Góp ý những quy định về công ty chứng khoán trong dự thảo luật chứng khoán
Thứ ba, quy định tại điểm b khoản
1 Điều 87 Dự thảo Luật cho phép CTCK
có nghiệp vụ môi giới chứng khoán được
“cung cấp dịch vụ cho khách hàng vay tiền
mua chứng khoán” là không hợp lý. Bởi lẽ,
theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật Ngân
hàng Nhà nước năm 2010, chức năng của
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) là “quản lý
nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng
”. Đồng thời, khoản 1 Điều 8 Luật các
Tổ chức tín dụng năm 2010 quy định, “Tổ
chức có đủ điều kiện theo quy định của Luật
này và các quy định khác của pháp luật có
liên quan được Ngân hàng Nhà nước cấp
Giấy phép thì được thực hiện một hoặc
một số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam”.
Như vậy, hoạt động cho vay tiền của CTCK
được pháp luật xác định là hoạt động ngân
hàng nên hoạt động này cũng cần phải chịu
sự quản lý của NHNN và được NHNN cấp
phép hoạt động. Tuy nhiên, theo Điều 71
Dự thảo Luật, UBCKNN là cơ quan cấp
Giấy phép hoạt động kinh doanh chứng
khoán cho CTCK. Trường hợp CTCK được
cấp phép thực hiện hoạt động môi giới thì
theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 87
Dự thảo Luật, CTCK hoàn toàn có quyền
“cung cấp dịch vụ cho khách hàng vay tiền
mua chứng khoán” mà không cần phải được
NHNN đồng ý. Do vậy, quy định nêu trên đã
tạo nên sự xung đột nhất định giữa Dự thảo
Luật và pháp luật về ngân hàng.
Chúng tôi cho rằng, để đảm bảo sự
phù hợp giữa Luật chứng khoán và pháp luật
ngân hàng, Dự thảo Luật cần bổ sung quy
định không cho phép CTCK tự mình “cung
cấp dịch vụ cho khách hàng vay tiền mua
chứng khoán” khi chưa được sự đồng ý của
NHNN.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 238 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Góp ý những quy định về công ty chứng khoán trong dự thảo luật chứng khoán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Nhận xét, đánh giá khái quát về Luật
Chứng khoán hiện hành
Luật Chứng khoán năm 2006 được
sửa đổi, bổ sung ngày 24/11/20102 (Luật
Chứng khoán 2006) dành 23 điều (từ Điều
59 đến Điều 81) quy định về điều kiện thành
lập và hoạt động của công ty chứng khoán
(CTCK). Sự ra đời của Luật Chứng khoán
năm 2006 đã đem lại một số kết quả sau:
2 Luật Chứng khoán năm 2006; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán (sửa đổi, bổ sung ngày
24/11/2010).
Một là, tạo cơ sở pháp lý cho quá
trình hình thành của CTCK. Bước đầu Luật
Chứng khoán 2006 đã xác định các điều
kiện cơ bản đặt ra cho việc thành lập CTCK
để quản lý hoạt động kinh doanh này.
Hai là, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt
động cung cấp dịch vụ chứng khoán trên
TTCK. Luật Chứng khoán năm 2006 đã xác
định những dịch vụ mà CTCK có thể cung
GÓP Ý NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
TRONG DỰ THẢO LUẬT CHỨNG KHOÁN (SỬA ĐỔI)
Tóm tắt:
Bài viết nhận xét, đánh giá các quy định về điều kiện thành lập,
hoạt động của công ty chứng khoán trong Dự thảo Luật Chứng
khoán (sửa đổi)1 nhằm tìm ra những quy định còn chưa hợp lý
trong Dự thảo Luật để đưa ra các kiến nghị hoàn thiện.
1 Dự thảo đăng trên duthaoonline.quochoi.vn
Phan Phương Nam*
* TS. Phó Trưởng Khoa Luật Thương Mại, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.
