Góp ý quy định về giám đốc trong luật doanh nghiệp năm 2014
Ba là, việc “áp” nghĩa vụ tuyển dụng lao
động trong doanh nghiệp cho Giám
đốc/Tổng giám đốc có thể tạo mâu thuẫn với
Bộ luật Lao động hiện hành. Cụ thể: “Người
giao kết hợp đồng lao động bên phía người
sử dụng lao động là người thuộc một trong
các trường hợp sau đây: a) Người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc người
được ủy quyền theo quy định của pháp
luật”14. Như vậy, trong trường hợp Giám đốc
không phải là người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp thì phải là được người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp ủy
quyền. Ngược lại, nếu công ty trách nhiệm
hữu hạn chỉ có một người đại diện theo pháp
luật là Chủ tịch Hội đồng thành viên thì về
nguyên tắc người này sẽ phải ký toàn bộ hợp
đồng lao động trong công ty kể cả hợp đồng
tuyển lao công hay bảo vệ. Tuy nhiên, theo
Luật Doanh nghiệp năm 2014, thì Chủ tịch
hội đồng thành viên/Hội đồng quản trị hoặc
Chủ tịch công ty không được tuyển dụng lao
động, trừ hợp đồng lao động tuyển dụng
Giám đốc/Tổng giám đốc.
Bốn là, Giám đốc/Tổng giám đốc có thể
là chủ sở hữu trong công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên là cá nhân kiêm nhiệm.
Giám đốc/Tổng giám đốc có thể là người
được chủ sở hữu là cá nhân thuê, Hội đồng
quản trị/Hội đồng thành viên thuê thông qua
hợp đồng lao động. Tuy nhiên, theo quy định
hiện hành của Luật Doanh nghiệp thì dù
Giám đốc là được thuê hay là chủ, dù là lĩnh
lương 5 triệu/tháng hay 100 triệu/tháng thì
đều có những quyền và nghĩa vụ cơ bản như
nhau. Do đó, quy định này chưa thực sự thỏa
đáng.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 278 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Góp ý quy định về giám đốc trong luật doanh nghiệp năm 2014, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
31Số 10 (410) - T5/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc làngười quản lý doanh nghiệp1. Giámđốc hoặc Tổng giám đốc công ty là
người điều hành hoạt động kinh doanh hằng
ngày của công ty, chịu trách nhiệm trước Hội
đồng thành viên/Hội đồng quản trị/Chủ tịch
công ty về việc thực hiện các quyền và nghĩa
vụ của mình. Theo quy định này thì Giám
đốc/Tổng giám đốc công ty phải mang đúng
danh “Giám đốc/Tổng giám đốc” chỉ có “một”.
Luật Singapore cũng quy định mỗi công
ty phải có ít nhất một Giám đốc2. Tuy nhiên
cách tiếp cận chức danh Giám đốc công ty
của Singapore khác Việt Nam. Luật Công ty
của Singapore quy định Giám đốc của một
công ty là bất kỳ người nào thực hiện chức
danh giám đốc với bất kỳ tên gọi nào và là
người mà những quyết định hoặc chỉ dẫn của
người này được Ban giám đốc hoặc phần lớn
các thành viên Ban giám đốc của công ty
quen hành động theo và thay thế giám đốc
(trừ những ý kiến, lời khuyên về chuyên
môn), hoặc là người thay thế giám đốc công
ty3. Theo cách tiếp cận này thì một người
trong công ty của Singapore có thể không
mang danh giám đốc công ty nhưng vẫn
gÓp Ý quy định Về giám đỐc
trong luật doanh nghiệp nĂm 2014
Đào Thị Thu Hằng*
*TS. GV. Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học quốc gia TP. HCM.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Giám đốc, quyền của Giám
đốc công ty, Luật Doanh nghiệp.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 08/03/2020
Biên tập : 18/03/2020
Duyệt bài : 28/03/2020
Article Infomation:
Keywords: Director; rights of the
director; Law on Enterprise
Article History:
Received : 08 Mar. 2020
Edited : 18 Mar. 2020
Approved : 28 Mar. 2020
Tóm tắt:
Giám đốc/Tổng giám đốc là một chức danh rất quan trọng trong
công ty. Bài viết phân tích về những bất cập trong quy định của
Luật Doanh nghiệp năm 2014 về chức danh Giám đốc/Tổng giám
đốc, đồng thời đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định này.
