứng khoán;
sở hữu trí tuệ; xây dựng; bảo vệ nguồn lợi thủy sản, hải sản; quản lý rừng, lâm sản; điều tra, quy hoạch,
thăm dò, khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên nước; thăm dò, khai thác dầu khí và các loại khoáng sản khác;
bảo vệ môi trường; năng lượng nguyên tử; quản lý, phát triển nhà và công sở; đất đai; đê điều; báo chí; xuất
bản; sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh hàng hóa; sản xuất, buôn bán hàng cấm, hàng giả; quản lý
lao động ngoài nước thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 02 năm.
Vi phạm hành chính là hành vi trốn thuế, gian lận thuế, nộp chậm tiền thuế, khai thiếu nghĩa vụ thuế thì thời
hiệu xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về thuế;
33Số 13 (413) - T7/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
6. Kỹ thuật lập pháp
Dự thảo Luật sử dụng một số cụm từ
như: “các quy định khác của pháp luật có
liên quan; các luật khác có liên quan; các
quy định của pháp luật có liên quan...” là
chưa bảo đảm nguyên tắc xây dựng, ban
hành văn bản quy phạm pháp luật về tính dễ
tiếp cận, dễ thực hiện và tính khả thi của văn
bản quy phạm pháp luật4. Bên cạnh đó,
nhiều quy định của Dự thảo Luật chưa cụ
thể, chưa thống nhất, cách diễn đạt chưa rõ
ràng5. Ví dụ, các quy định: Các dự án đầu tư
sử dụng diện tích đất, mặt nước lớn và có
ảnh hưởng xấu đến môi trường; dự án lớn
khác thuộc loại hình công nghiệp có nguy cơ
gây ô nhiễm môi trường...; tác động xấu đối
với môi trường; tác động xấu tới môi trường
và sức khỏe con người; ô nhiễm đặc biệt
nghiêm trọng; sự cố đặc biệt nghiêm trọng...;
cảnh quan thiên nhiên quan trọng; thực hiện
nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật;
vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp
luật về bảo vệ môi trường; có dấu hiệu ô
nhiễm môi trường không khí xung quanh bất
thường... Để bảo đảm tính minh bạch, rõ
ràng, thống nhất của Dự thảo Luật, cần rà
soát chỉnh sửa những quy định nêu trên.
Ngoài ra, quy định của Dự thảo Luật về
quy chuẩn kỹ thuật môi trường như: “vượt
quá giá trị giới hạn cho phép; vượt giới hạn
tối đa cho phép; vượt quy chuẩn kỹ thuật
môi trường; vượt quá quy chuẩn kỹ thuật
môi trường; vượt ngưỡng quy định; vượt
ngưỡng cho phép...”, là chưa thống nhất với
quy định của Điều 235 BLHS năm 20156;
quy định “gây ảnh hưởng xấu đến con người
và sinh vật; gây ảnh hưởng xấu đối với môi
trường; dẫn đến hậu quả xấu đối với môi
trường; gây ô nhiễm, suy thoái môi trường
nghiêm trọng...” chưa thống nhất với quy
định “gây hậu quả nghiêm trọng” được quy
định tại điểm e khoản 2 Điều 235 BLHS
năm 2015.
Để bảo đảm việc xử lý hành vi vi phạm
quy định về bảo vệ môi trường được chính
xác, xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi
vi phạm, phòng ngừa, ngăn chặn, không để
lọt vi phạm, không làm oan, Dự thảo Luật
cần được rà soát loại bỏ những quy định
không thống nhất với quy định của BLHS
năm 2015 n
b) Thời điểm để tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính quy định tại điểm a khoản 1 Điều này được quy
định như sau:
Đối với vi phạm hành chính đã kết thúc thì thời hiệu được tính từ thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm.
Đối với vi phạm hành chính đang được thực hiện thì thời hiệu được tính từ thời điểm phát hiện hành vi vi phạm;
c) Trường hợp xử phạt vi phạm hành chính đối với cá nhân do cơ quan tiến hành tố tụng chuyển đến thì thời
hiệu được áp dụng theo quy định tại điểm a và điểm b khoản này. Thời gian cơ quan tiến hành tố tụng thụ
lý, xem xét được tính vào thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính.
d) Trong thời hạn được quy định tại điểm a và điểm b khoản này mà cá nhân, tổ chức cố tình trốn tránh, cản
trở việc xử phạt thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được tính lại kể từ thời điểm chấm dứt hành vi
trốn tránh, cản trở việc xử phạt”.
5 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
6 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
7 Điều 235 BLHS năm 2015 chỉ quy định về “vượt giá trị liều”; “vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về
môi trường”.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gop_y_hoan_thien_du_thao_luat_bao_ve_moi_truong.pdf