Abstract
This article provides comments, accessments of the legal
regulations on the conditions for establishment, operation of the
securities company in the Bill of Law on Securities (amendment)
to seek the inadequacies and irrationalities in the draft law and
thereby find out the recommendations for further improvements.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Công ty chứng khoán, môi giới
chứng khoán, tự doanh chứng khoán.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 22/08/2019
Biên tập : 26/08/2019
Duyệt bài : 28/08/2019
Article Infomation:
Keywords: Securities companies,
securities brokerage, principal
investment.
Article History:
Received : 22 Aug. 2019
Edited : 26 Aug. 2019
Approved : 28 Aug. 2019
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
23Số 18(394) T9/2019
cấp nhằm đáp ứng nhu cầu của TTCK như
môi giới, bảo lãnh phát hành chứng khoán,
tự doanh chứng khoán...
Ba là, tạo cơ sở cho việc bảo vệ nhà
đầu tư trên TTCK khi sử dụng các dịch vụ
của CTCK thông qua các quy định về trách
nhiệm của người hành nghề chứng khoán,
nghĩa vụ của CTCK, Luật Chứng khoán
2006 đã xác định cơ bản những nghĩa vụ mà
CTCK phải thực hiện, những trách nhiệm
mà CTCK phải chịu trước nhà đầu tư.
Bên cạnh những kết quả nêu trên,
trong quá trình áp dụng khi quy định về
CTCK, Luật Chứng khoán 2006 đã bộc lộ
những hạn chế sau:
i) Một số quy định trong Luật Chứng
khoán 2006 mâu thuân với quy định của các
Luật khác (Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật
Doanh nghiệp năm 2014, Luật Phí và lệ phí
năm 2015...)3;
ii) Luật Chứng khoán 2006 chưa đáp
ứng được sự phát triển của TTCK như việc
cung cấp các dịch vụ tài chính hỗ trợ cho
hoạt động giao dịch của thị trường;
iii) Một số quy định của Luật chưa
phù hợp với thực tiễn: quy định về bảo hiểm
trách nhiệm nghề nghiệp cho nghiệp vụ kinh
doanh chứng khoán tại CTCK hoặc trích lập
quỹ bảo vệ nhà đầu tư để bồi thường thiệt
hại cho nhà đầu tư do sự cố kỹ thuật và sơ
suất của nhân viên trong công ty4
Để thúc đẩy sự phát triển của thị trường
chứng khoán, Chính phủ đã tiến hành soạn
thảo Dự thảo sửa đổi Luật Chứng khoán năm
2006 (Dự thảo Luật). Dự thảo Luật đã được
Quốc hội đưa vào Chương trình xây dựng
luật, pháp lệnh của năm 2019 Quốc hội5.
3 Bộ Tài chính, Tờ trình đề nghị xây dựng Luật chứng khoán (sửa đổi), tr.17, tài liệu đăng tải trên
quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=1312&TabIndex=2&TaiLieuID=2527
truy cập ngày 08/08/2019.
4 Phan Phương Nam (2014), Những bất cập trong quy định về xử phạt vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán và các kiến
nghị sửa đổi, bổ sung, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 24 (280), tr. 56.
5 Nghị quyết số 57/2018/QH14 của Quốc hội ngày 08/06/2018 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019, điều
chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018.
6 Bộ Tài chính, Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật chứng khoán (sửa đổi), tr.29, tài liệu đăng tải trên
quochoi.vn/DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=1312&TabIndex=2&TaiLieuID=3482
truy cập ngày 05/08/2019.