Abstract:
Director/General director is a crucial position of an enterprise.
This article provides analysis of the inadequate regulations on the
position of director/general director of the Law on Enterprise of
2014 and also provides a number of recommendations for further
improvements of the concerned provisions.
1 Khoản 18 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
2 Điều 145.1 Luật Công ty Singapore năm 1967.
3 Luật Công ty Singapore năm1967, phần Giải thích từ ngữ được sửa đổi theo Luật số 36 năm 2014 có hiệu
lực ngày 01/7/2015.
4 Điều 55 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
được xem là giám đốc trong công ty khi
quyết định của người này được Ban giám
đốc hoặc đa phần các thành viên Ban giám
đốc thực hiện theo.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp
năm 2014 (Luật Doanh nghiệp), trong cơ cấu
tổ chức của các loại hình công ty ở Việt Nam
thì Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là chức
danh bắt buộc phải có. Cụ thể: “Công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
có Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng
thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc”4;
“Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên do tổ chức làm chủ sở hữu được tổ chức
quản lý và hoạt động theo một trong hai mô
hình sau đây: a) Chủ tịch công ty, Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên; b)
Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc và Kiểm soát viên”5; “Công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên do cá
nhân làm chủ sở hữu có Chủ tịch công ty,
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc”6; “Công ty
cổ phần có quyền lựa chọn tổ chức quản lý
và hoạt động theo một trong hai mô hình sau
đây, trừ trường hợp pháp luật về chứng
khoán có quy định khác: a) Đại hội đồng cổ
đông, Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát và
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc; b) Đại hội
đồng cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc”7; “Hội đồng thành
viên bầu một thành viên hợp danh làm Chủ
tịch Hội đồng thành viên, đồng thời kiêm
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty nếu
Điều lệ công ty không có quy định khác
Chủ tịch Hội đồng thành viên, Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc có các nhiệm vụ sau
đây: a) Quản lý và điều hành công việc kinh
doanh hằng ngày của công ty với tư cách là
thành viên hợp danh; đ) Đại diện cho công
ty trong quan hệ với cơ quan nhà nước; đại
diện cho công ty với tư cách là bị đơn hoặc
nguyên đơn trong các vụ kiện, tranh chấp
thương mại hoặc các tranh chấp khác”8.
Tuy nhiên, trên thực tế, có những công
ty lập ra chức danh Tổng giám đốc quản lý,
bên dưới còn có các Giám đốc chuyên môn.
Ví dụ, Công ty cổ phần VINAMILK, ngoài
Tổng giám đốc ra, công ty còn có bảy Giám
đốc chuyên môn bao gồm: Giám đốc Điều
hành kinh doanh quốc tế, Giám đốc Điều
hành phát triển vùng nguyên liệu, Giám đốc
Điều hành chuỗi cung ứng, Giám đốc Điều
hành nhân sự - hành chính & đối ngoại,
Giám đốc Điều hành nghiên cứu và phát
triển, Giám đốc Điều hành tài chính kiêm kế
toán trưởng, Giám đốc Điều hành Marketing
kiêm điều hành khối kinh doanh nội địa,
Giám đốc Điều hành sản xuất.
Một câu hỏi mà giới doanh nhân và
người tìm hiểu luật quan tâm hiện nay là
Giám đốc/Tổng giám đốc có phải là người
đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
không?
Theo Luật Doanh nghiệp năm 2014,
người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp
thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ
giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho
doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và
nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật9.