2. Ý kiến về các quy định đối với Công ty
chứng khoán trong Dự thảo Luật chứng
khoán (sửa đổi)
Về cơ bản, Dự thảo Luật đã đạt được
một số kết quả sau:
Một là, Dự thảo Luật đã sửa đổi quy
định về việc thành lập CTCK tương đồng với
quy định thành lập doanh nghiệp theo Luật
doanh nghiệp năm 2014. Về nguyên tắc,
Luật Doanh nghiệp đã quy định việc quản
lý thống nhất các doanh nghiệp trên phạm vi
toàn quốc, cho nên, việc thành lập, thay đổi
trong hoạt động của doanh nghiệp phải được
đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh và
những thông tin này được lưu giữ tại cơ sở
dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp
hoặc cập nhật trên cổng thông tin quốc gia về
đăng ký doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo quy
định tại Điều 13 Luật Chứng khoán 2006, Ủy
ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) là
cơ quan cấp giấy phép thành lập và hoạt động
của CTCK và giấy phép này cũng chính là
Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Điều
này làm cho thông tin của các CTCK đang
tồn tại không có thông tin hoặc không được
cập nhật thông tin trên hệ thống thông tin
quốc gia về đăng ký doanh nghiệp; gây khó
khăn cho đối tượng tìm kiếm những thông
tin công khai về doanh nghiệp cũng như ảnh
hưởng đến hoạt động quản lý kinh doanh của
các cơ quan nhà nước6. Vì vậy, Dự thảo Luật
đã quy định theo hướng tách hoạt động này
thành 02 hoạt động: (i) UBCKNN sẽ là cơ
quan cấp Giấy phép hoạt động kinh doanh
chứng khoán cho CTCK; (ii) CTCK sau khi
được cấp Giấy phép hoạt động kinh doanh
chứng khoán phải đăng ký doanh nghiệp
theo quy định tại Luật Doanh nghiệp.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
24 Số 18(394) T9/2019
Hai là, Dự thảo Luật đã quy định rõ
hơn về điều kiện thành lập CTCK. Điều này
khác với Luật chứng khoán 2006 chỉ quy
định những vấn đề mang tính cơ bản còn
những quy định chi tiết được quy định trong
Nghị định hướng dẫn thi hành.
Ba là, Dự thảo Luật cũng luật hóa
các quy định trong Thông tư số 210/2012/
TT-BTC Hướng dẫn về thành lập và hoạt
động công ty chứng khoán, như: quy định
về hạn chế đối với CTCK, quy định về an
toàn tài chính và cảnh báo đối với CTCK,
quy định về vốn pháp định cho các nghiệp
vụ của CTCK...
Bên cạnh đó, Dự thảo Luật vẫn còn
một số hạn chế sau:
Thứ nhất, nội dung của quy định tại
Điều 72 Dự thảo Luật chưa hợp lý. Theo
quy định của Điều 72, “...chi nhánh CTCK
và công ty quản lý quỹ nước ngoài tại Việt
Nam phải đăng ký doanh nghiệp dưới hình
thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc
công ty cổ phần theo quy định tại Luật
Doanh nghiệp”. Trong khi đó, khoản 1 Điều
45 Luật Doanh nghiệp năm 2014 xác định,
“chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của doanh
nghiệp, có nhiệm vụ thực hiện toàn bộ hoặc
một phần chức năng của doanh nghiệp kể
cả chức năng đại diện theo ủy quyền”. Do
vậy, chi nhánh không thể nào là một pháp
nhân theo đúng quy định của pháp luật. Vậy
tại sao “chi nhánh CTCK và công ty quản lý
quỹ nước ngoài tại Việt Nam phải đăng ký
doanh nghiệp dưới hình thức công ty trách
nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo
quy định tại Luật Doanh nghiệp”?
Do vậy, theo chúng tôi, Điều 72 Dự
thảo Luật cần được chỉnh sửa cho hợp lý
hơn như sau: “Sau khi được cấp Giấy phép
hoạt động kinh doanh chứng khoán, CTCK,
công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán
phải đăng ký doanh nghiệp dưới hình thức
7 Bộ Tài chính, Bản thuyết minh chi tiết Dự án Luật Chứng khoán (sửa đổi) đăng trên
DuThao/Lists/DT_DUTHAO_LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=1312&TabIndex=2&TaiLieuID=3482 truy cập ngày
05/08/2019.