Như vậy, yêu cầu đầu tiên của người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp phải là cá
Số 10 (410) - T5/202032
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
5 Điều 78 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
6 Điều 85 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
7 Điều 134 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
8 Điều 177 & 179 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
9 Điều 13 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
33Số 10 (410) - T5/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
nhân, hẳn nhiên là có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ, không thuộc đối tượng bị cấm
quản lý doanh nghiệp. Luật Công ty của
Singapore cũng quy định tương tự: “Giám
đốc công ty phải là cá nhân đủ 18 tuổi và
năng lực hành vi dân sự đầy đủ”10. Cá nhân
này sẽ thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát
sinh từ giao dịch của doanh nghiệp. Giao
dịch của doanh nghiệp được hiểu bao gồm
cả giao dịch trong kinh doanh thương mại và
trong lĩnh vực dân sự, lao động của doanh
nghiệp như: hợp đồng mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ, hợp đồng lao động, hợp
đồng thuê trụ sở, nhà xưởng, quan hệ về thuế
với cơ quan nhà nước Đồng thời, người
đại diện theo pháp luật đại diện cho doanh
nghiệp tại Trọng tài, Tòa án với tư cách là
nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan. Tất nhiên trường hợp
luật sư, hoặc cá nhân khác tham dự phiên
tòa, phiên trọng tài theo ủy quyền của người
đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp sẽ
không được tính là trong quy định này.
Nghiên cứu toàn bộ Luật Doanh nghiệp
năm 2014 và những văn bản hướng dẫn thi
hành cũng không có điều khoản nào chỉ ra
rằng Giám đốc/Tổng giám đốc phải là người
đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
hoặc phải được người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp ủy quyền để điều hành
hoạt động kinh doanh hằng ngày của công
ty. Do đó, theo quan điểm của tác giả thì có
thể kết luận rằng Giám đốc/Tổng giám đốc
có thể và/hoặc không bắt buộc phải là người
đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, Giám đốc/Tổng giám đốc
trong thực tế thường được hiểu là người có
quyền chỉ sau Hội đồng quản trị/Hội đồng
thành viên/Chủ tịch trong việc vận hành
công ty. Do đó, nhiều người trong xã hội cho
rằng Giám đốc/Tổng giám đốc “to” như vậy
nên sẽ là người chịu trách nhiệm giải quyết
những quyền, nghĩa vụ phát sinh trong giao
dịch của công ty với họ.
Về mặt luật pháp, Giám đốc/Tổng giám
đốc công ty quả thật rất quan trọng, là người
điều hành hoạt động kinh doanh hằng ngày
của công ty, nên có quyền và nghĩa vụ cơ
bản như sau:
- Tổ chức thực hiện các nghị quyết của
Hội đồng thành viên/Hội đồng quản trị/Chủ
tịch công ty;
- Quyết định các vấn đề liên quan đến
hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty;
- Tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh
và phương án đầu tư của công ty;
- Ban hành quy chế quản lý nội bộ của
công ty, trừ trường hợp Điều lệ công ty có
quy định khác;
- Bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm các
chức danh quản lý trong công ty, trừ các
chức danh thuộc thẩm quyền của Hội đồng
thành viên;
- Ký kết hợp đồng nhân danh công ty,
trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của Chủ
tịch Hội đồng thành viên/ Hội đồng quản trị/
Chủ tịch công ty;
- Quyết định tiền lương và quyền lợi
khác đối với người lao động trong công ty
kể cả người quản lý thuộc thẩm quyền bổ
nhiệm của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc
trong công ty cổ phần;
- Kiến nghị phương án cơ cấu tổ chức
công ty;
- Trình báo cáo quyết toán tài chính
hằng năm lên Hội đồng thành viên/Chủ tịch
công ty;
- Kiến nghị phương án sử dụng lợi
nhuận hoặc xử lý lỗ trong kinh doanh;
10 Điều 145.2 Luật Công ty Singapore 1967.
Số 10 (410) - T5/202034
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
- Tuyển dụng lao động;
- Quyền và nghĩa vụ khác được quy định
tại Điều lệ công ty, hợp đồng lao động mà
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc ký với công
ty theo nghị quyết của Hội đồng thành
viên/Hội đồng quản trị hoặc quyết định của
Chủ tịch công ty11.
Như vậy, bất kỳ cá nhân nào khi được
thuê hoặc bổ nhiệm vào vị trí Giám
đốc/Tổng giám đốc công ty cũng nghiễm
nhiên có những quyền và nghĩa vụ kể trên.
Ngoài ra, họ còn có những quyền và nghĩa
vụ khác theo quy định trong Điều lệ công ty
hoặc hợp đồng lao động. “quyền và nghĩa vụ
khác” ở đây được hiểu là những quyền và
nghĩa vụ chưa được liệt kê ở phần trên. Ví
dụ như nếu trong hợp đồng lao động thuê cá
nhân A làm Giám đốc nhưng lại quy định
rằng cá nhân A này không có quyền điều
hành hoạt động kinh doanh hằng ngày của
công ty, không được tuyển dụng lao động,
không được ký kết hợp đồng là trái với quy
định trong Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Việc Giám đốc/Tổng giám đốc không
phải là người đại diện theo pháp luật đặt ra
một số vấn đề sau:
Một là, khi Giám đốc/Tổng giám đốc ký
những hợp đồng nhằm điều hành hoạt động
kinh doanh hằng ngày của công ty thì có
phải xin phép người đại diện theo pháp luật
của công ty không nếu công ty chỉ có một
người đại diện theo pháp luật là Chủ tịch Hội
đồng thành viên? Bởi lẽ, công ty là một pháp
nhân phải thông qua cá nhân - là người đại
diện theo pháp luật của nó để nhân danh
công ty và vì lợi ích của công ty xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự. Theo quy định của
Luật Doanh nghiệp năm 2014, Giám
đốc/Tổng giám đốc đương nhiên có quyền
xác lập thực hiện hợp đồng nhân danh công
ty trừ những hợp đồng thuộc thẩm quyền của
Hội đồng thành viên/Hội đồng quản trị hoặc
Chủ tịch công ty. Tuy nhiên, số lượng những
hợp đồng thuộc thẩm quyền ký kết của
những chủ thể này trong thực tiễn tại các
công ty thường là khá ít, chỉ bao gồm hợp
đồng lao động ký với Giám đốc/Tổng giám
đốc hoặc hợp đồng có liên quan đến người
quản lý trong công ty, hợp đồng có giá trị
thường lớn hơn 35% báo cáo tài chính gần
nhất. Như vậy, giả sử, Giám đốc/Tổng giám
đốc ký những hợp đồng gây thiệt hại hoặc vi
phạm pháp luật dẫn đến công ty phải vướng
vòng lao lý, hầu Tòa, thì trách nhiệm thuộc
về công ty. Giám đốc/Tổng giám đốc không
phải là người đương nhiên được tham gia
phiên tòa hoặc không phải là đối tượng bị xử
phạt hành chính. Người có thể đương nhiên
nhân danh công ty tham gia tại Tòa chỉ có
thể là người đại diện theo pháp luật của công
ty. Luật Doanh nghiệp năm 2014 cũng quy
định công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
cổ phần có thể có nhiều người đại diện theo
pháp luật. Nhưng trường hợp Giám
đốc/Tổng giám đốc không phải là người đại
diện theo pháp luật thì tuyệt nhiên không
phải hầu Tòa trừ trường hợp được ủy quyền.
Việc này dẫn đến một hiện tượng mà dân
gian vẫn gọi là “người ăn ốc, người đổ vỏ”,
mà trong trường hợp này, người đại diện
theo pháp luật không phải là người xác lập,
thực hiện hợp đồng nên sẽ gặp nhiều khó
khăn trong giải quyết. Tâm lý chung thì
không ai muốn mình đi “hầu Tòa”, kể cả là
với tư cách đại diện cho công ty.