công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công
ty cổ phần theo quy định tại Luật Doanh
nghiệp; chi nhánh CTCK và chi nhánh công
ty quản lý quỹ nước ngoài tại Việt Nam phải
thực hiện hoạt động đăng ký theo quy định
của Luật Doanh nghiệp”. Sự chỉnh sửa này
đảm bảo tính hợp lý là chỉ có CTCK, công
ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán là phải
đăng ký doanh nghiệp dưới hình thức công
ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ
phần theo quy định tại Luật Doanh nghiệp
sau khi được UBCKNN cấp Giấy phép hoạt
động kinh doanh chứng khoán. Còn chi
nhánh CTCK và chi nhánh công ty quản lý
quỹ nước ngoài tại Việt Nam thì chỉ cần phải
thực hiện hoạt động đăng ký theo quy định
của Luật doanh nghiệp là hoạt động hợp
pháp sau khi được UBCKNN cấp Giấy phép
hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Thứ hai, quy định tại Điều 73 Dự thảo
Luật là chưa hợp lý. Sự chưa hợp lý này
được thể hiện ở các nội dung sau:
Một là, khoản 2 Điều 73 Dự thảo Luật
quy định, “CTCK chỉ được cấp phép thực
hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán khi
được cấp phép thực hiện nghiệp vụ môi giới
chứng khoán”. Trong khi đó, theo quy định
tại khoản 29 Điều 4 Dự thảo Luật, “môi giới
chứng khoán là việc làm trung gian thực
hiện mua, bán chứng khoán cho khách hàng”
còn “tự doanh chứng khoán là việc công ty
chứng khoán mua hoặc bán chứng khoán
cho chính mình” (khoản 30 Điều 4 Dự thảo
Luật). Hai hoạt động này không bắt buộc
phải đi liền với nhau và hỗ trợ nhau. Chính
vì lẽ đó mà Điều 60 Luật Chứng khoán 2006
không quy định giống như khoản 2 Điều 73
Dự thảo Luật. Bản thuyết minh chi tiết Dự
án Luật7 cũng không có điểm nào lý giải tại
sao lại có quy định bắt buộc này.
Chúng tôi cho rằng, có thể quy định
nêu trên của Dự thảo Luật nhằm dự liệu
trường hợp trong hoạt động môi giới có thể
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
25Số 18(394) T9/2019
có những lúc CTCK thực hiện không chính
xác lệnh của khách hàng như mua ít hơn
lệnh mua của nhà đầu tư nên cần CTCK phải
mua thêm chứng khoán thông qua hoạt động
tự doanh để bù cho nhà đầu tư. Tuy nhiên,
điều này là không hợp lý. Bởi lẽ, nếu CTCK
thực hiện sai lệnh khách hàng thì Công ty
phải bồi thường thiệt hại cho khách hàng
theo quy định của Bộ luật Dân sự chứ không
phải chỉ có một cách duy nhất là phải mua
chứng khoán bù lại cho khách hàng. Khi
CTCK bắt buộc phải có thêm nghiệp vụ tự
doanh để cấp phép nghiệp vụ môi giới đòi
hỏi CTCK phải đáp ứng nhiều hơn về vốn
(cần thêm ít nhất 50 tỷ VNĐ) và nhân sự (ít
nhất cần thêm 3 nhân viên hành nghề chứng
khoán)8. Điều đó càng gây khó khăn hơn cho
việc thành lập CTCK. Do vậy, quy định trên
của Dự thảo Luật sẽ hạn chế việc gia nhập
thị trường của các chủ thể khác. Điều này
làm hạn chế tính cạnh tranh trong hoạt động
cung cấp dịch vụ trên TTCK. Vì vậy, Dự
thảo Luật cần bỏ quy định này để tạo điều
kiện gia nhập thị trường của nhiều CTCK và
qua đó, tăng tính cạnh tranh, tăng cường tính
hấp dẫn cho thị trường, tạo nhiều điều kiện
cho nhà đầu tư có thể được sử dụng dịch vụ
từ nhiều CTCK khác nhau, tăng khả năng
thu hút vốn từ nền kinh tế, tạo đà cho TTCK
phát triển.
Hai là, khoản 3 Điều 73 Dự thảo Luật
quy định “CTCK chỉ được cấp phép thực
hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng
khoán khi được cấp phép thực hiện nghiệp
vụ tự doanh chứng khoán”.
Quy định này xuất phát từ nguyên lý
là CTCK, khi tiến hành bảo lãnh phát hành
chứng khoán, có thể sẽ có cam kết mua lại
8 Xem thêm Điều 75 Dự thảo Luật Chứng khoán.
9 Khoản 31 Điều 4 Dự thảo Luật định nghĩa rằng: “Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc cam kết với tổ chức phát hành
nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa
được phân phối hết của tổ chức phát hành hoặc cố gắng tới mức tối đa để bán hết số chứng khoán cần phát hành cho
tổ chức phát hành”. Do vậy, vẫn có thể trường hợp CTCK bảo lãnh phát hành theo hình thức cố gắng tối đa nên không
ràng buộc nghĩa vụ mua lại toàn bộ hoặc một phần chứng khoán chưa phân phối hết.
10 Tham khảo Điều 124 Luật Chứng khoán Trung Quốc năm 2005, từ Điều 54 đến Điều 62 Luật Chứng khoán, Sở GDCK
và công ty đầu tư của Bunggary, từ Điều 90 đến Điều 94 Luật Chứng khoán và Giao dịch của Thái Lan không có quy
định nào là CTCK khi tiến hành hoạt động bảo lãnh phát hành phải có nghiệp vụ tự doanh.
một phần hoặc toàn bộ lượng chứng khoán
của tổ chức phát hành để bán lại vì lợi nhuận
hoặc vì thỏa thuận khi không phân phối hết
chứng khoán. Vì vậy, pháp luật yêu cầu
CTCK phải có hoặc phải xin phép đồng thời
hoạt động tự doanh chứng khoán khi muốn
được phép hoạt động bảo lãnh phát hành
chứng khoán.
Tuy nhiên, điều này chỉ đúng đối với
các phương thức bảo lãnh phát hành có thỏa
thuận về nghĩa vụ (cam kết chắc chắn, bão
lãnh dự phòng) của CTCK khi thực hiện
hoạt động bảo lãnh phát hành là mua lại một
lượng chứng khoán nhất định còn đối với
các phương thức bảo lãnh phát hành khác
mà CTCK không có nghĩa vụ rằng buộc về
nghĩa vụ trên thì điều này không hợp lý9. Do
vậy, nếu Dự thảo Luật vẫn duy trì quy định
trên sẽ làm hạn chế quyền tự do kinh doanh
của CTCK10.
Chúng tôi cho rằng, bên cạnh việc bỏ
quy định tại khoản 3 Điều 72 Dự thảo Luật
thì cần bổ sung các điều kiện bảo lãnh phát
hành chứng khoán của CTCK như sau: Nếu
CTCK có thực hiện hoạt động bảo lãnh phát
hành làm phát sinh nghĩa vụ mua lại chứng
khoán của đợt bảo lãnh phát hành thì ngoài
việc được cấp phép hoạt động bảo lãnh phát
hành, CTCK phải được cấp phép hoạt động
tự doanh chứng khoán. Quy định này sẽ thỏa
mãn được các yêu cầu sau:
i) đảm bảo được quyền tự do kinh
doanh của CTCK (pháp luật không bắt buộc
CTCK có thêm phần vốn và nhân sự nhất
định khi muốn bảo lãnh phát hành chứng
khoán phải xin thêm nghiệp vụ tự doanh
chứng khoán);
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
26 Số 18(394) T9/2019
ii) vẫn thực hiện được mục tiêu bảo
vệ nhà đầu tư trong hoạt động bảo lãnh phát
hành chứng khoán khi có những quy định
ràng buộc nếu CTCK thực hiện hoạt động
bảo lãnh phát hành mà có phát sinh nghĩa
vụ mua đối với phần chứng khoán chưa phát
hành hết.
Thứ ba, quy định tại điểm b khoản
1 Điều 87 Dự thảo Luật cho phép CTCK
có nghiệp vụ môi giới chứng khoán được
“cung cấp dịch vụ cho khách hàng vay tiền
mua chứng khoán” là không hợp lý. Bởi lẽ,
theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật Ngân
hàng Nhà nước năm 2010, chức năng của
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) là “quản lý
nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng
”. Đồng thời, khoản 1 Điều 8 Luật các
Tổ chức tín dụng năm 2010 quy định, “Tổ
chức có đủ điều kiện theo quy định của Luật
này và các quy định khác của pháp luật có
liên quan được Ngân hàng Nhà nước cấp
Giấy phép thì được thực hiện một hoặc
một số hoạt động ngân hàng tại Việt Nam”.