Hai là, vấn đề trách nhiệm của Giám
đốc/Tổng giám đốc. Việc Luật Doanh
nghiệp quy định liệt kê những quyền và
nghĩa vụ của Giám đốc mà không cho công
ty khả năng chọn cho/bỏ những quyền và
11 Các Điều 64, 81, 157 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
35Số 10 (410) - T5/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
nghĩa vụ này có thể làm “khó” công ty:
“Quyền và nghĩa vụ khác được quy định tại
Điều lệ công ty, hợp đồng lao động mà Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc ký với công ty theo
nghị quyết của Hội đồng thành viên”12. Cụ
thể, nếu Giám đốc/Tổng giám đốc bị công ty
chứng minh rằng có lỗi đã ký những hợp
đồng gây thiệt hại cho công ty và người này
chấp nhận, thì vấn đề đặt ra là người này sẽ
bồi thường như thế nào? Mối quan hệ giữa
Giám đốc/Tổng giám đốc với công ty là
quan hệ lao động hay quan hệ dân sự? Giả
sử là quan hệ lao động như quy định tại
khoản 4 Điều 157 Luật Doanh nghiệp thì
theo quy định của Bộ luật Lao động: “Người
sử dụng lao động chỉ được khấu trừ tiền
lương của người lao động để bồi thường
thiệt hại Mức khấu trừ tiền lương hằng
tháng không được quá 30% tiền lương thực
trả hằng tháng của người lao động sau khi
trích nộp các khoản bảo hiểm xã hội bắt
buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,
thuế thu nhập cá nhân”13. Giả sử mối quan
hệ giữa Giám đốc/Tổng giám đốc với công
ty là quan hệ dân sự, thì sau khi Tòa tuyên
Giám đốc/Tổng giám đốc có lỗi phải bồi
thường, thì đến cơ quan thi hành án phải xác
minh khả năng thi hành án của người này.
Nếu người này có khả năng thi hành thì cơ
quan thi hành án mới thi hành được. Ngược
lại thì việc thi hành bản án sẽ bị “treo” tại
đó. Trong thực tế, nếu Giám đốc/Tổng giám
đốc có khả năng bồi thường hàng chục tỉ
đồng gây thiệt hại cho công ty thì họ đã
không chọn đi làm Giám đốc thuê. Do vậy,
việc “chốt” những quyền và nghĩa vụ của
Giám đốc/Tổng giám đốc trong Luật Doanh
nghiệp sẽ có thể “làm khó” cho phía công ty.
Ba là, việc “áp” nghĩa vụ tuyển dụng lao
động trong doanh nghiệp cho Giám
đốc/Tổng giám đốc có thể tạo mâu thuẫn với
Bộ luật Lao động hiện hành. Cụ thể: “Người
giao kết hợp đồng lao động bên phía người
sử dụng lao động là người thuộc một trong
các trường hợp sau đây: a) Người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc người
được ủy quyền theo quy định của pháp
luật”14. Như vậy, trong trường hợp Giám đốc
không phải là người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp thì phải là được người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp ủy
quyền. Ngược lại, nếu công ty trách nhiệm
hữu hạn chỉ có một người đại diện theo pháp
luật là Chủ tịch Hội đồng thành viên thì về
nguyên tắc người này sẽ phải ký toàn bộ hợp
đồng lao động trong công ty kể cả hợp đồng
tuyển lao công hay bảo vệ. Tuy nhiên, theo
Luật Doanh nghiệp năm 2014, thì Chủ tịch
hội đồng thành viên/Hội đồng quản trị hoặc
Chủ tịch công ty không được tuyển dụng lao
động, trừ hợp đồng lao động tuyển dụng
Giám đốc/Tổng giám đốc.
Bốn là, Giám đốc/Tổng giám đốc có thể
là chủ sở hữu trong công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên là cá nhân kiêm nhiệm.
Giám đốc/Tổng giám đốc có thể là người
được chủ sở hữu là cá nhân thuê, Hội đồng
quản trị/Hội đồng thành viên thuê thông qua
hợp đồng lao động. Tuy nhiên, theo quy định
hiện hành của Luật Doanh nghiệp thì dù
Giám đốc là được thuê hay là chủ, dù là lĩnh
lương 5 triệu/tháng hay 100 triệu/tháng thì
đều có những quyền và nghĩa vụ cơ bản như
nhau. Do đó, quy định này chưa thực sự thỏa
đáng.
Do vậy, với cách tiếp cận hiện nay của
Luật Doanh nghiệp là liệt kê các quyền và
nghĩa vụ cơ bản của Giám đốc/Tổng giám
12 Các Điều 64, 81, 85, 157 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
13 Điều 102 Bộ luật Lao động năm 2019.
14 Điều 18.3 Bộ luật Lao động năm 2019.
(Xem tiếp trang 64)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gop_y_quy_dinh_ve_giam_doc_trong_luat_doanh_nghiep_nam_2014.pdf