Như vậy, hoạt động cho vay tiền của CTCK
được pháp luật xác định là hoạt động ngân
hàng nên hoạt động này cũng cần phải chịu
sự quản lý của NHNN và được NHNN cấp
phép hoạt động. Tuy nhiên, theo Điều 71
Dự thảo Luật, UBCKNN là cơ quan cấp
Giấy phép hoạt động kinh doanh chứng
khoán cho CTCK. Trường hợp CTCK được
cấp phép thực hiện hoạt động môi giới thì
theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 87
Dự thảo Luật, CTCK hoàn toàn có quyền
“cung cấp dịch vụ cho khách hàng vay tiền
mua chứng khoán” mà không cần phải được
NHNN đồng ý. Do vậy, quy định nêu trên đã
tạo nên sự xung đột nhất định giữa Dự thảo
Luật và pháp luật về ngân hàng.
Chúng tôi cho rằng, để đảm bảo sự
phù hợp giữa Luật chứng khoán và pháp luật
11 Khoản 7 Điều 71 Luật Chứng khoán 2006.
12 Khoản 1 Điều 68 Dự thảo Luật Chứng khoán.
13 Khoản 1 Điều 69 Dự thảo Luật Chứng khoán.
ngân hàng, Dự thảo Luật cần bổ sung quy
định không cho phép CTCK tự mình “cung
cấp dịch vụ cho khách hàng vay tiền mua
chứng khoán” khi chưa được sự đồng ý của
NHNN.
Thứ tư, quy định về đảm bảo khả năng
chi trả của CTCK khi cung cấp dịch vụ trong
Dự thảo Luật là chưa đầy đủ và bao quát.
Có thể các nhà soạn thảo cho rằng việc
quy định hai quỹ: quỹ hỗ trợ thanh toán và
quỹ bù trừ tại Điều 68 và Điều 69 Dự thảo
Luật là đã đủ đảm bảo khả năng chi trả của
CTCK khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng
nên tại Điều 90 Dự thảo Luật quy định về
nghĩa vụ của CTCK đã bỏ qua một nghĩa vụ
rất quan trọng được xác định từ Luật Chứng
khoán 2006 là: CTCK phải “Mua bảo hiểm
trách nhiệm nghề nghiệp cho nghiệp vụ kinh
doanh chứng khoán tại công ty hoặc trích
lập quỹ bảo vệ nhà đầu tư để bồi thường
thiệt hại cho nhà đầu tư do sự cố kỹ thuật
và sơ suất của nhân viên trong công ty”11.
Tuy nhiên, tác giả cho rằng điều này là chưa
ổn. Bởi lẽ quỹ hỗ trợ thanh toán hình thành
từ sự đóng góp của các thành viên lưu ký
để thanh toán thay cho thành viên lưu ký
trong trường hợp thành viên lưu ký tạm thời
mất khả năng thanh toán giao dịch chứng
khoán12 và quỹ bù trừ được hình thành từ
các khoản đóng góp của thành viên bù trừ
với mục đích bồi thường thiệt hại và hoàn tất
các giao dịch chứng khoán đứng tên thành
viên bù trừ trong trường hợp thành viên
bù trừ hoặc nhà đầu tư mất khả năng thanh
toán13. Trong khi đó, về nguyên tắc chỉ có
CTCK có nghiệp vụ môi giới, tự doanh mới
cần trở thành thành viên lưu ký, thành viên
bù trừ. Còn nếu CTCK chỉ xin phép thực
hiện nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán
thì không cần và cũng không nên bắt buộc
phải trở thành thành viên lưu ký, thành viên
(Xem tiếp trang 32)
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
27Số 18(394) T9/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gop_y_nhung_quy_dinh_ve_cong_ty_chung_khoan_trong_du_thao_lu.pdf